Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tìm hiểu giá trị văn hóa và kiến trúc của hoàng thành thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.91 KB, 23 trang )

Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Tìm hiểu giá trị văn hóa và kiến trúc của Hoàng
Thành Thăng Long

1. Giá trị văn hóa
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội là di tích có bề dày lịch
sử, trải dài hơn 10 thế kỷ, kể từ thành Đại La tiền Thăng Long và nhất là từ thời
vua Lý Thái Tổ (thế kỷ thứ X) đến thời đại Hồ Chí Minh. Khu di tích trung tâm
Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội có diện tích 18.395 m 2, bao gồm Khu di tích
Thành cổ Hà Nội và di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu (phường Điện Biên,
phường Quán Thánh, quận Ba Đình).
Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong
nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống
các di tích Việt Nam. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di tích có giá
trị văn hóa đặc biệt quan trọng:
Tại đây có các di tích trên mặt đất rất quí giá như: nền điện Kính thiên,
Đoan Môn, Bắc Môn, cột cờ Hà Nội, rồi Tổng hành dinh của Quân đội nhân
dân Việt Nam của thời đại Hồ Chí Minh. Hệ thống các di tích và hiện vật đã
khai quật tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu càng cho chúng ta thấy trong
lòng đất ở khu vực này chứa đựng một dòng chảy văn hoá chảy suốt cả lịch sử
Thăng Long- Hà Nội, bao gồm cả thời kỳ tiền Thăng Long ngược lên thành Đại
La thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ VIII, thứ IX, đặc biệt từ khi Vua Lý Thái
Tổ định đô Thăng Long cho đến ngày nay. Như vậy giá trị đầu tiên của Khu
trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội thể hiện ở chỗ nó gần như là một
"bộ lịch sử sống" chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử Thăng Long- Hà Nội.

1



Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Đây là kinh thành- nơi qui tụ các di sản văn hoá của cả nước, tinh hoa của
nền văn hoá của cả nước. Hơn thế nữa, nơi đây không phải chỉ kết tinh nền văn
hoá của dân tộc, toả sáng ra trong nước, mà còn là nơi hấp thu các giá trị văn
hoá của khu vực và thế giới. Đây vừa là nơi kết tinh, toả chiếu nền văn hoá lâu
đời của nước Đại Việt trước đây, Việt Nam hiện nay, vừa là nơi biến các yếu tố
văn hoá ngoại sinh thành nội sinh, làm phong phú và đa dạng thêm cho nền văn
hoá dân tộc.
Nơi đây còn là trung tâm quyền lực, trung tâm chính trị của đất nước.
Đây là nơi các vương triều trước đây, cũng như Đảng và Nhà nước trong thời
hiện đại đã đưa ra các quyết sách trong xây dựng đất nước, cũng như trong bảo
vệ đất nước, tạo nên các thời kỳ huy hoàng của lịch sử, vượt lên bao khó khăn,
thử thách.
Qui mô vùng bảo tồn của trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội, là
toàn bộ diện tích của khu vực khảo cổ học 18 Hoàng Diệu rộng hơn 18 ha,
cùng với khu Thành cổ được bao bọc bởi 4 con đường: phía Bắc là đường Phan
Đình Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn
Tri Phương, phía Tây là đường Hoàng Diệu. Hai khu này được kết nối với nhau.
Cứ hình dung trục trung tâm bao gồm 4 mặt phố ở phía bên này như là bìa của
cuốn sách nơi ta có thể cảm nhận khái quát nhất về trục trung tâm của cấm
thành Hoàng thành Thăng Long, thì lật giở từng trang lịch sử của khảo cổ học từ
thời Đại La, cho đến Lý, Trần, Lê, Nguyễn... đều có thể đọc được những dấu ấn
của di tích, của kiến trúc, của hiện vật để minh chứng cho những điều mà chúng
ta đã biết trong sử sách.

2. Kiến trúc

2


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Phạm vi di sản thế giới được công nhận là 20 ha (trên tổng số 140 ha của
Hoàng thành) gồm khu khảo cổ ở số 18 đường Hoàng Diệu và khu vực được
giới hạn bởi 4 tuyến đường Điện Biên Phủ, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình
Phùng và Hoàng Diệu. Các di tích tiêu biểu của khu di tích:

Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu
Di tích này bao gồm tầng dưới cùng là một phần bên phía đông của thành
Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường, tầng trên là cung điện nhà Lý và nhà
Trần, tiếp theo là một phần trung tâm của đông cung nhà Lê và trên cùng là một
phần của trung tâm tòa thành tỉnh Hà Nội thế kỷ 19.

