Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH MTV dược sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.95 MB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, ngành Dược Việt Nam đã có những tiến bộ
nhanh và hết sức cơ bản. Ngành Dược đã cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu
phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân, các thuốc sản xuất trong nước đã đáp
ứng được gần 50% nhu cầu sử dụng thuốc trong cả nước. Song, ngành Dược
Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn, đang phải đối diện
với những hạn chế do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Trình độ sản
xuất, phân phối dược phẩm đã tuân thủ những quy chuẩn quốc tế cơ bản
nhưng do hạn chế về nguồn vốn, quy mô đầu tư chưa đủ lớn đã làm cho
ngành Dược Việt Nam gần như dậm chân tại chỗ, nếu không kịp thời khắc
phục và có những chiến lược thích hợp thì sẽ dần trở nên lạc hậu so với sự
phát triển đang tăng từng ngày của các nước khác trên thế giới. Hệ thống và
phương pháp đào tạo của ngành Dược Việt Nam chậm đổi mới tạo ra nguồn
nhân lực dược thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Sự thiếu quan tâm đầu
tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng không những làm lãng phí nguồn dược
liệu trong nước, giảm khả năng cạnh tranh mà còn làm cho Ngành Dược Việt
Nam mất đi nhân tố phát triển bền vững từ đó lệ thuộc nhiều vào nguồn
nguyên liệu nước ngoài.
Công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn được thành lập từ năm 1975, năm
2008 hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con với ngành nghề kinh
doanh chủ yếu là sản xuất, kinh doanh thuốc chữa bệnh và trang thiết bị y tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển công ty đã gặt hái được nhiều thành
công đáng kể, nghiên cứu và đưa vào sản xuất một số thuốc có hiệu quả điều
trị và có giá trị cao được thị trường trên cả nước chấp nhận, nhờ làm tốt công
tác tiếp thị, thường xuyên quan tâm đến chất lượng và cải tiến mẫu mã sản
phẩm nên thị phần của công ty ngày càng được mở rộng. Nhưng nếu đánh giá



2
một cách toàn diện, hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH MTV
Dược Sài Gòn chưa cao, tỷ suất lợi nhuận trên vốn còn khiêm tốn, kinh
nghiệm kinh doanh đa ngành nghề còn thiếu, lợi thế về kinh nghiệm cốt lõi
trong sản xuất kinh doanh truyền thống chưa được chú ý khai thác triệt để.
Đứng trước yêu cầu phát triển ngành Dược phục vụ thuốc có chất lượng tốt
đồng thời đảm bảo kinh doanh hiệu quả nhất là trong bối cảnh nên kinh tế thế
giới đang suy thoái đã đặt Công ty đứng trước những thách thức mới. Đó là sự
cạnh tranh của nhiều hãng sản xuất thuốc trong và ngoài nước với chất lượng
mẫu mã ngày càng thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong khi khả năng về
nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, năng lực kinh doanh, thương
hiệu của công ty….là những nguy cơ đòi hỏi công ty phải tính đến. Trong bối
cảnh đó, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết bảo
đảm sự tồn tại và phát triển của Công ty trong môi trường cạnh tranh đồng
thời là cơ hội để công ty phát triển, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe người dân.
Từ năm 2008 đến nay, tình hình kinh tế thế giới suy thoái, phát triển
sản xuất kinh doanh của công ty ít nhiều chịu tác động tiêu cực,khó khăn và
thách thức không nhỏ trước sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Việc phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty trong thời gian vừa qua là rất cần thiết, từ đó đánh giá được tình hình kinh
doanh, xác định được tác động của những yếu tố thuận lợi và khó khăn, mức
độ hiệu quả từ các chiến lược kinh doanh của công ty TNHH MTV Dược Sài
Gòn, đồng thời tìm ra các giải pháp khắc phục những khó khăn, giúp công ty
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững nhằm ổn định
kinh doanh trong nước tiến tới tìm kiếm thị trường trên thế giới. Vì vậy, tôi
chọn đề tài: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH MTV
Dược Sài Gòn (SAPHARCO)”



3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn giai đoạn 2013-2023
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2008 –
2012, xác định các nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất kinh doanh của
công ty trong giai đoạn tới.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp là đối tượng
nghiên cứu của luận văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi thời gian
Do thời điểm thực hiện viết luận văn nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn cuối năm
2013 nên số liệu báo cáo của công ty chỉ có đến năm 2012. Vì vậy tác giả sử
dụng số liệu của giai đoạn 2008-2012 để phân tích nội dung của luận văn
* Phạm vi không gian
Nghiên cứu Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty TNHH
MTV Dược Sài Gòn
* Phạm vi nôi dung:
Hệ thống một số khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Sử dụng một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, phân
tích đánh giá một số chỉ tiêu về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của



