1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật,
những tiến bộ trong y học, y tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng, dần tiếp cận được với nền y học tiên tiến trên thế giới. Những sự tiến
bộ đó góp phần quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, làm
giảm tỷ lệ tử vong nói chung và tử vong sơ sinh (TVSS) nói riêng trong đó có
nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng cực thấp. Tuy nhiên, tỷ lệ TVSS còn giảm rất
chậm so với tử vong chung ở trẻ em. Ước tính hàng năm số trẻ sơ sinh tử
vong chiếm khoảng 38% tử vong trẻ em. TVSS tập trung chủ yếu ở các nước
có thu nhập thấp và trung bình. Tử vong trong 24 giờ đầu sau sinh chiếm 2/3
tổng số tử vong trong giai đoạn sơ sinh sớm và bằng 25-45 % TVSS [42].
TVSS là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá chất lượng chăm sóc sản
khoa, sơ sinh cũng như sự tiến bộ y tế của một quốc gia.Vì thế trong lĩnh vực
hồi sức sơ sinh, TVSS luôn là vấn đề được quan tâm. nghiên cứu đặc biệt tử
vong của trẻ đẻ non do đây là nhóm trẻ có nhiều nguy cơ và có tỷ lệ tử vong
cao nhất [10],[ 11],[ 13],[ 15],[ 16],[ 17].
TVSS giảm chậm đặt ra những đòi hỏi cấp thiết về đầu tư nhân lực, kinh
phí và phương tiện cho chăm sóc, chẩn đoán và điều trị sơ sinh. Tuy nhiên
TVSS khác nhau rõ rệt ở những quốc gia có nền kinh tế khác nhau, các vùng
lãnh thổ, các bệnh viện, các trung tâm hồi sức với cơ sở vật chất, trình độ kĩ
thuật khác nhau. Từ đó yêu cầu sự ra đời các mô hình chẩn đoán, tiên lượng
bệnh tật và tử vong phù hợp. Nhiều thang điểm đánh giá mức độ nặng, cũng
như nhiều thang điểm tiên lượng nguy cơ tử vong đã được xây dựng và áp
dụng. Mục đích của việc đánh giá trên là để phân loại bệnh nhân trong các ca
bệnh hỗn hợp, phân bổ nhân lực, phương tiện, kinh phí cho việc chăm sóc trẻ
bị bệnh đạt hiệu quả cao nhất, nhằm làm giảm nguy cơ tử vong cũng như giá
2
thành điều trị. Năm 1993, hiệp hội sơ sinh quốc tế đã đưa ra một thang điểm
mới, thang điểm CRIB (Clinical Risk Index for Babies), được xây dựng dựa
trên 6 biến số: cân nặng, tuổi thai, dị tật bẩm sinh, FiO2 cao nhất và thấp nhất
thích hợp, kiềm dư thấp nhất trong 12 giờ đầu tiên sau sinh [44]. Theo nhiều
tác giả trên thế giới cũng như Việt Nam đã chứng minh thang điểm CRIB có
khả năng phân tách tốt giữa hai nhóm tử vong và sống tại các đơn vị hồi sức
sơ sinh [1],[ 22],[ 24],[ 32]. Mặc dù từ thời điểm đó đến nay, nhiều thang
điểm mới đã được xây dựng và cải tiến nhưng thang điểm CRIB vẫn được áp
dụng rộng rãi và hiệu quả ở nhiều đơn vị hồi sức sơ sinh trên thế giới[27],[
32].