Một phần của khu di tích 18 Hoàng Diệu
Kiến giải của các nhà khảo cổ về một số phế tích ở đây chỉ là những nhận định
ban đầu. Tuy chưa thể khẳng định về quy mô và công năng của tất cả các công
trình nhưng rõ ràng các phế tích này cho thấy một quần thể kiến trúc toà ngang
dãy dọc khá phong phú. Dung mạo của một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long
xưa đã hiển hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là hình ảnh của sách vở,
chữ nghĩa. Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số
lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua
nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Những khám phá này đã thực sự mở ra một
cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong
Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.
3



Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía
Cột cờ Hà Nội

Cột cờ Hà Nội là di tích được xây dựng năm 1812 dưới triều Gia Long
cùng lúc xây thành Hà Nội theo kiểu Vô-băng (Vauban). Cột cờ cao 60 m, gồm
có chân đế, thân cột và vọng canh. Chân đế hình vuông chiếm một diện tích là
2007 m² và gồm 3 cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đều có tường hoa với hoa văn bao
quanh. Từ mặt đất lên tới chân cấp thứ 2 phải leo 18 bậc tại mặt phía Đông và
mặt phía Tây. Muốn từ cấp 2 lên cấp 3 cũng phải leo 18 bậc ở hai cửa hướng
Đông và Tây. Còn cấp thứ 3 có 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc (với các tên
"Nghênh húc" (Đón ánh nắng ban mai), "Hồi quang" (ánh nắng phản chiếu),
"Hướng Minh" (hướng về ánh sáng)…) và từ cạnh dưới lên tới cạnh trên phải
qua tới 14 bậc cầu thang.
Nhân dân có bài thơ mô tả về Cột cờ Hà Nội:
Kỳ đài năm thước vút trời cao
Thông đạt trong tâm có đường vào
Trong sáng muôn nơi dồn cả lại
Trung tâm thiên hạ đẹp biết bao!

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
Đoan Môn
4


Hoàng Thành Thăng Long


Chùa Mía

Đoan Môn
Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm
cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 - 1814, triều
Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn còn sừng sững). Năm 2002, giới
khảo cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối
xưa xe ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có
thể thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây
Nam thành Hà Nội.

Điện Kính Thiên
Điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính trong tổng thể các địa
danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Điện Kính Thiên chiếm vị trí trung tâm của
khu di tích. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía
sau có Hậu Lâu, Cửa Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ.
Dấu tích điện Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền cũ. Phía nam nền điện
còn có hàng lan can cao hơn một mét. Mặt trước, hướng chính nam của điện
Kính Thiên xây hệ thống bậc lên bằng những phiến đá hộp lớn. Thềm điện gồm
10 bậc, 4 rồng đá chia thành 3 lối lên đều nhau tạo thành thềm rồng. Bốn con
rồng đá được tạo tác vào thế kỷ 15 thời nhà Lê. Điêu khắc rồng đá điện Kính
Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu
khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to,
5


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía


mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau, miệng hé mở, ngậm hạt ngọc.
Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện
ở trên. Trên lưng rồng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa. Hai
thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài, chính là hai con rồng
được cách điệu hoá. Nền điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã phần nào phản
ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa.

Điện Kính Thiên Năm 1886
Năm Ất hợi 1879 khi Trương Vĩnh Ký ra Hà Nội ông có vào điện Kính Thiên
xem qua và kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi. Dù trong thời buổi suy
tàn đó khi quân Pháp đã đánh chiếm thủ phủ Bắc Kỳ những cột gỗ lim theo bản
tường trình tả có tầm vóc rất lớn, chu vi bằng một người ôm. Những điện đài
phía sau điện Kính Thiên lúc đó đã hư hại nhiều nhưng vẫn để lại ấn tượng cho
người khách Nam Kỳ.