4
công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn, chỉ ra một số nhân tố chủ quan, khách
quan và đưa ra định hướng cũng nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn
- Tổng kết những lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh và áp dụng
đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dược phẩm
- Đề xuất những định hướng, giải pháp làm cơ sở nâng cao hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn, phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn phát triển trong giai đoạn tới.
- Là một trong những căn cứ khoa học để công ty TNHH MTV Dược
Sài Gòn đánh giá đúng năng lực cạnh tranh, trên cơ sở đó điều chỉnh mục tiêu
và chiến lược kinh doanh hướng tới việc tăng cường hiệu quả.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm 4 chương
chính sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Hiệu quả sản xuất kinh danh
của doanh nghiệp
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Thực trạng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
TNHH MTV Dược Sài Gòn (SAPHARCO)
- Chương 4: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty TNHH MTV Dược Sài Gòn (SAPHARCO)


5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm về doanh nghiệp
Trên phương diện lý thuyết có nhiều khái niệm khác nhau về doanh
nghiệp. Mỗi khái niệm hàm chứa một nội dung nhất định, với một giá trị
nhất định. Điều ấy cũng là đương nhiên, vì rằng mỗi dòng lý thuyết đứng
trên một quan điểm, một cách tiếp cận cụ thể đối với đối tượng là doanh
nghiệp. Chẳng hạn:
1.1.1.1. Từ góc độ quản lý nhà nước, luật pháp qui định
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (Luật doanh nghiệp
2005, điều 4, khoản 1)
1.1.1.2. Từ quan điểm chức năng
Doanh nghiệp: “ là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết
hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do
các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản
phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán
sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy” (M.Francois Peroux,).
1.1.1.3. Từ quan điểm phát triển
“Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải.
Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc
vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản
xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua


6
được” (D.Larua.A Caillat, 1992 )
1.1.1.4. Từ quan điểm hệ thống

Các nhà nghiên cứu quan niệm ”doanh nghiệp bao gồm một tập hợp
các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục
tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản
xuất, thương mại, tổ chức, nhân sự”.
Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng các định nghĩa về doanh
nghiệp đều có điểm chung. Nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn bao quát
trên phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung
hoạt động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải
được cấu thành bởi những yếu tố sau đây:
* Yếu tố định vị giá trị: Việc thiết kế sản phẩm và hình ảnh của Công ty
làm sao để thị trường mục tiêu hiểu được và đánh giá cao những gì công ty
đại diện so với các đối thủ cạnh tranh của công ty.
* Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực
hiện các chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ
phận hành chính.
* Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
* Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào,
bán sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
* Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ
nhà nước, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp
bằng khoản lợi nhuận thu được.
1.1.1.5. Định nghĩa về doanh nghiệp
- Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các
phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động


7
sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi
ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi của chủ sở hữu, đồng

thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
Định nghĩa này cho thấy doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Trước hết, doanh nghiệp phải là một tổ chức kinh doanh có tư
cách pháp nhân.Tư cách pháp nhân là điều kiện căn bản, quyết định sự tồn
tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Sự tồn tại của doanh nghiệp do
luật pháp khẳng định và xác định. Việc khẳng định tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp hàm ý: (1) nó được nhà nước bảo hộ với các hoạt động sản
xuất kinh doanh; (2) nó phải có trách nhiệm đối với xã hội, với nhà nước,
với người tiêu dùng. Những trách nhiệm đó bao gồm nghĩa vụ đóng góp
thuế và loại bảo hiểm, nghĩa vụ về việc làm và tiền lương, nghĩa vụ về đối
xử với môi trường tự nhiên.
- Thứ hai, doanh nghiệp là một tổ chức sống trong một thể sống (nền
kinh tế quốc dân), gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại. Doanh nghiệp là
một tổ chức sống vì lẽ nó có quá trình hình thành từ một ý chí và bản lĩnh của
nhà doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển, một doanh nghiệp có khi tiêu
vong, phá sản hoặc bị một doanh nghiệp khác thôn tính. Vì vậy cuộc sống của
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quản lý của nhà doanh nghiệp
và đội ngũ quản trị doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.2.1. Khái niệm
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một hiện tượng (hoặc quá trình) là
một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sở dụng các nguồn lực (nhân lực, tài
lực, vật lực,) để đạt được mục tiêu xác định. Công thức biểu diễn khái quát
phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu diễn như sau:


8
Trong đó:
H - Hiệu quả sản xuất kinh doanh
K - Kết quả đạt được

C - Hao phí nguồn lực để có kết quả đó
Với H là hiệu quả sản xuất kinh doanh của một hiện tượng (quá trình
kinh tế) nào đó; K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó và
C là tổng chi phí để đạt được kết quả đó. Nói cách khác, hiệu quả sản xuất
kinh doanh phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số
giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Khái niệm này phản ánh tốt nhất sử dụng các nguồn lực ở mọi điều
kiện “động” của hoạt động kinh tế, nó cho phép tính toán được hiệu quả trong
sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Từ định nghĩa về hiệu quả sản xuất kinh doanh như đã trình bày ở
trên, chúng ta có thể hiểu Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù
kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh
nghiệp đã xác định.
1.1.2.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất hiệu quả trong sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ và vốn), để đạt
được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp - đó là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Việc phân biệt giữa khái niệm kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
là cần thiết để hiểu rõ được bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì doanh nghiệp đã đạt được
(thể hiện bằng hiện vật hoặc giá trị) sau một quá trình sản xuất và cung ứng
dịch vụ, dựa trên việc huy động các nguồn lực như sức lao động, vốn bằng
tiền, cũng như các nguyên vật liệu đầu vào.


