Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Vai trò của vốn đối với phát triển kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 37 trang )

Kinh tế phát triển
Giảng viên:
Nhóm:

Đề tài: Vai trò của vốn đối với phát triển
kinh tế ở Việt Nam

1


A. Mở đầu.

Nhà kinh tế học Adam Smith đã nghiên cứu và đi đến kết luận vai trò của
vốn thông qua phạm trù tư bản: vốn là tư bản mang lại thu nhập, tư bản là cái
bộ phận dự trữ nhờ đó mà con người trông mong nhận được thu nhập. Nghiên
cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng tư duy biện chứng và phương pháp
khoa học, C.Mác đã làm rõ bản chất kinh tế của vốn là khởi đầu của quá trình
sản xuất, kinh doanh, Ông chỉ rõ: “giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những
được bảo tồn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm
một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động đó đã biến
giá trị thành tư bản”. Như vậy, bản chất của vốn là giá trị, chức năng của vốn là
sinh lời, nhưng để giá trị thành tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua quá trình
vận động. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở, tiền đẻ ra tiền và lớn
lên không ngừng. C.Mác đã khẳng định “giá trị trở thành giá trị tự vận động,
thành những đồng tiền tự vận động, và với tư cách là như thế, nó trở thành tư
bản. Nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi lại trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sôi
nảy nở trong lưu thông, quay trở về dưới dạng đã lớn lên và lại không ngừng
bắt đầu cũng một vòng chu chuyển ấy”.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn là loại hàng hóa đặc biệt
không chỉ là nguồn lực quan trọng đối với các nước phát triển, mà còn là yếu tố
cấp thiết đối với hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Do đó,


vốn đã được các nhà kinh tế học luôn quan tâm nghiên cứu và tiếp cận ở những
hình thái khác nhau.
Một là, dưới hình thái tiền tệ, vốn là tiền của bỏ ra kinh doanh nhằm sinh
lời. Vốn tiền tệ luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất, đồng thời từ
trạng thái vật chất sang hình thái tiền tệ.
Hai là, dưới hình thái vật chất, tổng số vốn của nền kinh tế đã tích luỹ
được còn gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích luỹ, có thể chia
thành hai nhóm: vốn sản xuất và vốn phi sản xuất.
- Vốn sản xuất, bao gồm công xưởng, nhà máy; trụ sở, trang thiết bị văn
phòng; máy móc, phương tiện vận tải; các công trình hạ tầng; tồn kho của tất cả
các loại hàng hóa. Đây là những tư liệu sản xuất không được chuyển hóa hết giá
trị trong một quá trình kinh doanh, có thể được tái sử dụng trong những quá
trình kinh doanh tiếp theo.
- Ngoài vốn sản xuất, tài sản quốc gia còn bao gồm vốn vật chất phi sản
xuất như các công trình phúc lợi công cộng, công trình kiến trúc quốc gia, các cơ
sở quân sự... Như vậy, vốn sản xuất phản ánh năng lực sản xuất của một doanh
nghiệp hay của một quốc gia và nó quyết định khả năng hấp thụ vốn đầu tư.
Ba là, vốn đầu tư, là toàn bộ các khoản chi phí vật chất hoạt động đầu tư,
bao gồm việc thay thế, phục hồi, sửa chữa, phát triển mới các công trình kinh tế,
phúc lợi xã hội. Vốn đầu tư còn là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở kinh
2


doanh, dịch vụ của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra
tiềm lực kinh tế lớn hơn trong kinh doanh, dịch vụ.
Vốn đầu tư bao gồm đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho phi sản xuất. Vốn
đầu tư cho sản xuất là khoản chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải loại
thông qua quỹ khấu hao và chi phí để tăng tài sản cố định mới, tăng tài sản tồn
kho và được gọi là tổng đầu tư (đầu tư thuần tuý chỉ bao gồm phần tăng mới).

Còn vốn đầu tư cho phi sản xuất chủ yếu là đầu tư các công trình công cộng,
phúc lợi xã hội, căn cứ quân sự. Như vậy, vốn đầu tư nhằm bù đắp các tài sản
quốc gia trong quá trình sử dụng, tăng mới tài sản quốc gia, đồng thời đảm bảo
cho chiến lược, mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Bên cạnh vốn tồn tại dưới hình thái vật chất, còn có các loại vốn vô hình
như: bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu, sở hữu trí tuệ…
không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng nó đóng vai trò giá trị kinh tế cao và
cũng là nguồn lực vốn không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Như vậy,
vốn là nguồn lực kinh tế rất quan trọng, nó hình thành và phản ánh sự vận động
tồn tại của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia.
Riêng đối với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và
ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng định
chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển
của mọi đất nước.
B. Tổng quan, lý thuyết.
I.

Khái niệm.
Vốn là một phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là nguồn lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Việt Nam có nền kinh
tế đang phát triển, vốn vừa là phương thức, vừa là điều kiện để thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế; vốn tạo ra khả năng huy động, sử dụng và khai thác hiệu
quả mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế-xã hội,
thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn là loại hàng hóa đặc biệt
không chỉ là nguồn lực quan trọng đối với các nước phát triển, mà còn là yếu tố
cấp thiết đối với hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.