Nhà D67

6


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Từ Tổng hành dinh - Nhà D67 Khu A Bộ quốc phòng, Bộ Chính trị và Quân uỷ
Trung ương đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của
cách mạng Việt Nam. Đó là: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng
tiến công năm 1972 Đánh thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày
đêm cuối năm 1972. Tổng tiến công năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh.


Phòng họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong hầm ngầm D67
Khu hầm lớn nhất nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67
dành cho Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương gọi là hầm D67. Hai đường dẫn
xuống hầm bắt nguồn từ hai phòng làm việc của tướng Giáp và tướng Dũng
trong nhà D67, đường hầm rộng 1, 2m, có 45 bậc thang bêtông, trát đá granite.
Đi sâu xuống 10m là hệ thống văn phòng của tổng hành dinh ngầm gồm bốn
phòng rộng 50m2, chung một hành lang bên phải. Phòng họp hình chữ nhật toàn
khối, nền lát gạch, có một cửa ra vào. Các phòng bên dành cho ban thư ký và
phòng để máy móc, điện đài. Cuối cùng là phòng chứa hệ thống thông hơi, lọc
khí đồ sộ chạy điện được chế tạo tại Liên Xô. Các lối lên xuống của hai đường
hầm và cửa ra vào có tới sáu cửa thép sơn xanh dày 12cm, có nhiều tay nắm và
hệ thống gioăng cao su có thể ngăn nước và khí độc.
Toàn bộ hệ thống hầm ngầm đều liên hoàn đường điện máy phát. Hệ thống
thông tin, liên lạc, hậu cần, lương thực… đều đầy đủ. Đầu ra của hai cửa hầm
này dẫn lên phòng làm việc của hai đại tướng tại nhà con rồng. Ngoài hệ thống
hầm ngầm này, khu A thành cổ còn nhiều hệ thống hầm ngầm khác. Riêng
7


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

những bộ phận đã được bàn giao cho ban quản lý thành cổ là bốn khu hầm.
Ngoài hầm của Bộ Chính trị vừa nói còn có hầm trước cửa nhà “con rồng”
(dưới nền điện Kính Thiên), hầm gần khu làm việc của Cục Tác chiến và hầm
của Ban cơ yếu có qui mô nhỏ hẹp, đơn giản hơn nhưng cũng chống được bom
và tên lửa hạng nặng.
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền cho biết: những năm 1965- 1966 Mỹ bắn phá

miền Bắc, Bộ Tổng tham mưu lập kế hoạch bảo đảm an toàn cho cơ quan đầu
não tại thành cổ với ba mức: báo động, xuống hầm và di tản. Hệ thống hầm
ngầm sẽ được sử dụng ở mức báo động 2. Ông kể: "Nhiệm vụ thiết kế, xây
dựng nhà, hầm được giao cho Bộ tư lệnh Công binh. Một số bộ phận như máy
thông hơi, lọc khí, cửa sắt, điện đài… được nhập khẩu từ Liên Xô. Khoảng 300
cán bộ từ nhiều trung đoàn chuyên môn được huy động đào, xây hầm."
Hằng đêm, vào giờ giới nghiêm, thắp điện làm việc trong sự canh phòng cẩn
mật. Hệ thống nhà, hầm được xây dựng sáu tháng thì hoàn tất. Bộ Chính trị,
Quân ủy trung ương dời địa điểm làm việc từ nhà “con rồng” xuống nhà D67.
Thời kỳ Mỹ ném bom thỉnh thoảng Bộ Chính trị mới phải làm việc dưới hầm
ngầm.
Tại hầm ngầm dành riêng cho Cục Tác chiến trong thành cổ Hà Nội hôm nay
vẫn còn rất nhiều máy điện thoại thời chiến.

Hậu Lâu
8


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Khung cảnh Hậu Lâu xưa
Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện
Kính Thiên là hành cung của thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại
là phía bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới
có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau), hoặc là lầu Công
chúa do cho rằng đây là nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống vua
Nguyễn ra ngự giá Bắc thành.