9
Kết quả sản xuất kinh doanh, trực tiếp cho biết doanh nghiệp có đạt
được hay không đạt được mục tiêu đặt ra trong kế hoạch hay không. Nói

cách khác, mục tiêu của doanh nghiệp được phản ánh bởi kết quả sản xuất
kinh doanh. Như đã trình bày, kết quả sản xuất kinh doanh có thể được
biểu hiện thông qua những đại lượng cân đo đong đếm được như số chủng
loại, số lượng sản phẩm tiêu thụ, khối lượng sản xuất trong kỳ, doanh thu
bán hàng, lợi nhuận trong kỳ, thị phần ... Kết quả sản xuất kinh doanh cũng
có thể được biểu thị bằng những đại lượng định tính như uy tín của hãng,
chất lượng sản phẩm, mức độ hoàn thành kế hoạch.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo lường dựa trên hai chỉ tiêu là kết
quả sản xuất kinh doanh (đầu ra) và chi phí cho sản xuất kinh doanh (đầu
vào). Do hiệu quả sản xuất kinh doanh là tỷ số giữa kết quả sản xuất kinh
doanh với chi phí hoạt xuất kinh doanh nên chỉ tiêu này phản ánh mức chi phí
đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn vị đầu ra. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh có thể được cải thiện khi với cùng một khối lượng đầu ra, mức chi phí
sản xuất giảm xuống (Mẫu số nhỏ đi trong khi tử số không thay đổi) hoặc khi
với cùng một lượng chi phí sản xuất, khối lượng sản phẩm đầu ra tăng lên, có
thể thấy được khi số lượng sản phẩm kém chất lượng, sản phẩm hỏng giảm đi
(tử số tăng lên trong khi mẫu số không đổi). Hiệu quả sản xuất kinh doanh có
thể được đo bằng thước đo giá trị (cho thấy để sản xuất ra một đơn vị doanh
thu cần bao nhiêu đơn vị chi phí), hoặc thước đo hiện vật (được biết đến với
khái niệm năng suất tổng hợp các nhân tố - Total Factor Productivity)
Trong thực tế, kết quả sản xuất kinh doanh đôi khi không song trùng
với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có
thể đạt được nhưng hiệu quả thấp do chi phí để đạt được kết quả đó lớn.
Ngược lại, dù kết quả sản xuất kinh doanh không tốt (không đạt được kế
hoạch sản lượng, không tăng được thị phần doanh thu… ) nhưng vẫn có thể
đạt được hiệu quả cao, hiệu quả tối ưu, do sự kết hợp các yếu tố đầu vào để
sản xuất ra khối lượng sản phẩm đó là tối ưu, đặc biệt khi nhu cầu thị trường


10

thấp hơn năng lực sản xuất theo thiết kế kinh tế kỹ thuật của dây truyền sản
xuất của doanh nghiệp.
1.1.2.3.Vai trò của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu hữu hiệu để các nhà quản trị
doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ quản trị kinh doanh. Với bất kỳ một hoạt
động sản xuất kinh doanh nào, các doanh nghiệp đều phải huy động và sử
dụng các nguồn lực trong khả năng của mình để đạt được kết quả như mục
tiêu của doanh nghiệp.
Ở mỗi giai đoạn phát triển, doanh nghiệp có nhiều mục tiêu khác nhau.
Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng, bao trùm toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp, nhiều
công cụ khác nhau. Việc tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không những
cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá đúng tình trạng của các hoạt
động sản xuất kinh doanh hiện tại (trả lời được câu hỏi các hoạt động có hiệu
quả hay không và nếu có thì đang đạt hiệu quả ở mức độ nào), mà còn là căn
cứ để từ đó xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp (tức là xác định các nguyên nhân làm tăng hoặc
giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp).
Đây là cơ sở để các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra được các biện
pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai phương diện: giảm chi phí sản xuất
và/hoặc tăng năng suất lao động, năng suất vốn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Là một công cụ quản trị kinh doanh, hiệu quả sản xuất kinh doanh
không chỉ được sử dụng để kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ sử dụng
tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp, mà còn
được sử dụng để kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào riêng
biệt. Do vậy xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả
sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong
việc kiểm tra đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, lựa