Ở Việt Nam có bốn công trình nghiên cứu về ứng dụng thang điểm
CRIB vào đánh giá nguy cơ tử vong trên hai nhóm trẻ khác nhau: trẻ sơ sinh
non tháng nhẹ cân, trẻ sơ sinh tại khoa hồi sức bệnh viện Nhi Đồng II (BV
NĐ-II) của Phạm Lê An và so sánh áp dụng trên trẻ sơ sinh tại hai khoa hồi
sức và cấp cứu BV NĐ-II của Võ Công Đồng và Phạm Lê An. Nghiên cứu
đánh giá giá trị tiên lượng tử vong của thang điểm CRIB ở trẻ đẻ non tại bệnh
viện Nhi Trung ương của Vũ Vân Yến và Phạm Thị Xuân Tú cho thấy: thang
điểm có khả năng phân cách tốt nhóm tử vong và sống ở cả trên trẻ sơ sinh
non tháng nhẹ cân và trẻ sơ sinh [1],[ 2],[ 5],[ 21]. Tại bệnh viện Trẻ em Hải
Phòng, khoa hồi sức cấp cứu chưa có đơn vị hồi sức sơ sinh riêng. Bệnh viện
đang xây dựng kế hoạch hình thành một trung tâm hồi sức sơ sinh trong khi
TVSS đặc biệt là tử vong sơ sinh đẻ non còn chiếm tỷ lệ cao.Vì vậy chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm hai mục tiêu:
1. Đánh giá giá trị tiên lượng nguy cơ tử vong theo thang điểm CRIB
ở trẻ đẻ non tại khoa hồi sức cấp cứu và chống độc bệnh viện trẻ em Hải
Phòng từ 01/01/2015 đến 31/08/2015 .
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tử vong của trẻ đẻ non.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái quát đặc điểm sinh lý, bệnh lý ở trẻ đẻ non.
1.1.1. Phân loại sơ sinh:[3]
Xác định tuổi thai bằng theo dõi siêu âm từ tuần thứ 12 là phương pháp
tương đối chính xác. Có thể dựa vào tiêu chuẩn hình thái của Valerie Farr
hoặc Finstom kết hợp khai thác kỳ kinh cuối cùng của mẹ để xác định tuổi
thai về mức độ trưởng thành và biểu đồ Lubchenco để xác định mức độ suy
dinh dưỡng.
+ Theo tuổi thai:
- Sơ sinh non tháng: tuổi thai chia làm 3 mức độ:
< 28 tuần thai : đẻ quá non
Từ 28 – 32 tuần thai : đẻ rất non
Từ 33 - 36 tuần thai : đẻ non
- Sơ sinh đủ tháng: 37 - 42 tuần thai
- Cân nặng, vòng đầu, chiều cao nằm trong vòng giới hạn giữa 2 đường
biểu diễn 10 – 90 chỉ bách phân trên biểu đồ Lubchenco. Cân nặng trung bình
2800 gr – 3100 gr, chiều cao trung bình: 50 cm, vòng đầu trung bình 35 cm.
- Sơ sinh già tháng: > 42 tuần
+ Theo cân nặng:
- Sơ sinh bình thường: 2500 – 4000 gr (từ 10 – 90 bách phân vị trên biểu
đồ Lubchenco).
- Sơ sinh nhẹ cân: < 2500g (dưới 10 bách phân vị trên biểu đồ
Lubchenco).
- Sơ sinh nặng cân > 4000g (trên 90 bách phân vị trên biểu đồ
Lubchenco).
4
+ Theo tuổi thai và cân nặng:
- Cân nặng tương ứng với tuổi thai.
- Cân nặng thấp so với tuổi thai (dưới 10 bách phân vị theo biểu đồ
Lubchenco) gồm suy dinh dưỡng bào thai và chậm phát triển trong tử cung.
- Cân nặng lớn hơn so với tuổi thai tương ứng (trên 90 bách phân vị theo
biểu đồ Lubchenco).
- Theo lý thuyết cân nặng tương ứng tuổi thai là < 500 gr, <1000 gr và <
1500 gr tương ứng lần lượt với dưới 25, 28 và 31 tuần thai.
1.1.2. Trẻ sơ sinh thiếu tháng (đẻ non)[3]
■ Định nghĩa:
Trẻ đẻ non là trẻ ra đời trước 37 tuần và có khả năng sống được.
Trẻ có khả năng sống được là trẻ có tuổi thai ≥ 22 tuần hoặc cân nặng
≥500g.
■ Đặc điểm hình thể ngoài :
+ Cân nặng: < 2500 g
+ Chiều dài: < 45 cm
+ Da: càng đẻ non da càng mỏng, đỏ, nhiều mạch máu dưới da rõ, tổ chức
mỡ dưới da phát triển kém. Tổ chức vú và đầu vú chưa phát triển.
+ Móng chi mềm, ngắn không chùm các ngón.
+ Tai mềm, sụn vành tai chưa phát triển. Cơ nhẽo, trương lực giảm.
Xương mềm, đầu to so với tỉ lệ cơ thể (>1/4).
+ Các chi luôn trong tư thế duỗi.