Cửa Bắc

Cửa Bắc bên ngoài vào năm 2009.
Tên Hán Việt là Chính Bắc Môn, là một trong năm cổng của thành Hà Nội thời
Nguyễn. Khi Pháp phá thành Hà Nội họ giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết
đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành Hà
Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội là
Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
9


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Phần II. Trình bày đặc điểm kiến trúc và hệ thống
tượng thờ của chùa Mía.
10


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây là nơi thu hút không ít nhiếp ảnh gia, đạo
diễn, các nhà quay phim và nhiều học giả. Không chỉ có truyền thống văn hóa,
lịch sử lâu đời, đây còn là mảnh đất du lịch rất đẹp. Đường Lâm là một điển
hình làng cổ Việt Nam, vừa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa
cấp quốc gia. Nơi đây vẫn còn cây đa, bến nước, sân đình, những ngôi nhà đỏ
rực tường như đá ong kiên cố, như chẳng hề có vết tích thời gian. Đặc biệt

Đường Lâm có chùa Mía ẩn mình trong sương sớm, nơi để con người chìm vào
thế giới thâm nghiêm, tạm quên đi cuộc sống ồn ào, vội vã.
Chùa Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần
thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và gìn
giữ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Chùa Mía tên hiệu là “Sùng Nghiêm
Tự”, nằm trên vùng đồi của làng Đông Sàng (xã Đường Lâm, thành phố Sơn
Tây), cách Hà Nội gần 50 cây số về phía tây.
Chùa Mía được xây dựng vào thời Trần. Ðến thế kỷ 17, chùa đã bị đổ nát,
hoang phế nhiều. Năm 1632 Cung phi Nguyễn Thị Ngọc Dong đã đứng ra
khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Sàng, Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam
Toàn… thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại. Cung Phi
Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, là phi tần trong phủ chúa Trịnh
Tráng (1623 – 1657) vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong Tổng
Mía. Nhân dân trong vùng mến mộ uy đức của Bà, đã tạc tượng đưa vào phối
thờ ở Chùa và còn có đền riêng. Vì tôn kính nên gọi là “Bà Chúa Mía.” Về sau
Chùa được tu bổ nhiều lần, song đến nay quy mô tôn tạo thời Bà chúa Mía
dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Tượng Phật ở Chùa Mía không chỉ đặc sắc về hình dáng, mà còn phong
phú về số lượng. Trong Chùa hiện thờ 287 tượng lớn nhỏ, gồm 6 tượng đồng,
107 tượng mộc và 174 tượng thổ. Trăm pho trăm vẻ, nhưng pho nào cũng tạo ra
một kiểu dáng sống động, màu sắc chế phối hài hòa. Từ cử chỉ của ngón tay đến
11


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

cài nhìn của khóe mắt, đều cho khách viếng thăm thấy được nét độc đáo phi


TẢ HỮU HÀNH LANG

phàm mà lại đầy vẻ từ bi hỷ xả: “Người xưa đã tạc bao nhiêu tượng, đầy vẻ từ
bi dáng cứu đời.”
Từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), chùa đã được xếp hạng di

HẬU ĐƯỜNG

tích và thường xuyên được trùng tu. Chùa Mía được xây dựng theo kiểu “nội
công, ngoại quốc”, phía sau có thêm hậu đường. Từ ngoài vào, tam quan nhà
chùa nằm ngay dưới tán cây đa cổ thụ 400 năm tuổi trông rất cổ kính, thâm

TẢ HỮU HÀNH LANG

nghiêm, qua cổng chùa là khoảnh sân được lát gạch thoáng đãng, cây cối xanh
mát, không khí trong lành. Qua dãy nhà thờ Tổ là chùa Chính, Tiền Đường,
Thượng Điện, Hậu Đường, tả hữu hành lang nối liền vào Hậu đường, vây quanh

ĐIỆN
thượng điện, tất cả gồm 27 gianTHƯỢNG
tạo thành một
cụm kiến trúc khép kín vừa mang
vẻ thanh nghiêm vừa có ánh sáng thiên nhiên vì giữa các gian chùa vẫn có
khoảng không cách mái.

TIỀN ĐƯỜNG

SÂNtrúc
CHÙA
Sơ đồ kiến

chùa Mía

NHÀ TỔ

NHÀ KHÁCH

THƯỢNG ĐIỆN

CÂY ĐA,
12

TAM QUAN

TÒA
THÁP
CỔ


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Tam quan

13


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía


Trong khuôn viên chùa, mở đầu là tam quan, lên tam quan phải qua năm bậc, đó
là hình tượng chúng sinh của năm phương thế gian hội tụ về mảnh đất trí tuệ
này.