3


II.

Phân loại.
1. Phân loại vốn.

Một là, dưới hình thái vật chất, tổng số vốn của nền kinh tế đã tích luỹ
được còn gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích luỹ, gồm hai nhóm:
vốn sản xuất và vốn phi sản xuất.
- Vốn sản xuất: là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương
tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và
vốn lưu động.
+ Vốn cố định (tài sản cố định) bao gồm:
(1) công xưởng, nhà máy.
(2) trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng.
(3) máy móc thiết bị, phương tiện vận tải.
(4) cơ sở hạ tầng.
+ Vốn lưu động (tài sản lưu động) bao gồm: (5) tồn kho của tất cả các
loại hàng hóa.
-Vốn phi sản xuất gồm: các công trình phúc lợi công cộng, công trình
kiến trúc quốc gia, các cơ sở quân sự... Như vậy, vốn sản xuất phản ánh năng lực
sản xuất của một doanh nghiệp hay của một quốc gia và nó quyết định khả năng
hấp thụ vốn đầu tư.
Hai là, vốn đầu tư là nguồn lực tích luỹ được cuả xã hội, cơ sở sản xất
kinh doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện
dưới các dạng tiền tệ các loại hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và
hàng hoá đặc biệt khác. Nguồn vốn đầu tư là các kênh tập trung và phân phối
cho vốn đầu tư phát triển đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.

Có thể nói, vốn đầu tư được đầu tư để làm gia tăng quy mô và chất lượng
của vốn sản xuất, từ đó phát triển quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm.
2. Phân loại vốn đầu tư.

2.1.Nguồn vốn trong nước.
- Tiết kiệm chính phủ:
Tiết kiệm chính phủ ở đây chỉ giới hạn trong phạm vi tiết kiệm của
ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng tổng số thu nhập
trừ đi chi tiêu. Thu ngân sách nhà nước chủ yếu là các khoản thu thuế, ngoài ra
còn có các khoản thu phí và lệ phí có tính chất thuế.
4


-

Tiết kiệm của doanh nghiệp:
Tiết kiệm doanh nghiệp bao gồm:lợi nhuận doanh nghiệp,quỹ khấu
hao của doanh nghiệp. Lợi nhuận doanh nghiệp được xác định trên cơ sở doanh
thu của doanh nghiệp và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận giữ lại công ty cùng quỹ khấu
hao trở thành nguồn vốn đầu tư của công ty.

-

Tiết kiêm hộ gia đình:
Tiết kiệm hộ gia đình phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình.
Thu nhập hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng( DI) và các khoản thu
nhập khác như: viện trợ, thừa kế, bán tài sản,trúng vé xổ số, thậm chí các khoản
đi vay…Chi tiêu bao gồm: các khoản chi mua hang hóa dịch vụ, chi trả lãi suất

các khoản vay.
Các cá nhân và hộ gia đình tiết kiệm nhằm tạo ra thu nhập tương lai cao
hơn bằng tiết kiệm và đầu tư, thứ 2 họ muốn tiết kiệm một số thu nhập hiện tại
để bảo vệ mình khỏi nguy cơ giảm thu nhập bất ngờ trong tương lai.
2.2.Nguồn vốn nước ngoài.
Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước
ngoài như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF). Nguồn này bao gồm: Viện trợ
phát triển chính thức (ODA) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF.
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.

i.

Nguồn vốn ODA:
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các
hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF
nào khác.
5


Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án,
thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp
dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính
tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần
lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội

dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn,
vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc. Nguồn vốn tín dụng từ các
ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn
vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng
buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường
là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những
trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới
và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là
ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát
triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh
tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
ii.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước
tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần
lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có
thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về
trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác
dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư .

iii.


Đầu tư gián tiếp nước ngoài (thường được viết tắt là FPI | Foreign Portfolio
Investment)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên
giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình
thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và
6


nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài.
Những tác động tích cực của FPI:
-

Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phí
vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro.
Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa.
Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính
phủ.
Những tác động tiêu cực của FPI

-

-

Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát
triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó.
Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên nó sẽ khiến cho hệ
thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính
một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế.
FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.

Nguồn vốn tín dụng thương mại.

iv.

Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau
một thời gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay. Các nước cho vay
vốn thu lợi nhuận thông qua tiền lãi vay. Nguồn vốn tín dụng thương mại có một
số đặc điểm sau:
-

Đối tượng vay thường là các doanh nghiệp. Rủi ro cao đối với chủ doanh nghiệp
nếu sử dụng vốn không hiệu quả, làm ăn thua lỗ, phá sản.
Vốn vay dưới dạng tiền tệ, các doanh nghiệp vay vốn có toàn quyền sử dụng.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lựi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo
khế ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đi vay.
Nguồn vốn này có ưu điểm là các nước tiếp nhận vốn không phải chịu
bất cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng vốn. Tuy
nhiên nó lại có nhược điểm là đây là một nguồn vốn cho vay với lãi suất thương
mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì dễ
dẫn đến mất khả năng chi trả, dẫn đến vỡ nợ.
3. Thị Trường vốn đầu tư ở các nước đang phát triển.
3.1 Cầu vốn đầu tư và các nhân tố tác động.