11
chọn được các phương pháp hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu của doanh
nghiệp đã đề ra.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp các nhà quản trị doanh nghiệp còn coi
hiệu quả kinh tế như là các nhiệm vụ, các mục tiêu để thực hiện. Vì đối với
các nhà quản trị kinh doanh, khi nói đến các hoạt động sản xuất kinh doanh
thì họ đều quan tâm đến tính hiệu quả của nó. Do vậy mà hiệu quả sản xuất
kinh doanh có vai trò là công cụ để thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh
đồng thời vừa là mục tiêu để quản trị kinh doanh.
1.1.2.4. Phân biệt các loại hiệu quả
Thực tế cho thấy hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Trong luận án của mình,
tác giả giới hạn cách hiểu thuật ngữ hiệu quả ở giác độ kinh tế - xã hội.
Xét trên phương diện này, có thể phân biệt giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả
xã hội và hiệu quả kinh tế-xã hội.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là: giải
quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế;
giảm số người thất nghiệp; nâng cao trình độ và đời sống văn hóa, tinh thần
cho người lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng
cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở giải quyết tốt các quan hệ
trong phân phối, đảm bảo và nâng cao sức khỏe; đảm bảo vệ sinh môi
trường... Nếu xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa
các kết quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động,
nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần, giải quyết công ăn việc làm...) và chi
phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Thông thường các mục tiêu kinh tế-xã hội
phải được chú ý giải quyết trên giác độ vĩ mô nên hiệu quả xã hội cũng
thường được quan tâm nghiên cứu ở phạm vi quản lý vĩ mô.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh như đã được bàn ở phần trên; với bản


12
chất của nó, hiệu quả kinh tế là phạm trù phải được quan tâm nghiên cứu ở
các hai giác độ vĩ mô và vi mô. Nếu xét ở từng phạm vi nghiên cứu, có thể
thấy hiệu quả kinh tế được thể hiện ở các cấp độ khác nhau như hiệu quả
kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế ngành, hiệu quả
kinh tế vùng lãnh thổ và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
tế quốc dân chỉ có thể đạt được khi và chỉ khi, hiệu quả kinh tế ngành cũng
như hiệu quả kinh tế vùng lãnh thổ đạt được, tức là hiệu quả sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế đạt được. Trong phạm vi
luận án, tác giả chỉ quan tâm, phân tích hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh ở cấp độ doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế-xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại cho xã
hội và nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà
nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của
người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội.
Tóm lại trong quản lý, quá trình kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế
được biểu hiện ở các loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở
để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tế và xác
định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.2. Đo lường hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh
1.2.1. Hệ thống khái niệm
Để đo lường hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, trước hết cần thống nhất một số khái niệm căn bản như sau:
- Doanh thu: Là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được
trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động SXKD thông thường của doanh
nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
- Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ

sản phẩm, dịch vụ, bao gồm cả chi phí bảo hành sản phẩm.
- Chi phí vật tư trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu sử


13
dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí lương, tiền công, các
khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ mà doanh
nghiệp phải nộp theo quy định như bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo
hiểm y tế của công nhân sản xuất.
- Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí sử dụng cho hoạt động sản
xuất, chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
Bao gồm: Chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ; khấu hao tài sản cố định
phân xưởng, tiền lương các khoản trích nộp theo quy định của nhân viên phân
xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phạm vi
phân xưởng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí cho bộ máy quản
lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như: Chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản
cố định phục vụ bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp; tiền lương và các
khoản trích nộp theo quy định của bộ máy quản lý và điều hành doanh
nghiệp; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí khác bằng tiền phát sinh ở doanh
nghiệp như chi phí về tiếp tân khánh tiết, giao dịch, chi các khoản trợ cấp thôi
việc cho người lao động
- Chi phí cố định: Là chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng
kể) theo sự thay đổi qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thuộc loại này có: Chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí tiền lương quản lý,
lãi tiền vay phải trả, chi phí thuê tài sản, văn phòng.
- Chi phí biến đổi: Là các chi phí thay đổi trực tiếp theo sự thay đổi của
qui mô sản xuất. Thuộc loại này có chi phí nguyên vật liệu, tiền lương

công nhân sản xuất trực tiếp…
- Doanh số bán: Tổng số tiền thu được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ
- Vốn sản xuất: Vốn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ đất đai, nhà
xưởng, công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu … phục vụ quá trình sản xuất.