Cổng Tam Quan
Tam quan có hai tầng mái tượng cho âm - dương đối đãi để mỗi khi tiếng thu
không rung lên như nhắc nhở trời - đất, âm - dương hoà hợp, và để cho con
người mỗi sáng mỗi chiều tự dọn lòng mình, hoà vào thiên nhiên vũ trụ nhằm đi
tìm chính mình, chính tâm. Tầng trên của tam quan đặt tượng của một vị hộ
pháp nhỏ đứng, hai tay tượng chắp trước ngực, đầu đội mũ kim khôi, mặc áo
giáp nhẫn nhục với các hoa văn nổi khối. Trong tư cách đó, các nhà nghiên cứu
nghệ thuật tạo hình Phật giáo thường cho rằng đây là bóng dáng của thái tử Kỳ
Đà, đôi khi còn gọi là đức Tam Châu.
Tầng dưới của Tam quan hiện nay còn để hai tấm bia đá cổ to vừa phải, tấm bia
bên phải Thập phương công đức bi ký được làm năm Cảnh Hưng 11 (1750) và
tấm bia bên trái làm năm Vĩnh Tộ 2 (1620). Đáng quan tâm ở tấm bia Vĩnh Tộ
là diềm bia còn giữ được vân leo tay mướp theo phong cách thời Mạc, mặt
trước trán bia được thể hiện đôi rồng chầu mặt trời và mặt sau thay cho đôi rồng
chầu là hai hoa cúc tượng cho mặt trời - mặt trăng hay tượng cho âm - dương
đối đãi.

14


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Cây đa cổ, tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên hoa

Bước qua cổng Tam quan, nhìn sang bên phải, du khách sẽ nhìn thấy cây đa cổ,
gốc to khít vòng tay mấy người ôm, rễ cây rắn chắc nổi lên trên mặt đất.Tán lá
xòe ra như những bàn tay khổng lồ của đức Phật chở che cho hết thảy chúng
sinh hướng tâm về cõi Niết bàn. Đã mấy trăm năm qua bao thăng trầm lịch sử,
rễ, cành đa chắt chiu hương đất khí trời để bảo tồn sự sống cho tươi cành xanh
lá, chống chọi với phong sương tuế nguyệt và thăng trầm lịch sử. Thân cây
vững chãi, sù sì những u mấu của thời gian tựa như đức Phật khổ hạnh kiếp tu
hành. Thân đa đường bệ như thế đứng của người đắc đạo trước Thiền môn
thanh tịnh. Đối đỉnh với ngọn đa già là tòa bảo tháp cửu phẩm Liên hoa. Tòa
tháp này mới được xây dựng để thờ vọng Xá lợi Phật. Đây cũng là ngọn Tháp
bút, Kính thiên, được coi là trấn giữ cho mạch âm của làng quê được an lành và
phát triển. Tòa tháp có chin tầng hoa sen, mỗi tầng tháp xòe hình đầu rồng cong
vút trạm trổ công phu. Có lẽ chin tầng tượng trưng cho chín kiếp tu hành khổ
não của Đức Phật để đạt tới quả phúc. Trong lòng tháp một đường cầu thang
hình xoáy chon ốc lên đến đỉnh tháp. Tầng trên cùng thờ vọng Xá Lị Đức Phật.

Cây đa và ngọn tháp cổ
15


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Tiền Đường
Tiếp sau của tam quan là đường nhất chính đạo dẫn vào sân chùa. Bao quanh
khu sân gạch bên tả là nhà khách khang trang rộng rãi dưới rợp mát bóng cây.
Nhà Tổ ngự bên hữu sân. Từ đây, vào đến Tiền Đường chúng ta phải bước qua
bảy bậc, mà theo nhà chùa là tượng trưng cho bẩy bước đi của đức Phật vào


Lầu


Tấm bia năm Đức
Long

toàn cõi vũ trụ để cứu vớt muôn loài về miền hạnh phúc.