7


Cầu vốn đầu tư la mối quan hệ giữa lượng vốn đầu tư mà các nhà đầu tư
mong muốn sử dụng với giá cả của cầu vốn đầu tư. Giá cả vốn đầu tư chính là
chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn đầu tư, hay nói cách khác là chi phí của việc
sử dụng số tiền vốn đầu tư và đó chính là mức lãi suất tiền vay.

Có hai loại nhân tố ảnh hưởng đến cầu vốn đầu tư đó là nhân tố lãi suất
tiền vay thể hiện giá cả đầu tư và các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay.
a) Lãi suất tiền vay

Yêu cầu của sản xuất đòi hỏi cần tăng thêm máy móc, thiết bị, phương
tiện…nhằm mở rộng năng lực sản xuất, cho phép hạ thấp chi phí sản xuất. Tuy
nhiên lợi ích chr thực sự có được trong tương lai, trong khi vốn đầu tư phải bỏ
ra tại thời điểm hiện tại. Cần phải có sự so sánh giữa lợi ích đem lại do đầu tư sử
dụng máy móc phương tiện mới với khoản chi phí cho đầu tư. Chủ đầu tư chỉ
nên đầu tư khi lợi nhuận thực dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất bằng
với mức lãi suất tiền vay phải trả.
Khi lãi suất tiền vay tăng cao thì thu nhập biên giảm, nhu cầu đầu tư
giảm và ngược lại.
Vào cùng 1 thời điểm có rất nhiều dự án đầu tư và số lượng dự án phụ
thuộc vào lãi suất tiền vay. Khi mức lãi suất tiền vay càng cao thì số dự án thỏa
mãn yêu cầu trên càng ít và ngược lại mức lãi suất thấp thì số dự án được thực
hiện càng nhiều làm khối lượng cầu vốn đầu tư tăng.
b) Các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay

Thuế thu nhập doanh nghiệp
Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu
nhập doanh nghiệp giảm, lam nản long nhà đầu tư. Mặt khác chính phủ có thể
khuyến khích đầu tư bằng hình thức miễn giảm thuế đối với các khoản lợi
nhuận dùng để tái đầu tư
Các chu kỳ kinh doanh
Một sự đầu tư mang lại thu nhập nếu tạo ra nhiều sản phẩm hơn hoặc
chi phí sản xuất thấp hơn. Do đó yếu tố quyết định đầu tư là mức sản lượng đầu
ra, mức sản lượng này lại chịu ảnh hưởng của cu kỳ kinh doanh.
Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở
rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng và ngược lại.

8


Môi trường đầu tư
Đầu tư được ví như một canh bạc. Các nhà đầu tư đặt cược số tiền lớn
trong hiện tại và hi vọng nhận được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Do
vậy đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp. Môi trường đầu tư bao gồm
nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp đó là thực trạng cơ sở hạ tầng, nhứng quy
định có lien quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công), chế độ đất
đai (quy chế thuê mướn ,chuyển nhượng ,thế chấp, giá cả), các loại thủ tục hành
chính…Trong việc tạo lập môi trường chính phủ đóng vai trò quan trọng, chính
phủ thường quan tâm đến việc đưa ra các chính sách nhằm tăng lòng tin trong
đầu tư và kinh doanh. Khi môi trường đầu tư thuân lợi (trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi)sẽ thu hút các nhà đầu tư, lượng vốn đầu tư mong muốn sẽ
tăng.
3.2.Cung vốn đầu tư và các nhân tố tác động.
Cung về vốn đầu tư là mối quan hệ giữa lượng vốn đầu tư cs khả năng
cung cấp cho nền kinh tế với mức giá cả của cung vốn đầu tư( giả thiết các yếu
tố khác không đổi). Giá cả của vốn đầu tư thực chất chính là chi phí cơ hội của
việc cho vay tức là mức lãi suất huy động. Cung vốn đầu tư chịu tác động của 2
nhân tố giá cả và tổng khả năng tiết kiệm và chính sách huy động tiết kiệm của
nền kinh tế.
a) Lãi suất huy động
Khi lãi suất tăng thì lượng cung vốn tăng và ngược lại khi lãi suất huy
động giảm thì cung vốn giảm
b)Các nguồn tiết kiệm
Nếu lãi suất huy động làm trực tiếp thay đổi lượng cung vốn đầu tư thì
tiết kiệm của nền kinh tế lại ảnh hưởng dịch chuyển đường cung vốn đầu tư.
Khi tổng tiết kiệm của nền kinh tế tăng đường cung vốn đầu tư dịch sang
phải, lượng cung vốn đầu tư tăng. Ngược lại, khi tổng tiết kiệm giảm đường

cung vốn đầu tư dịch chuyển sang trái, lượng cung vốn đầu tư giảm. Các nguồn
tiết kiệm trong nước gồm ba khu vực: tiết kiệm chính phủ, tiết kiệm tư nhân và
tiết kiệm hộ gia đình.
C. Thực trạng.
1. Thực

trạng vốn đầu tư trong nước ( tiết kiệm trong nước ) :