+ Sinh dục ngoài: trẻ trai tinh hoàn chưa xuống hạ nang, trẻ gái môi lớn
chưa phát triển không che kín âm vật và môi nhỏ.
■ Đặc điểm sinh bệnh lý:
Tất cả trẻ đẻ non, tuỳ theo mức độ non tháng, ít nhiều có sự thiếu trưởng
thành của các hệ thống, cơ quan trong cơ thể.
5
- Hệ hô hấp:
+ Trung tâm hô hấp chưa hoàn chỉnh, trẻ thường thở không đều, có cơn
ngừng thở. Trẻ càng non, nguy cơ rối loạn nhịp thở và thời gian rối loạn nhịp
thở càng kéo dài.
+ Tổ chức phổi chưa trưởng thành. Các phế bào vẫn là các tế bào hình
trụ. Tổ chức đàn hồi còn ít trong khi các tổ chức liên kết đã phát triển. Do đó,
phế nang khó giãn nở. Phổi còn chứa nhiều dịch như nước ối của thời kỳ bào
thai tiêu đi chậm, các mao mạch tăng tính thấm dễ xung huyết. Lồng ngực
hẹp, các xương sườn mềm, dễ bị biến dạng, các cơ liên sườn chưa phát triển
nên giãn nở kém làm hạn chế sự di động của lồng ngực. Tất cả các yếu tố trên
gây cản trở hô hấp của trẻ đẻ non, dễ gây nên xẹp phổi, xung huyết phổi, bệnh
màng trong.
- Hệ tuần hoàn và máu:
+ Ống động mạch và lỗ Botal đóng chậm, nếu có suy hô hấp, các shunt ở
phổi tăng thì ống động mạch đóng càng chậm, hậu quả tăng áp động mạch
phổi, suy tim trái, xuất huyết phổi.
+ Các mao mạch nhỏ, số lượng ít, tổ chức tế bào thành mạch chưa phát
triển, dễ vỡ, dễ thoát quản, dễ phù nề nhất là khi thiếu oxy. Các tế bào máu số
lượng đều thấp hơn trẻ đủ tháng.
+ Các yếu tố đông máu vừa thiếu lại vừa kém về chất lượng đặc biệt là
prothrombin giảm nhiều. Các vitamin A, D, E, K đều thiếu . Những yếu tố
trên là điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của xuất huyết như não, phổi, tiêu
hóa…
- Hệ thần kinh:
+ Thần kinh võ não chưa hoạt động, trẻ li bì, thở nông. Các phản xạ bẩm
sinh yếu hoặc chưa có tuỳ thuộc vào mức độ đẻ non.
6
+ Các mạch máu não có tính thấm cao và thiếu các men chuyển nên dễ
bị tổn thương, xuất huyết.
- Hệ miễn dịch:
+ Hệ miễn dịch của trẻ đẻ non kém phát triển, khả năng tự tạo miễn dịch
còn yếu. Các tế bào bạch cầu, đại thực bào chưa trưởng thành, hoạt động kém.
Các globulin miễn dịch thiếu cả về lượng và chất, lượng IgG của mẹ truyền
sang qua rau thau có ít do đẻ non. Những nguyên nhân trên làm cho sơ sinh
non tháng rất dễ bị nhiễm khuẩn, tỷ lệ tử vong cao.
- Hệ tiêu hoá:
Hệ tiêu hoá còn kém phát triển. Các men tiêu hoá ít về số lượng và kém
về chất lượng. Nhu động của ống tiêu hoá yếu. Chức năng gan kém, hầu như
không có glycogen dự trữ, gan không sản suất được một số men chuyển hoá
như cacbonic anhydrase, glucuronyl tranferase…Vì vậy trẻ đẻ non dễ bị hạ
đường máu, dễ tan máu, vàng da.
- Hệ tiết niệu:
Thận hoạt động kém chức năng lọc và đào thải chưa hoàn chỉnh, giữ
muối, nước, chất điện giải nhiều nên dễ bị phù, rối loạn thăng bằng nước điện
giải, dễ nhiễm toan.
- Các hệ cơ quan khác trong cơ thể đều kém trưởng thành tùy vào mức
độ non yếu.
1.2. Tình hình tử vong sơ sinh.
- Tử vong sơ sinh là tử vong của trẻ trong 4 tuần đầu sau sinh. Tỷ lệ tử
vong sơ sinh được tính trên 1000 trẻ sinh ra sống.