Điện
Mẫu
Lầu
Cậu

Tiền Đường

Tiền Đường cao ráo thoáng đạt, vốn là nơi để khách thập phương dừng
chân soạn lễ, chỉnh đốn tư thế trước khi lên Chính Điện chiêm bái Tam Bảo.
Nay mới đặt thêm Ban thờ Mẫu. Phía trái Tiền Đường dựng một tấm bia lớn đặt
trên lưng rùa, lòng bia ghi rõ niên đại Đức Long thứ 6 (1632) đời Lê. Đây là
một tấm bia có kích cở lớn nhất và cũng là bia có niên đại cổ nhất ở khu vực
Chùa. Trán bia có chạm hình lưỡng long chầu nguyệt. Phía dưới là đài sen rực
rỡ. Diềm bia chạm hoa cúc liền sát nhau đan thành dây leo bao phủ. Nét khắc
mềm mại uyển chuyển, càng làm Tăng thêm vẽ uy nghi cho những hàng chữ
Hán đang tung hoành ngang dọc trên bia.

16


Hoàng Thành Thăng Long


Chùa Mía

Ở giữa xây bệ gạch, rộng, đây là nơi du khách thập phương ngồi hàn huyên sau
khi dâng hương lễ phật. Bên phải đặt ban thờ tam tòa thánh Mẫu, hai bên ban
thờ là lầu Cô, lầu Cậu. Ở Điện Mẫu có thờ tượng 3 mẫu là: mẫu Thượng Ngàn,
mẫu Thượng Thiên và mẫu Thoải.

Thượng Điện
Tiếp đến là tòa Thượng Điện, tòa nhà này nằm song song với tòa Tiền Đường,
hai hàng giọt ranh của hai tòa nhà này chỉ cách nhau một bước chân. Bước qua

BÁT BỘ KIM CƯƠNG

BÁT BỘ KIM CƯƠNG

đường gạch thấp giữa hai giọt ranh đến tòa Đại Hùng Bảo Điện.

HỘ
Ban
PHÁP
thờ

Khuy
Trừng
Thượng Điện
chúa
ến
Ác
Mía
Ở giữa là ban Tam Bảo, quỳ trước Tam Bảo, ta kính cẩn lễThiện

phật rồi thận
HỘ
PHÁP

Động
phật
Giáng
Sinh

BAN
TAM
BẢO

trọng mạn phép được chiêm bái tượng phật.

Mở đầu là pho tượng Thích Ca Mầu Ni sơ sinh, hai bên là tượng Nam Tào, Bắc
Đẩu. Tượng người choàng áo đỏ đứng trong vòm cong cửa động Cửu Long.
Tiền than của Thích Ca Mầu Ni là thái tử Tất Đạt Đa. Tiếp bệ sau là tượng
Thích Ca sơ sinh nữa. Người choàng áo đỏ, kề bên người là tượng Kim Đồng
Ngọc Nữ. Tượng Ngọc Hoàng, Lão Tử to hơn đứng kề hai bên. Ôm sát hai bên
bệ thờ là hai hàng tượng Thập nhị Minh Vương, mười hai vị vua trời cai quản
17


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

12 năm ở cõi dương gian. Tiếp đó là bộ tượng thích ca sơ sinh bằng đồng, tượng
chỉ cao 0,8m khoác áo đỏ. Phía sau là tượng A-Di-Đà bằng đồng, cao 1,2m,

dáng đứng từ bi. Pho tượng này còn có tên là A-Di-Đà Phật Phóng Quang. Tiếp
đến là tượng Thích Ca sơ sinh nữa. Người mắc áo đỏ đứng trong vòm cong cửa
động Cửu Long và hai đệ tử của Người.