9


Tỷ lệ tiết kiệm toàn xã hội của Việt Nam tăng khá nhanh từ năm 1990 đến
nay. Thực ra Việt Nam không phải là nước có tỉ lệ tiết kiệm thấp. Theo Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam - VASS (2011), tỉ lệ tiết kiệm của Việt Nam còn cao hơn
mức trung bình chung của các nước có thu nhập thấp (khoảng 21%), các nước có
thu nhập trung bình thấp (khoảng 23%) và bình quân chung của thế giới (khoảng
25%).Tỉ lệ vốn/GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001 lên 41,9% năm 2010, bình quân
cho cả giai đoạn 2001-2010 là xấp xỉ 41%, trong đó giai đoạn 5 năm gần đây
(2006-2010), tỉ trọng này là 42,9%, gấp đôi Malaysia và gấp rưỡi so với Indonesia
và Thái Lan.Tiết kiệm ròng nội địa bao gồm tiết kiệm ròng khu vực Chính phủ và
tiết kiệm ròng khu vực tư nhân (các hộ gia đình và doanh nghiệp - bao gồm cả
DNNN).
1.1Tiết kiệm chính phủ :
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào
các chương trình, dự án có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội,
tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Vốn nhà nước bao gồm: Vốn ngân sách
nhà nước (NSNN), vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và các nguồn
vốn
khác

do
nhà
nước
quản
lý.
Quy mô đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thập niên qua duy trì tốc độ
tăng trưởng ở mức 2 con số và đã giảm tốc trong thời gian gần đây. Cụ thể, mức
tăng trung bình của đầu tư sử dụng vốn nhà nước đạt 12,68%/năm giai đoạn 2001 2005, 11,54%/năm giai đoạn 2006 - 2010, và giảm xuống còn xấp xỉ 6% trong 2
năm 2011 - 2012. Về tỷ trọng của các bộ phận cấu thành, đầu tư từ NSNN chiếm
tỷ trọng lớn (khoảng 40%) trong tổng đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước. Đặc
biệt, những năm 2005 - 2009 và 2011, tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN chiếm tới trên
50%, thậm chí trên 60% tổng vốn đầu tư nhà nước, chứng tỏ nỗ lực rất lớn trong
tăng đầu tư nhà nước thông qua NSNN. (Xem hình 1)

10


Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Hình 1: Quy mô vốn đầu tư nhà nước và các bộ phận cấu thành giai đoạn
2001 - 2012
Đơn vị tính: tỷ VND, giá
thực tế

Về giá trị đầu tư, năm 2012, đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong năm
ước đạt 357,5 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 41,1% tổng vốn đầu tư xã hội (trong
đó vốn đầu tư NSNN ước đạt 187,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội; vốn trái phiếu chính phủ ước đạt 45 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,2%; vốn
tín dụng đầu tư nhà nước đạt 50 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,7%; vốn đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước đạt 75 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,6%).
Với quy mô đầu tư vẫn ở mức cao như trên, đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà

nước vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, ở mức xấp xỉ
40% trong suốt giai đoạn 2006 - 2012 (Xem hình 2).

11


Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Hình 2: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế .
tính:

Đơn vị
%

Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách (tiết kiệm ròng của Chính phủ mang dấu
âm) ở mức cao và dai dẳng trong thời gian dài để phục vụ cho mô hình tăng trưởng
đã đóng góp lớn vào tỉ lệ tiết kiệm nội địa thấp.tham hụt ngân sách liên tục cao, nợ
công tăng nhanh. Theo Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến giảm
0,4 điểm % GDP xuống còn 5,8% GDP (dự toán là 6,2% GDP), vẫn ở mức cao so
với các nước trong khu vực. Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách
nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua. Theo Bộ Tài chính, tính đến
hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và
dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù tỉ lệ nợ công Việt Nam được coi là vẫn nằm
trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn hẳn so với tỉ lệ phổ biến 30% –
40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác. Nếu xét mức nợ công bình
quân đầu người bình quân đầu người trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức
nợ công bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD,
tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của
cùng thời kì chỉ là 6%/năm khac . Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt
ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp
lực lên lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc

gia của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp.
Biểu đồ 1: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 – 2011

12


Nguồn: Bộ Tài chính
Biểu đồ 2: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước chấu Á (2005 – 2009)