- Tử vong sơ sinh sớm bao gồm tất cả trẻ đẻ ra có dấu hiệu sống và tử
vong xảy ra trong tuần đầu sau sinh.
- Tử vong sơ sinh muộn là tử vong xảy ra trong 8 – 28 ngày sau sinh.
7
- Tử vong chu sinh là tử vong xung quanh đẻ, là tử vong của bào thai ≥
22 tuần đẻ ra có khả năng sống đến sau đẻ 7 ngày, có nghĩa là gồm chết bào
thai muộn (≥ 22 tuần) và tử vong sơ sinh sớm.
1.2.1. Tình hình TVSS trên thế giới.
Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng liên hợp Quốc (UNICEF) (2012) : tính
đến tháng 12 năm 2012 có khoảng 6,6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu
đã tử vong trong năm 2012. Trong đó TVSS chiếm 44% ( khoảng 2.9 triệu trẻ
sơ sinh tử vong). TVSS ở các nước châu âu có giảm nhưng vẫn còn cao ở các
nước nghèo, tập trung cao nhất ở vùng cận Sahara và Đông Á.[49]
Theo báo cáo của tổ chức ‘Cứu trợ trẻ em’(Save The Children)(2013) :
hàng ngày thế giới có khoảng 1 triệu trẻ đã tử vong trong vòng 24 giờ đầu sau
khi sinh.[49]
Nguồn : WHO, Global Health Observatory.[49]
Hình 1. Phân bố tỷ lệ tử vong sơ sinh theo khu vực.
8
1.2.2. Tình hình TVSS ở Việt Nam
Tại Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Y tế (2012) : tử vong sơ sinh vẫn là
vấn đề nghiêm trọng, chiếm tới 60% các ca tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi và 40%
các ca tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi[4]. Theo thống kê của UNICEF (2013) : năm
2012 tỉ lệ TVSS là 12,4‰ và sơ trẻ sơ sinh tử vong trong 24 giờ đầu của
cuộc đời là 6200 trẻ. Có nhiều nguyên nhân gây ra tử vong sơ sinh. Trong đó
chủ yếu là đẻ non, biến chứng trong cuộc đẻ và nhiểm khuẩn[50].
- Theo thống kê 2003 của Bệnh viện Nhi Trung ương và một số bệnh
viện tỉnh phía Bắc, tỉ lệ tử vong sơ sinh chiếm 51% tử vong nhi chung [12].
- Tỉ lệ tử vong tại BV phụ sản trung ương [14] là 100% ở trẻ tuổi thai 26
– 27 tuần thai, 60% trẻ 28 – 30 tuần, 14 % ở trẻ 31- 34 tuần, 1.8% ở trẻ 35 –
37 tuần.
- Trẻ đẻ non dưới 1500 gram nguy cơ tử vong cao gấp 247,6 lần nhóm
trẻ cân nặng trên 3000 gram [9].
- Đoàn Thị Thanh Hương nghiên cứu nguyên nhân TVSS sớm tại bệnh
viện phụ sản Hải phòng thì tử vong ở trẻ đẻ non chiếm 70,96 % , trẻ cân nặng
thấp tỉ lệ tử vong cao gấp 32 lần trẻ cân nặng bình thường.[9]
- Theo nghiên cứu của Phạm Văn Dương : tỉ lệ tử vong trước 24 giờ vào
viện sơ sinh chiếm tỉ lệ lớn 76,08% trong đó ở trẻ dưới một ngày tuổi là
52,55%[6].
- Theo Đinh Văn Thức (2009) Tỉ lệ TVSS ở BVTE Hải Phòng trong 2
năm 2008-2009 là 69,6% trong số trẻ tử vong. Trong đó nhóm sơ sinh < 7
ngày tuổi chiếm 63.74%, từ 7-28 ngày tuổi chiếm 5.86%.