Tiếp là hai pho tượng có kích cỡ to nhất ở Tam Bảo – tượng hai vị Ngọc Hoàng
Thượng đế, đó là tượng Đại Phạm Thiên Vương và tượng Đế Thích, là hai đệ tử
thân cận và tin cậy nhất của Phật. Hai vị tọa trong long ngai hình đầu rồng. Đầu
rồng uốn lượn vòng vào chầu Ngọc Hoàng.
Tiếp theo là pho tượng A-Di-Đà bằng đồng tuyệt đẹp. Tượng tọa trên tòa sen
dáng thiền định. Ngài tu khổ hạnh, kiên trì trong mười đời chín kiếp mới đắc
đạo thành Phật, tóc Phật quăn như hình xoắn ốc. Bên phải là tượng Đức Địa
Tạng. Bên trái là Đức Mục Liên, hai pho tượng này có kích cỡ to hơn tượng ADi-Đà nhưng lại tọa ở vị trí thấp hơn, đó là hai đệ tử của Phật.
Đặc biệt hơn cả là pho tượng Bá Đại Hòa Thượng, dân gian thường gọi ông là
Di Lặc. Người ngồi ghế bành dáng như thái đường bệ. Mọi điều thật giả thiện
ác ở trần gian chứa cả trong lòng người rồi được tâm Người gột rửa, giải thoát.
Sự giải thoát toát lên vẻ không còn khổ não, khiến cho nụ cười của Người đạt
tới đỉnh cao của sự viên mãn mà vẫn phảng phất nét uy linh. Tiếp nữa là tượng
Phật Di Đà Tam Tôn, hai bên là tượng Quan Âm và tượng Thế Chí. Trên cùng
là hai bộ Tam Thế Phật. Chùa có tới hai hàng Tượng Tam Thế với kích cỡ khác
nhau, ba pho ba vẻ khác nhau, pho thì mang tâm trạng quá khứ, pho thể hiện vẻ
18


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

hiện đại và pho ẩn chứa sự khát vọng vị lai. Bên trái (Tam Bảo nhìn ra) là hàng
bệ Phật. Đầu tiên là pho tượng đong đầy sự khắc khổ, tử hình dáng đến khuôn
mặt đầy nét lo âu phiền não. Tiếp đến là tượng Văn Thù Bồ Tát, kề bên là bức

tượng tiền thân của Phật Bà Quan Thế Âm Nam Hải. Tiếp sát tường hậu là pho
tượng Bồ Tát Nam Hải Quan Âm – Bà Chúa Ba đắc đạo. Hai bên là hai tượng
Kim Đồng, Ngọc Nữ, hai đệ tử của Người. Sang bên phải sát tường hậu là
tượng tiền thân Quan Thế Âm Bồ Tát. Tiếp đến là pho tượng Phổ Hiền Bồ Tát.
Đối diện với gian đốc bên kia là tượng Văn Thù Bồ Tát.
Kề bên Tam Bảo là động Phật Giáng Sinh, tòa động đồ sộ diễn tả cảnh các
chư vị bận rộn, ngạc nhiên lo lắng mừng rỡ quanh Hoàng Hậu Ma Da. Người
vịn cành cây Ưu Bát La trong vườn thượng uyển Lâm Tỳ Ni. Nhân khi Hoàng
Hậu giơ tay với cành cây thái tử đã ra đời. Người đản sinh ở ngay nách mẹ.
Bên kia Tam Bảo đối diện với động Phật Giáng Sinh là bệ thờ Bà Chúa
Mía để tưởng nhớ công ơn cao vời của Người. Tượng bà cao gần bằng người
thường, khuôn mặt trái xoan trong sáng, hiền phúc.
Kề bên là là tượng thái tử Thiện Hữu mà dân gian thường gọi là ông Hộ
Pháp – Khuyến Thiện, một pho tượng khá đẹp và to nhất trong các tượng ở chùa
Mía. Người ngồi uy nghi trên lưng con Thanh Sư ngoan ngoan, gương mặt
Người ngời ngời vẻ hiền phúc của đấng trượng phu từ bi. Đối diện thái tử Thiện
Hữu là thái tử Ác Hữu – Trừng Ác. Hai ông là hai anh em ruột, tượng cũng cao
lớn như tượng ông Thiện, người ngự trên con Thanh Sư vẻ mặt dữ dằn, ánh mắt
ông ác sắc như dao cau. Có lẽ mọi lỗi lầm của phàm trần đều không qua khỏi
ánh mắt sáng quắc của ông.
Hai đầu hồi ở hai toa chính điện là hai hàng tám vị Bát Bộ Kim Cương,
tám pho tượng tuyệt hảo. Tám vị bảo vệ cho tám hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc,
Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc.

19


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía


Tả Hữu Hành Lang
Từ hàng tượng Bát Bộ Kim Cương qua cửa hậu chính điện là dãy hành lang
chín vị La Hán ngự trên bệ cao. Đối diện là hành lang bên phải, ở đó cũng có
tượng chín vi La hán. Tựu trung là Thập Bát La Hán, nhóm tượng La Hán gợi
niềm cảm thông với những số phận con người nơi trần thế trong cảnh lưu lạc
đọa đày, oan khiên… Họ tìm về cõi Phật tu hành.