14
Vốn sản xuất bao gồm giá trị của tài sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình.
Vốn sản xuất bao gồm tài sản cố định, tài sản lưu động và tiền mặt dùng cho
sản xuất.
- Lãi gộp: là phần còn lại của doanh số bán sau khi trừ đi phần chi phí
biến đổi
- Lợi nhuận trước thuế là phần lãi gộp sau khi đã trừ đi chi phí cố định
- Lợi nhuận sau thuế hay còn gọi là lợi nhuận thuần (lãi ròng) bằng lợi
nhuận trước thuế trừ đi các khoản thuế. Mối quan hệ giữa doanh số bán với
các chỉ tiêu chi phí, lãi gộp và lợi nhuận được trình bày trong Bảng 1.1 sau:
Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa các chỉ số đo lường hoạt động
của hiệu quả sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp
Doanh số bán
Chi phí biến đổi
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định
Tổng chi phí sản xuất

Lãi gộp
Lợi nhuận trước thuế
Thuế
Lợi nhuận thuần túy (lãi ròng)

1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp

1.2.2.1. Các chỉ tiêu doanh lợi
Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh, các
nhà kinh tế cũng như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh thực tế ở các
doanh nghiệp và các nhà tài trợ khi xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính toán đánh giá chỉ tiêu chung
phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh lợi được đánh giá cho
hai loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp: (a) toàn bộ vốn kinh doanh bao
gồm cả vốn tự có và vốn đi vay; và (b) chỉ tính cho vốn tự có của doanh
nghiệp, đây là những chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời của số vốn kinh doanh,
khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn mà doanh
nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng số vốn tự có của doanh
nghiệp nói riêng. Theo giáo trình học liệu mở Việt Nam năm 2010 của
Trương Hòa Bình và Võ Thị Tuyết và nhiều tác giả coi các chỉ tiêu sau là


15
thước đo mang tính quyết định đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
a. Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh
VKD

D

( ∏R + ∏VV)

=

VKD

x 100


(1)

Trong đó:
DVKD: Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh
∏R: Lãi ròng;
∏VV: Lãi trả vốn vay
VKD: Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
b. Doanh lợi của vốn tự có
VTC

D

=

∏R x 100

(2)

VTC

Trong đó:
DVTC: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ nhất định
VTC: Tổng vốn tự có
Bên cạnh hai chỉ tiêu này, các nhà quản trị kinh doanh cũng sử dụng chỉ tiêu
doanh lợi của doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
TR

D =

∏R x 100

TR

(3)

Trong đó:
DTR: Doanh lợi của doanh thu trong một thời kỳ nhất định
TR: Doanh thu trong thời kỳ đó.

1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
Do có nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên
phương diện lý thuyết, nên thực tế cũng có thể có nhiều cách biểu hiện cụ thể
khác nhau. Có thể đánh giá hiệu quả kinh tế từ góc độ chi phí tài chính hoặc
từ góc độ chi phí kinh doanh như hai công thức tính dưới đây:
a. Tính hiệu quả kinh tế theo chi phí tài chính


16

H=

TR x 100
TCKD

(4)

Trong đó:
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
TR: Doanh thu
TCKD: Chi phí kinh doanh
b.Tính hiệu quả kinh tế theo chi phí kinh doanh

H=

CTT x 100
CPĐ

(5)

Trong đó:
CTT: Chi phí kinh doanh thực tế
CPĐ: Chi phí kinh doanh phải đạt
Trong các công thức trên, cần phải hiểu chi phí kinh doanh thực tế là
chi phí xác định trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Chi
phí kinh doanh phải đạt là chi phí kinh doanh chi ra trong điều kiện kinh
doanh thuận lợi nhất. Công thức này được sử dụng rất nhiều trong phân tích,
đánh giá tính hiệu quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
nói chung và từng bộ phận kinh doanh nói riêng.
1.2.3. Một số chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp và
hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận
Bên cạnh các chỉ tiêu phản ánh khái quát hiệu quả sản xuất kinh doanh
như các yếu tố nguyên, nhiên vật liệu, lao động, yếu tố quản trị... người ta còn
dùng các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng
mặt hoạt động, từng yếu tố sản xuất cụ thể.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả bộ phận đảm nhiệm hai chức năng cơ
bản sau:
- Phân tích có tính chất bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số
trường hợp kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu
tổng hợp.
- Phân tích hiệu quả từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng từng yếu tố



17
sản xuất nhằm tìm biện pháp làm tối đa chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh
tổng hợp. Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và chỉ tiêu hiệu
quả kinh tế bộ phận không nhất thiết là mối quan hệ cùng chiều. Trong
khi chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì một số chỉ tiêu bộ phận tăng có thể lên
và cũng có thể có những chỉ tiêu bộ phận khác không đổi hoặc giảm. Vì
vậy, cần chú ý là:
+ Chỉ có chỉ tiêu tổng hợp đánh giá được hiệu quả toàn diện và đại diện
cho hiệu quả kinh doanh, còn các chỉ tiêu bộ phận không đảm nhiệm được
chức năng đó.
+ Các chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt
động (bộ phận) nên thường được sử dụng trong thống kê, phân tích cụ thể
chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ
phận công tác đến hiệu quả kinh tế tổng hợp.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận
a. Hiệu quả sử dụng vốn
Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết để tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thiếu vốn, mọi hoạt động của doanh
nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém hiệu quả. Do đó các nhà kinh tế cho rằng chỉ
tiêu hiệu quả sử dụng vốn là một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Chỉ
tiêu này đã được xác định thông qua công thức (2) và (3). Ở đây có thể đưa ra
một số công thức được coi là để đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn và từng
bộ phận vốn của doanh nghiệp:
- Số vòng quay toàn bộ vốn (SVV):
SVV = TR/ VKD