1.2.Tiết kiệm doanh nghiệp :
Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh tế có
sự chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng
tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế
xã hội và chấp hành pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu
hỗ trợ cho sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Có thể nhìn thấy qua quy mô
13


vay nợ tín dụng tăng cao trong những năm qua. Tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư bình
quân của Việt Nam lần lượt là 28% va 36% trong vòng 5 năm qua.
1.3.Tiết kiệm từ nhân dân (hộ gia đình):
Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu
của các hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn này mà đã góp
phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp, nó cũng giải quyết
được một phần lớn công ăn việc làm cho lao dộng nhàn rỗi trong khu vực nông
thôn từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong năm 2007 Tổng vốn đầu tư xã hội của Việt Nam tăng rất nhanh và
đạt 41,5% GDP. Đây là tỷ lệ rất cao trong khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Trong số này, khoảng 7-8% GDP được tài trợ bới các nguồn lực bên ngoài như
vay ODA, FDI và các khoản vay thương mại. Ngoài ra, còn một nguồn lực tài trợ

bên ngoài quan trọng nữa là nguồn kiều hối, vào khoảng 6-7 tỷ USD/năm. Nguồn
vốn này làm tăng thu nhập của người dân và qua đó gián tiếp tăng tỷ lệ tiết kiệm
và đầu tư của xã hội.

Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đang ngày càng tăng lên.
Chúng ta dự kiến sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP/đầu người đạt
1000 USD/năm vào năm 2010. Theo TS. Đặng Xuân Thanh, Viện kinh tế Việt
Nam, mức tiết kiệm toàn xã hội của Việt Nam phụ thuộc tuyến tính tới 98,53%
vào tổng thu nhập quốc gia, còn tăng trưởng của tiết kiệm hộ gia đình thì phụ
thuộc tới 94,85% vào tăng trưởng trong thu nhập của hộ gia đinh. Như vậy, có cơ
sở để tin tưởng rằng, Việt Nam có thể nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong nước hơn nữa
nếu cónhững chính sách hợp lý.
Việt Nam đang hướng dần tới một "cơ cấu dân số vàng"- cơ cấu dân số có
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao và tỷ lệ dân số trong độ tuổi phụ thuộc thấp
- vì vậy, cho phép một tỷ lệ tiết kiệm cao nhất. Cơ cấu dân số hiện tại của Việt
Nam là từ 0 -15 tuổi chiếm 32,25%, từ 16 - 39 tuổi chiếm 40,47%, từ 40 - 60 tuổi
chiếm 17,5% và từ 60 tuổi trở lên chiếm 10,13%. Như vậy, hiện nay cơ cấu dân số
14


của Việt Nam là trẻ, với trên 32% thuộc lứa tuổi học sinh. Khi lớp người này
trưởng thành và trở thành người lao động thì Việt Nam sẽ tiến dần tới "cơ cấu dân
số vàng" với tỷ lệ người lao động so với tổng dân số là cao nhất.
Cùng với sự biến đổi về cơ cấu dân số, quy mô hộ gia đinh bình quân của
Việt Nam cũng đang nhỏ đi. Tốc độ tăng số hộ gia đình đang giảm dần từ
2,5%/năm vào năm 1999 xuống còn 2,2%/năm hiện nay. Số nhân khẩu trung bình
của một hộ đã giảm từ 4,86 người vào những năm 90 xuống còn 4,42 người hiện
nay. Khi các điều kiện khác không thay đổi, quy mô của các hộ gia đình giảm đi sẽ
tạo điều kiện cho người dân nâng cao mức tiết kiệm của mình.


=> Nhìn chung mức tiết kiệm của người dân Việt Nam đang trong xu
hướng tăng và chưa có dấu hiệu đảo chiều. Giai doạn 2001-2003, tiết kiệm có
giảm xuống là do tác động của chính sách kích cầu 1999-2003, làm cho tỷ lệ tiêu
dùng của hộ gia đình tăng lên. Tuy nhiên, để duy trì xu hướng tăng cường tiết
kiệm này, Chính phủ cần hết sức chú ý tới hai phương diện xã hội:
Ngoài ra, cần lưu ý là trong phần thu nhập của hộ gia đình, tiền lương và
có tính chất lương chỉ chiếm khoảng trên 80%. Các khoản chuyển nhượng hiện
hành, trong đó phần lớn là kiều hối chiếm tới trên 15% trong năm 2007. Trong giai
đoạn 1995 - 2006, có 23,4 tỷ USD kiều hối được chuyển về nước bằng 31% nguồn
vốn FDI và lớn hơn nguồn ODA giải ngân. Lượng kiều hối tăng mạnh lên 5,5 tỷ
USD vào năm 2007 và 8 tỷ USD vào năm 2008. Chính sách thu hút kiều hối của
Việt Nam những năm gần đây là hết sức thông thoáng. Người dân hoàn toàn công