- Nghiên cứu của Lưu Kim Huệ, Đinh Văn Thức , tỉ lệ sơ sinh < 7 ngày
chiếm 68.63%, 7-28 ngày tuổi chiếm 5.32% [8]
9
1.2.3. Nguyên nhân tử vong sơ sinh.
Nguyên nhân tử vong sơ sinh rất khác nhau giữa các nước phát triển và
đang phát triển. Ở các nước phát triển, nguyên nhân chủ yếu gây tử vong là
các dị tật bẩm sinh, còn ở các nước đang phát triển tử vong sơ sinh do các
bệnh nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao, phổ biến là nhiễn khuẩn hô hấp, nhiễm
khuẩn máu, viêm màng não, uốn ván rốn…Số liệu từ các nghiên cứu cho thấy
rằng ở những nơi có tỷ lệ TVSS cao thì 50% tử vong sơ sinh là do nhiễm
khuẩn và tiêu chảy [41]. Theo Đinh Phương Hòa (2005) điều tra ở 7 viện nhi
và 10 bệnh viện tỉnh năm 2003 cho thấy nguyên nhân TVSS chủ yếu là ở trẻ
đẻ non và đẻ nhẹ cân (23%), ngạt sau đẻ (15%), viêm phổi (12%), nhiễm
khuẩn (12 %) và dị tật bẩm sinh (12,9%) [7].
1.2.4. Các yếu tố liên quan đến tử vong sơ sinh
1.24.1. Cân nặng :
Trẻ có cân nặng lúc đẻ thấp (<2500g) gồm cả trẻ đẻ non và suy dinh
dưỡng bào thai là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, trẻ càng thấp cân tỷ lệ
tử vong càng cao .
- Trước khi có trung tâm hồi sức sơ sinh, trẻ sơ sinh non tháng ≤1500 gr
có suy hô hấp hầu hết không cứu sống được, tỉ lệ tử vong từ 40 - 80%[35].
- Từ khi có trung tâm điều trị tích cực, sử dụng máy thở thông khí áp lực
dương từ đầu những năm 70, tỉ lệ tử vong trẻ< 32 tuần giảm từ 80 –60%
xuống 40 – 20%. Trong những năm 80, ứng dụng kỹ thuật mới về thông khí,
chất lượng chăm sóc chu sinh, corticosteroid trước sinh đã làm giảm tỉ lệ tử
vong trẻ đẻ non.
- Đầu những năm 90 tỉ lệ tử vong sơ sinh theo cân nặng lúc sinh là [36]:
80% trẻ < 500 gr, 20 – 30% trẻ < 1000 gr, 5 – 10% trẻ <1500 gr, 3-5% < 2000
gr.
10
- Theo Tô Thanh Hương và cộng sự (1981-1990) tại khoa sơ sinh viện
BVSKTE tỷ lệ tử vong ở trẻ đẻ non là 54,5 %, trẻ cân nặng < 1500g là 69,5 %
[10].
- Phạm Lê An (2004) tại bệnh viện Nhi Đồng II, nghiên cứu trên 172 trẻ
sơ sinh cho thấy: nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh dưới 850g đã tử vong 100%,
nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh dưới 2500g có nguy cơ tử vong gấp 1,954 lần
nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh trên 2500g [2].
- Nguyễn Thị Kiều Nhi và cộng sự (2005) nghiên cứu trên 4700 trẻ tại
khoa sản BVTW Huế thấy tỷ suất TVSS sớm tập trung cao nhất ở loại sơ sinh
có cân nặng < 2500g (176 0/00 ) [16].
- Bùi Công Thắng (2005) tỷ lệ tử vong ở trẻ cân nặng lúc sinh < 2500g ở
tỉnh Vĩnh Phúc là 71,6 0/00 , trẻ cân nặng lúc sinh < 1500g là 300 0/00 [18].
1.2.4.2. Tuổi thai:
- Ở trẻ sơ sinh non tháng nhiều (≤ 33 tuần tuổi): tử vong chiếm 50 %, tàn
tật về thần kinh chiếm 50% số trẻ sống.
- Tuổi thai càng thấp tỷ lệ tử vong càng cao. Tại viện BVSKTE năm
1984, tỷ lệ tử vong ở trẻ đẻ non chiếm 42 %, trong đó trẻ có tuổi thai < 32
tuần tử vong là 88%, năm 1993-1996 tỷ lệ tử vong của trẻ có tuổi thai 30-37
tuần là 33,71 % và 25-30 tuần là 51,31 % [10],[ 13].