(6)


Với SVV là số vòng quay của vốn. Số vòng quay vốn càng lớn hiệu suất
sử dụng vốn càng lớn.
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (HTSCĐ):
HTSCĐ = ПR/ TSCĐG

(7)


18
Trong đó:
HTSCĐ: Hiệu suất sử dụng vốn (tài sản) cố định
TSCĐG: Tổng giá trị tài sản cố định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tài
sản cố định tích lũy đến thời điểm lập báo cáo.
Ngoài ra, trong những điều kiện nhất định còn có thể được cộng thêm
những chi phí xây dựng dở dang. Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện
một đồng tài sản cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiều đồng lãi,
thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh, khả năng
sinh lợi của tài sản cố định.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn có thể được đánh giá theo phương
pháp ngược lại, tức là lấy nghịch đảo công thức trên và gọi là suất tài sản cố
định. Chỉ tiêu nghịch đảo công thức trên và gọi là suất tài sản cố định. Chỉ
tiêu nghịch đảo này cho biết để tạo ra một đồng lãi, doanh nghiệp cần phải sử
dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân
của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố
định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỉ trọng lớn, sử
dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
HVLĐ = ПR/ VLĐ


(8)

Với HVLĐ là hiệu quả sử dụng vốn lưu động và VLĐ là vốn lưu động bình
quân trong năm. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tao ra bao
nhiêu lợi nhuận trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua số
vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SV VLĐ) hoặc số ngày bình quân
một vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SNLC):
SVVLĐ = TR / VLĐ
SNLC =

365
SVVLĐ

=

(9)
365 x VLĐ
TR

(10)


19

Có thể thấy rằng, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi nhuận
sẽ bằng tích của tỷ suất lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh nhân với số
vòng luân chuyển lưu động:
∏R
TR

H =
=
(11)
VLĐ
TR
Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong vốn kinh doanh
VLĐ

thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động.
Số vòng quay vốn lưu động cao sẽ có thể đưa tới hiệu quả sử dụng vốn cao.
Trong các công thức trên, vốn lưu động bình quân là số trung bình của giá trị
vốn lưu động ở thời điểm đầu kỳ và ở thời điểm cuối kỳ.
b. Hiệu quả sử dụng lao động
Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản trong sản xuất, góp
phần quan trọng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng
lao động biểu hiện ở năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu
suất tiền lương.
- Năng suất lao động
Trước hết có năng suất lao động bình quân năm (NSLĐ N) xác định theo
công thức:
NSLĐN =

QHV
AL

(12)

Trong đó:
QHV: Sản lượng tính bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị
AL: Số lượng lao động bình quân trong năm.

Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử
dụng thời gian lao động trong năm: số ngày bình quân làm việc trong năm, số
giờ bình quân làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp và năng
suất lao động bình quân mỗi giờ. Năng suất lao động theo giờ (NSLĐ G) được
xác định từ chỉ tiêu năng suất lao động năm:


20
NSLĐG = NSLĐN/N.C.G

(13)

Trong đó:
N: Số ngày làm việc bình quân trong năm;
C: Số ca làm việc trong ngày;
G: Số giờ làm việc bình quân mỗi ca lao động
NSLĐG: Năng suất lao động bình quân mỗi giờ làm việc của một
lao động.
Chỉ tiêu này còn có thể được xác định bằng nhiều cách khác nữa, chẳng
hạn xác định trực tiếp từ sản lượng tạo ra trong một ca lao động hoặc một
ngày làm việc,... tương tự như công thức (12)
Về bản chất, chỉ tiêu năng suất lao động được xác định phù hợp với
công thức khái niệm hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và do đó biểu
hiện tính hiệu quả trong việc sử dụng lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân
của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một
lao động cho biết mỗi lao động được sử dụng trong doanh nghiệp tao ra được
bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này có thể được xác
định theo công thức:

BQ



=

∏R
L

(14)

Trong đó:
ПBQ: Lợi nhuận bình quân do một lao động tạo ra
L: Số lao động tham gia
- Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương (HW)
HW = ПR/TL
Trong đó
HW: Hiệu suất tiền lương

(15)


21
TL: Tổng quỹ tiền lương và các khoản tiền thưởng có tính chất lương
trong kỳ.
Hiệu suất tiền lương cho biết chỉ ra một đồng tiền lương đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên khi
năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương.
c. Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu
- Vòng luân chuyển nguyên vật liệu (SVNVL):

SV

NVL

=

NVLSD
NVLDT

(16)

Trong đó:
SVNVL: Số vòng luân chuyển nguyên vật liệu
NVLSD: Giá vốn nguyên vật liệu đã dùng
NVLDT: Giá trị lượng nguyên vật liệu dự trữ.
- Vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang (SVSPDD)
SVSPDD =