15


khai, minh bạch nhận tiền kiều hối chuyển qua hệ thống ngân hàng mà không phải
giải trình hay nộp bất cứ loại thuế nào.
Tuy nhiên, cái nhà nước cần làm không chỉ là tạo sự thông thoáng cho
dòng kiều hối chảy về mà phải khơi được tình cảm và sự gắn bó của bộ phận người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho họ thấy tự hào và có trách nhiệm cũng
như quyền lợi khi có đóng góp cho tổ quốc thông qua kiều hối.
=> Thị trường tài chính còn non trẻ, yếu kém, chứa đựng nhiều rủi ro trong
bối cảnh lạm phát và bất ổn vĩ mô gia tăng trong những năm gần đây được coi là
một nguyên nhân khiến tiết kiệm ròng của khu vực này không lớn.
Hiện nay Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nguồn lực nước ngoài cho đầu
tư. Điều này hàm ý, trong tương lai, tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam sẽ phải được đẩy
lên rất cao để không những đủ phục vụ nhu cầu đầu tư mà còn để trả nợ vay nước
ngoài
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội :

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện chín tháng năm 2013 theo
giá hiện hành ước tính đạt 755,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm
trước và bằng 31,2% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 297,3 nghìn tỷ đồng,
chiếm 39,3% tổng vốn và tăng 4,2%; khu vực ngoài Nhà nước 280 nghìn tỷ đồng,
chiếm 37,1% và tăng 8,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 178,6
nghìn tỷ đồng, chiếm 23,6% và tăng 5,6%.

16


2
001
Q
uy

vốn đầu
tư (1000
tỷ
giá
1994)

ầu
/GDP
(%)

Đ


T
độ


ốc
tăng
GDP (%)

2
002

1
15,
1

1

3

Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế :
17

011

2
012

71,
3

2,7

4

2,4

5
,32

2

3

4

8
,31

010

33,
2

1,5

2

3

4

8
,46


009

09,
1

5,6

2

3

4

8
,23

008

43,
3

1,5

2

2

4

8

,44

007

13,
9

0,9

2

2

4

7
,79

006

89,3

0,7

2

1

4


7
,34

005

66,
8

9,0

2

1

3

7
,08

004

48,
0

7,4

2

1


3

6
,89

003

29,
5

5,4

2

3
4,6

6
,78

3
3,5

5
,89

5
,2



Hình 3: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế

Đơn vị tính: %

2. Thực trạng vốn đầu tư nước ngoài :
2.1.Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) :
Đối với Việt Nam, ODA có tầm quan trọng đặc biệt, giúp chúng ta giải
quyết tình trạng cơ sở hạ tầng lạc hậu, và phân bố không đồng đều, xoá bớt sự
cách biệt về phát triển kinh tế giữa các vùng lãnh thổ trong cả nước, giữa thành thị
và nông thôn góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước. Nghị quyết đại hội VII của Đảng đã khẳng định : ” Tranh thủ thu hút nguồn
tài trợ chính thức (ODA) đa phương và song phương, tậo trung chủ yếu cho việc
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ
và quản lý, đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những
vùng chậm phát triển…”
Thời gian qua, số các dự án ODA trong nông nghiệp , nông thôn còn ít
chưa được quan tâm khai thác và sử dụng cá hiệu quả. Vì vậy, việc đẩy mạnh thu
hút và sử dụng có hiệu quả ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
đang là đòi hỏi hết sức cấp bách
Thời điểm khởi đầu cho quá trình thu hút vốn ODA là 11/1993 khi hội nghị
bàn tròn về viện trợ dành cho VN đươc tổ chức tại Pari dưới sự chủ trì của Ngân
Hàng thế giới (WB).Hơn 15 năm qua, nguồn vốn ODA đã có những đóng góp tích
cực vào quá trình thúc đẩy tăng trương và phát triển nền kinh tế VN. tổng vốn
ODA ký kết từ năm 1993 đến 2012 đạt trên 56,05 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn
18


ODA cam kết; trong đó vốn ODA vay ưu đãi đạt 51,607 tỷ USD và chiếm khoảng
88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD và chiếm khoảng 11,6%.

“Số vốn ký kết này là điều kiện quan trọng để các cơ quan Việt Nam tổ chức thực
hiện, quản lý và giải ngân nguồn vốn ODA trong khuôn khổ các chương trình, dự
án
cụ
thể,”
báo
cáo
khẳng
định.
Trong số các khoản ODA vay ưu đãi đã ký kết, phần lớn có lãi suất rất ưu đãi, thời
gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn
vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% các khoản vay ODA
còn lại có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10 năm
ân hạn và còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn.
Tuy nhiên, theo báo cáo này, ODA vốn vay tăng trong khi viện trợ không hoàn lại
giảm qua các thời kỳ. Tỷ lệ vốn vay trong tổng vốn ODA tăng từ 80% (1993 2000) lên mức 81% (2001 - 2005), 93% (2006 - 2010) và hiện ở mức 95,7%
(2011-2012).
Trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập
trung bình thấp vào năm 2010, chi phí vốn vay có xu hướng tăng, nhiều khoản vay
ODA có điều kiện ràng buộc từ bên ngoài, làm chi phí đầu vào cao, ảnh hưởng đến
hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ trong trường hợp các dự án được vay lại nguồn
vốn vay ODA của Chính phủ.
Mặc dù ODA chỉ chiểm khoảng 4% GDP song lại chiếm tỷ trọng đáng kể
trong tổng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bình quân chiếm khoảng 1517%). Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngân sách dành cho đầu tư phát triển
của ta còn hạn hẹp trong khi nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội lại rất
lớn.
Trong thời gian qua, ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và
xã hội. Các công trình sử dụng vốn ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế và cải
thiện
đời