Qua dãy tượng La Hán bên trái là ban thờ Thánh Tăng A Nan (Đức Thánh
Hiền), đối diện đầu dãy tượng La Hán bên phải là ban thờ Đức Ông Cấp Cô
Độc.

Hậu Đường
Đi hết hai bên tả hữu hành lang là đến tòa Hậu Đường, tòa nhà này rộng rãi
nhưng hơi thấp khiến cho không gian ở đây có vẻ u tịch, huyền bí.

Ban
thờ
Mẫu
Liễu
Hạnh

Ban
thờ
Đức
Thánh
Quan

Động
Tuyết

Sơn

Động
Nam
Hải

20

Hậu Đường

Ban
thờ
Đức
Chuẩn
Đề

Động
Quan
Âm
tống
tử

Ban
thờ
Nam
Tào,
Bắc
Đẩu



Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

Bên tả tòa nhà là ban thờ Nam Tào Bắc Đẩu. Tiếp đó là động Quan Ân
tống tử, cửa động có hai vị Kim Cương canh giữ, mái động gồ ghề, các nhũ đá
thiên hình vạn trạng, nhiều hang hốc. Trong động, Quan Âm Thị Kính bế đứa
bé trên tay nâng niu đón đỡ nhằm giáo dục mọi người có thiện tâm và nhẹ
nhàng với con trẻ. Bên trên Người, về phía sau là pho tượng nằm, tay chống vào
tai ghếch đầu lên, đó là tượng nhập Niết Bàn, phía dưới Người có hai pho
tượng, một ông già và một bà già, khuôn mặt khắc khổ phàm trần, có lẽ là thân
phụ và thân mẫu của người.

Tượng Quan Âm Tống Tử
Tiếp đến là ban thờ Đức Chuẩn Đề. Người tọa thiền trên tòa sen, đệ tử
bên trái tọa thiền trên tòa sen tay nâng be rượu, đệ tử bên phải cũng tọa thiền
trên tòa sen tay nâng pho sách.
Tiếp theo là động Nam Hải – Quan Âm Nam Hải – Quan Âm chùa
Hương – Bà Chúa Ba ngồi ở giữa, tư thế ung dung từ bi, gương sắc hồng hào.
Tượng cao hơn ở phía sau là Đức Từ Phụ. Động được mô tả như một quả núi có
hang động, diễn tả cảnh Thiên Phủ, Địa Phủ và Âm Phủ. Địa Phủ nơi Quan Thế
Âm Nam Hải từng sống ở dương gian. Cảnh Âm Phủ khi Người được đưa
21


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

xuống thăm địa ngục Người đã xin vua Diêm Vương mở cửa ngục ân xá cho

những kẻ tù tội, Thiên phủ nơi Người nhập Niết Bàn về cõi Tây Thiên linh
thiêng.
Qua động Nam Hải là động Tuyết Sơn, động nhỏ hơn động Nam Hải.
Pho tượng Tuyết Sơn tượng trưng cho đức phật khi Người còn là thái tử, đạo sĩ
Tất Đạt Đa theo phép tu hành của nhóm Bạt Già. Mỗi ngày Người chỉ ăn một
hạt vừng hay hạt đỗ dẫn đến cơ thể tiều tụy, da bọc xương.

Động Tuyết Sơn
Tiếp theo là bàn thờ Thánh Quan, cuối cùng là bàn thờ mẫu Liễu Hạnh.
Tượng mẫu Liễu Hạnh đứng giữa hai đệ tử của Người. Mẫu là sự kết tinh của
người phụ nữ Việt Nam. Là tứ vị Bất tử trời Nam, Mẫu khi là người thường, khi
là tiên và tài năng tâm đức của Người đã hóa Phật.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, với nghệ thuật kiến trúc dân tộc giản dị
nhưng đầy tôn nghiêm, một hệ thống tượng Phật cùng với công trình kiến trúc
độc đáo đã vượt ra ngoài giá trị vật thể tạo nên hình tượng, chùa Mía xứng đáng
được coi là di tích kiến trúc nghệ thuật.

22


Hoàng Thành Thăng Long

Chùa Mía

23



×