ZHHCB
VTDT

(17)

Trong đó:
SVSPDD : Số vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang,
ZHHCB: Tổng giá thành hàng hóa đã chế biến
VTDT: Giá trị vật tư dự trữ đưa vào chế biến.
Hai chỉ tiêu trên cho biết khả năng khai thác các nguồn nguyên liệu vật
tư của doanh nghiệp, đánh giá chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hai chỉ tiêu trên mà cao cho biết doanh nghiệp giảm được chi phí cho

nguyên vật liệu dự trữ, rút ngắn chu kỳ hoạt động về chuyển đổi nguyên vật
liệu thành thành phẩm, giảm bớt sự ứ đọng của nguyên vật liệu tồn kho và
tăng vòng quay vốn lưu động. Nhược điểm là có thể doanh nghiệp thiếu
nguyên vật liệu dự trữ, cạn kho, không đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhu cầu.
Ngoài ra, để sử dụng nguyên vật liệu có hiệu quả người ta còn đánh giá mức
thiệt hại, mất mát nguyên vật liệu trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ
tiêu này được đo bằng tỉ số giữa giá trị nguyên vật liệu hao hụt, mất mát trên


22
tổng giá trị nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ. Người ta so sánh chỉ tiêu này
với các định mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành hoặc đối chiếu với mức hao
hụt kỳ trước... để dưa ra quyết định thích hợp nhằm sử dụng vật tư tiết kiệm,
đúng mục đích, phù hợp thực tế sản xuất và có hiệu quả.
d. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh ở từng bộ phận bên trong
doanh nghiệp
Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động ở từng bộ phận kinh doanh của doanh
nghiệp phản ánh tính hiệu quả của hoạt động chung cũng như từng mặt hoạt
động kinh tế diễn ra ở từng bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Đó có thể
là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ hoặc trang thiết bị
lại ở phạm vi toàn doanh nghiệp hoặc từng bộ phận bên trong doanh nghiệp;
hiệu quả ở từng bộ phận quản trị và thực hiện các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp; hiệu quả của từng quyết định sản xuất kinh doanh và thực hiện
chức năng quản trị doanh nghiệp... Tùy theo từng hoạt động cụ thể có thể xây
dựng hệ thống chỉ tiêu và tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động thích hợp. Về
nguyên tắc, đối với hiệu quả của từng bộ phận công tác bên trong doanh
nghiệp (từng phân xưởng, từng ngành, từng tổ sản xuất...) có thể xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tương tự như hệ thống chỉ tiêu đã
xác định cho phạm vi toàn doanh nghiệp. Riêng hệ thống chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả đầu tư, do tính đặc thủ của hoạt động này đòi hỏi phải xây dựng hệ

thống chỉ tiêu phù hợp.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ là nhân tố giúp công ty chiếm được
lòng tin của người tiêu dùng cũng như lòng tin của các đối tác trong sản xuất
kinh doanh từ đó càng nâng cao vị thế cũng như uy tín của công ty trên
thương trường điều này làm tăng giá trị vô hình của công ty lên cao hơn. Đảm


23
bảo chất lượng sản phẩm là một trong những điều kiện để nâng cao doanh thu
cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng sản
phẩm được làm ra phụ thuộc vào nhóm các nhân tố cơ bản: (1) Nhóm các
nhân tố trong quá trình sản xuất, và (2) Nhóm các nhân tố trong quá trình lưu
thông. Trong nhóm các nhân tố thuộc quá trình sản xuất có: a) tay nghề, kỹ
năng của người lao động; và b) trình độ công nghệ máy móc thiết bị, c) chất
lượng hoạt động R&D. Trong nhóm các nhân tố thuộc quá trình lưu thông có
a) cự ly từ nhà máy đến thị trường phân phối sản phẩm, và b) chất lượng của
hệ thống chuyên trở sản phẩm từ nơi có nguồn nguyên vật liệu đến nơi sản
xuất và từ nơi sản xuất đến thị trường tiêu thụ. Ví dụ: Một số loại vac-xin cần
những điều kiện bảo đảm đặc biệt và nếu không đáp ứng được (cả trong quá
trình sản xuất và lưu thông) thì chất lượng không được đảm bảo.
1.3.1.1. Trình độ tay nghề của người lao động
Sản xuất sản phẩm phụ thuộc căn bản vào công nghệ sản xuất và trình
độ tay nghề của người lao động. Trình độ tay nghề của người lao động phụ
thuộc vào kết quả đào tạo nghề và kinh nghiệm thực tiễn trong sản xuất. Tay
nghề của người lao động cao sẽ góp phần làm cho năng suất sản xuất cao, số
lượng sản phẩm hỏng ít và do đó, chi phí đầu vào để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm đầu ra giảm xuống.
1.3.1.2. Trình độ của máy móc thiết bị