sống
của
nhân
dân.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, một số dự án trọng điểm quan
trọng được triển khai như hệ thống tưới Phan Rí-Phan Thiết, giảm thiểu lũ và hạn
hán vùng sông Mê Kông mở rộng, hệ thống thủy lợi Phước Hòa, chống lũ Sài Gòn,
chương trình 5 triệu hécta rừng, chương trình 135, dự án giảm nghèo các tỉnh vùng
núi
phía
Bắc,
dự
án
phát
triển
sinh
kế
miền
Trung...
Trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp, nguồn vốn này đã hỗ trợ cải tạo, nâng
cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, điển
hình là Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện
19


Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất
475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện
Ô
Môn
công

suất
600
MW...
Cũng nhờ nguồn vốn này mà lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông
đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Điển hình là các tuyến đường
như: Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường cao
tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, đường xuyên Á Thành phố
Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân,
cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các
cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.
“Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc phát triển các
ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài,”
báo
cáo
nhấn
mạnh.
Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, nguồn vốn này đã hỗ trợ cho việc thực hiện cải
cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề)... Các dự án vốn vay ODA
điển hình là dự án xây dựng Trường Đại học Việt Đức (WB); dự án xây dựng
Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (ADB).
Bên cạnh đó, nhờ nguồn vốn ODA, hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực
thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt.
Các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng...
hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất
thải
rắn.

Vốn ODA cung cấp từ ngân hàng thế giới cho Việt Nam từ năm 2003-2012:
Năm
2
003

2
004

1
.772

,Vốn (tỷ USD)
2
005
1

.846

2
006

1
.913

2
007

1
.844


2
008

2
.511

009
2

.552

20

2

2
010

3
.732

2
011

2
.940

2
012


2
.348

2
.197


Theo đánh giá của các nhà tài trợ quốc tế, vốn ODA ở Việt Nam được sử
dụng khá thành công và hiệu quả. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ mô hình hợp tác
sang mô hình đối tác với Việt Nam
Tuy nhiên, không phải hầu hết các cam kết viện trợ đều được hiện thực
hóa. Đến nay, Việt Nam mới nhận 58 tỷ USD, đạt 72% giá trị cam kết và đã giải
ngân được 33,4 tỷ USD trong tổng giá trị nguồn vốn viện trợ
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008

BIỂU ĐỒ CƠ CẤU ODA THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
THỜI KỲ 1993-2008

21


2.2.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) :
Việc thu hút nguồn vốn FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng, mũi
nhọn trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, là tiền đề cần thiết để phát
triển kinh tế xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu. FDI là nguồn bổ sung cho nguồn vốn
đầu tư phát triển trong nước ; nâng cao trình độ công nghệ của đất nước thông qua
việc chuyển giao công nghệ ; tiếp nhận kinh nghiệm, trình độ quản lý tiên tiến của
nước ngoài ; tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ kỹ năng lao động và thu nhập
cho người lao động; phát triển thị trường trong nước, tạo điều kiện mạnh mẽ để
thâm nhập thị trường thế giới góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và

thâm hụt ngân sách nhà nước.
Con số thống kê Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam vừa công bố cho thấy đầu
tư nước ngoài trực tiếp (FDI) vào nước này trong bảy tháng đầu năm chỉ ở mức 8,3
tỷ đô la, bằng 66,9% so với cùng kì năm 2011.
Sự suy giảm từ 19,9 tỷ đôla năm 2010 xuống con số đáng thất vọng như
vừa nêu trong lúc FDI toàn cầu tăng từ 1,24 ngàn đến 1,6 nghìn tỉ trong cùng thời
gian cho thấy FDI tại Việt Nam đang đi ngược chiều với xu hướng thế giới.
ngoài lí của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới thi
nguyen nhan con do dăng kí nhiều, không sử dụng hết.
Thông số FDI được đăng kí tại Việt Nam, thường chênh lệch xa với lượng
FDI được chính thức đưa vào sử dụng vì tốc độ giải ngân yếu kém.
22


Các dự án lên đến hàng tỉ đôla thậm chí sau khi đã hoàn thành các thủ tục,
vẫn phải đối mặt với công đoạn “khó nuốt nhất” của quy trình đầu tư: 'giải phóng
mặt bằng', được quản lý bởi các chính quyền địa phương nghèo vốn.
Một ví dụ tiêu biểu trong thời gian gần đây nhất đó là dự án hợp tác đầu tư
của tập đoàn thép Tata của Ấn Độ với Tập đoàn thép quốc gia Việt Nam.
Dự án 5 tỷ đô la đã phải nằm “bất động” trong bốn năm liền vì sự chậm
chạp của tỉnh Hà Tĩnh trong việc giải phóng mặt bằng với lời bào chữa “không đủ
ngân sách”.
Đây là lý do khiến phía Ấn Độ mất kiên nhẫn đến nỗi đích thân Thủ tướng
Manmohan Singh phải “nhắc khéo” về dự án với Chủ tịch Trương Tấn Sang trong
cuộc gặp năm 2011 tại New Dehi.
Kết quả là trong tháng 8, phía Việt Nam đã bắt Tata phải trích thêm một
khoản 100 triệu đôla nữa để trả tiền giải phóng mặt bằng, gấp hơn ba lần so với 30
triệu đô la qui ước ban đầu, nhằm ‘thúc đẩy’ tiến trình dự án.
Va du Việt Nam sẽ khó đón nhận những làn sóng FDI khổng lồ trong
tương lai với đội ngũ lao động kém trình độ, chủ yếu bắt nguồn từ những bất cập

trong nền giáo dục vốn thiếu sự tự do để cạnh tranh, chuyên môn hóa của nước
này.
Một ví dụ cụ thể là vào năm 2011, Intel , hãng sản xuất chip điện tử hàng
đầu của Mỹ, đã gặp trở ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam khi số công nhân đủ
trình độ tuyển dụng chỉ bằng một phần nhỏ số lượng yêu cầu.
Hãng Intel vào thời điểm đó đã gạt qua một bên lợi thế lao động giá rẻ của
Việt Nam, tuyên bố rằng đó không phải là điều họ tìm kiếm.
Va yeu to cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đúng
mức độ đang là vấn đề gây quan ngại với giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là khi
vấn đề mất điện và giao thông đình trệ có những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất
và lưu thông hàng hóa.
Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục
kêu ca là 'chới với' vì không có điện để sản xuất, nhất là trong thời điểm mùa hè,
dẫn đến thiệt hại về cả năng suất cũng như chi phí sản xuất.
Báo chí nêu như với Samsung, vụ mất điện 10 phút đã có thể biến các sản
phẩm dang dở thành 'phế thải', gây tốn kém lên đến hàng chục triệu đô la.

23


Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì liên tục lên tiếng than lỗ vì thiếu
nước, chi phí mua điện ngoài tăng cao, cũng như các nguồn điện chậm tiến độ như
một phần các lí do cho vấn đề bất cập năng lượng.
Trong khi đó, EVN vẫn đầu tư vào các ngành không liên quan như ngân
hàng, bảo hiểm, bất động sản.
Lạm phát: nỗi ám ảnh kinh hoàng
Lạm phát trong năm 2012 đã giảm xuống mức đáng kể, thế nhưng những
dư âm và hậu quả của mức lạm phát lên đến 23% của năm 2011 vẫn còn tồn đọng
trong nền kinh tế hiện tại và tâm lí các nhà đầu tư.
Một phần nguyên nhân cho tình trạng suy giảm lượng FDI trong năm 2012,

đó là các biến động tâm lý của nhà đầu tư trong thời điểm một năm trước đó.
Trong bối cảnh lạm phát Việt Nam lên đến mức cao nhất Châu Á năm
2011, các khách hàng nước ngoài cũng như các công ty nước ngoài trở nên lãnh
đạm hẳn với thị trường Việt Nam và tìm cách chuyển dần sang các nước lân cận
trong suốt thời gian sau đó.
Nguyên nhân cho sự lãnh đạm đó là sự mất đi lợi thế cạnh tranh giá cả
trong nước trước áp lực lạm phát khiến yêu cầu tăng lương của nhân viên, chi phí
vật liệu, lãi suất cao ngất ngưởng và các ngân hàng đua nhau siết vốn.
Nguồn FDI vào ngành bất động sản trong cũng giảm xuống rõ rệt trước
một thời gian dài chứng kiến sự sụp đổ của ngành này cùng những món nợ xấu còn
tồn đọng ở thời điểm hiện tại.
*Điểm sáng nhất trong thu hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11
tỉ USD, tăng 10% so với năm trước và chỉ cách kỉ lục của năm 2008 là 500 triệu
USD; nhóm ngành sản phẩm chế biến vươn lên dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD
đăng kí và giúp số dự án nhóm này tăng gần gấp rưỡi. Đây được đánh giá là tín
hiệu tốt đối với nền kinh tế trong việc thu hẹp thâm hụt thương mại trong tương lai

.
Biểu đồ: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

24


Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thực trạng vốn FDI qua các năm

S
ố dự án


2
005

9
70,0

2
006

2

3.308,8

12.004,0

4.100,1

21.347,8

8.030,0

71.726,0

11.500,0

1
.544,0

2
008


6.839,8

9
87,0

007

Tổng vốn đăng
ký (Triệu đô la Mỹ) (*)

Tổng số vốn
thực hiện (Triệu đô la
Mỹ)

1
.557,0

25


×