Chất lượng sản phẩm cũng phụ thuộc căn bản vào chất lượng của hệ
thống công nghệ sản xuất. Nếu như thiết kế kỹ thuật của hệ thống công nghệ
tốt, số lượng sản phẩm hỏng, do máy móc trục trặc giảm xuống. Nói cách
khác, công nghệ hiện đại sẽ góp phần nâng cao năng suất sản phẩm và chất
lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí đầu vào.
1.3.1.3. Chất lượng hệ thống lưu kho
Sản phẩm lưu kho của thuốc cần được bảo quản trong điều kiện tốt
nhất, tuân thủ theo đúng qui định tiêu chuẩn kho GSP ( Thực hành tốt bảo


24
quản). Việc tính toán phù hợp dự trũ nguyên vật liệu dùng cho sản xuất
cũng như tồn kho các thành phẩm giúp cho hệ thống lưu kho hoạt động
đúng công suất thiết kế từ đó giũ được chất lượng của sản phẩm không bị
giảm, chống được nhiễm tạp, nhiễm chéo trong quá trình bảo quản của các
sản phẩm. Ngược lại nếu hệ thống lưu kho của doanh nghiệp không thực
hiện tốt theo đúng qui trình và được tính toán nguyên vật liệu cũng như các
thành phẩm được phù hợp thiết kế của hệ thống lưu kho thì việc chất lượng
sản phẩm giảm sút, nhầm lẫn, thất thoát gây ảnh hưởng không nhỏ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
1.3.1.4. Chất lượng hệ thống vận chuyển
Đảm bảo nguồn hàng:
Kế hoạch đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất cũng như sản phẩm sản
xuất ra luôn ổn định và có dư trữ phù hợp giúp công ty giảm chi phí lưu kho,
vốn tồn đọng trong hàng tồn kho và luôn đảm bảo việc kinh doanh không bị
gián đoạn do thiếu nguyên vật liệu, sản phẩm nâng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty và tăng khả năng canh tranh với các công ty khác
1.3.1.5. Chiến lược nghiên cứu và phát triển sản phẩm (R&D)
Mặc dù hoạt động R&D là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến
quá trình sản xuất, nhưng với tầm quan trọng đặc biệt, hoạt động này thường

được xếp riêng một mục để phân tích và nghiên cứu. Hoạt động R&D là
phương thức căn bản để a) tạo ra sản phẩm mới có chất lượng hoặc b) cải tiến
sản phẩm cũ hoặc c) nâng cao chất lượng dây truyền máy móc, hoặc d) tăng
cường tay nghề cho đội ngũ sản xuất.
Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới, cải tiến, áp
dụng kỹ thuật mang tính vượt trội, khác biệt nhằm mang lại khả năng chiếm
lĩnh thị trường nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty
- Nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển có trình độ:
Nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển có trình độ là nhân tố then
chốt trong mỗi công ty. Một công ty có cơ cấu nguồn nhân lực dồi dào, có


25
trình độ, có tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật và có môi trường làm việc lành
mạnh doanh nghiệp đó sẽ luôn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả
nhất. Nguồn nhân lực dồi dao có trình độ luôn nhanh nhạy sử dụng hiệu quả
vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
và tăng khả năng của công ty.
1.3.1.6 . Nguồn tài chính ổn định
Đảm bảo nguồn tài chính ổn định là đảm bảo việc vận hành bộ máy
quản lý cũng như hoạt động sản xuất được diễn ra liên tục đảm bảo công việc
cho người lao động. Ngoài ra nguồn tài chính ổn định còn giúp cho công ty có
điêu kiện đầu tư đổi mới công nghệ áp dụng những kỹ thuật tiên tiến giúp
giảm chi phi nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty. Ngược lại nếu tài chính không ổn định sẽ không duy trì được sản
xuất một cách bình thường và không có điều kiện đầu tư công nghệ mới và từ
đó hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao sức cạnh tranh yếu nguy cơ phá
sản là rất lớn.
1.3.1.7. Năng lực quản trị doanh nghiệp
Một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp hiện

nay là năng lực quản trị doanh nghiệp của đội ngũ lãnh đạo. Hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được quyết định mới năng lực quản trị của
đội ngũ các nhà quản lý.
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần có chiến lược và chiến thuật.
Chiến lược kinh doanh là định hướng căn bản nhất, là kim chỉ nam để dẫn dắt
doanh nghiệp đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Chiến thuật là những lộ trình
thực hiện, nhằm cụ thể hóa từng bước đi để đạt được mục tiêu đề ra trong
chiến lược, trong từng giai đoạn cụ thể.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị của đội ngũ quản lý bao
gồm: Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp; trình độ hiểu biết về sản phẩm và kỹ
thuật sản xuất sản phẩm; trình độ quản lý của từng cấp doanh nghiệp;
Cơ cấu tổ chức là nhân tố quan trọng. Đối với nhiều doanh nghiệp, cơ


×