1.2.4.3 . Dị tật bẩm sinh:
- Theo thống kê của một số nước châu âu, tỷ lệ DTBS khi mới sinh là 2 3%. Nếu không được can thiệp phẫu thuật khoảng 1/3 số trẻ này sẽ tử vong do
các dị tật này không thích ứng được với đời sống bên ngoài tử cung. Trẻ bị dị
tật có thể có nhiều kiểu bất thường về hình thái, từ những thay đổi rất nhỏ
không có dấu hiệu lâm sàng (dị tật ở chi, tai ở vị trí thấp, thoát vị rốn, lỗ đái
lệch thấp), cho đến các tổn thương nội tạng rõ ràng với các rối loạn chức năng
trầm trọng của các cơ quan bị dị tật hay toàn bộ cơ thể (thoát vị hoành bẩm
11
sinh; u quái, u tân dịch, u máu ở cổ có thể gây tắc đường hô hấp, teo thực
quản, teo ruột, tim bẩm sinh tím sớm).
- Theo nghiên cứu của Bùi Mạnh Tuấn qua nghiên cứu giải phẫu bệnh tại
viện BVSKTE năm (1985-1989) tỷ lệ TVSS do dị tật bẩm sinh là 2,48 % [20]
- Đinh Phương Hòa nghiên cứu ở 7 viện nhi và 10 bệnh viện tỉnh năm
(2003) thì tỷ lệ TVSS do dị tật bẩm sinh là 12,9% [7].
- Phạm Lê An (2004) tại bệnh viện NĐ- II, trong 172 trẻ sơ sinh trong
nhóm nghiên cứu có 82 trẻ bị DTBS và đã tử vong 35/82 (42,6%)[2].
- Bùi Công Thắng (2005) ở tỉnh Vĩnh Phúc là tỷ lệ TVSS do dị tật bẩm
sinh là 20%[18].
- Tăng Chí Thượng và cộng sự (2006), nghiên cứu tại một số tỉnh phía
nam cho thấy tử vong do DTBS ở trẻ sơ sinh chiếm 15,6 % tỷ lệ tử vong
chung [19].
1.2.4.4. Kiềm dư
- Theo nghiên cứu của Phạm Lê An (2003) trên 58 bệnh nhân sơ sinh
non tháng nhẹ cân tại bệnh viện NĐ-II, cho thấy nhóm trẻ tử vong có trung
bình kiềm dư máu động mạch giá trị âm cao hơn nhóm sống. Kiềm dư có giá
trị âm trong máu động mạch trên hay bằng 7,1 có giá trị tiên lượng tử vong
(OR= 6,874 (1,826-25,886)[1].
- Phạm Lê An (2004), nghiên cứu trên 172 trẻ sơ sinh cho thấy nhóm trẻ
tử vong có trung bình kiềm dư máu động mạch giá trị âm (11,96 ± 6,80) cao
hơn nhóm sống (8,7 ± 5,40) [2].
1.2.4.5. Nhiệt độ
- Theo kết quả nghiên cứu của Tô Thanh Hương và Khu Thị Khánh
Dung (1988), nhóm trẻ có nhiệt độ 35-360C chiếm tỷ lệ tử vong 52% trong số
trẻ đẻ non [11].
12
- Theo Nguyễn Thị Kim Nga (1997), nhóm trẻ có nhiệt độ < 350C chiếm
tỷ lệ tử vong (42,1%), 35-360C (29,2%) [24].
1.2.4.6. Đường huyết
Theo nghiên cứu của Phạm Lê An (2004), không có sự khác biệt về
đường huyết giữa hai nhóm trẻ sơ sinh sống và tử vong [2].
1.2.4.7. pH máu động mạch
- Theo nghiên cứu của Phạm Lê An (2003) trên 58 bệnh nhân sơ sinh
non tháng nhẹ cân tại bệnh viện NĐ-II cho thấy trung bình pH máu động
mạch ở nhóm trẻ tử vong thấp hơn nhóm trẻ sống, pH máu động mạch dưới
hay bằng 7,16 có giá trị tiên lượng tử vong (OR= 10,08 (1,21-83,7)[1].
- Phạm Lê An (2004), nghiên cứu trên 172 trẻ sơ sinh cho thấy nhóm trẻ
tử vong có trung bình pH máu động mạch (7,16 ± 0,19) thấp hơn nhóm sống
(7,28 ± 0,14) [2].
1.2.4.8. PaCO2
Trong nghiên cứu của Võ Công Đồng và Phạm Lê An (2006), khi so
sánh PaCO2 trong hai khoa nghiên cứu thấy rằng: nhóm trẻ tử vong ở khoa
cấp cứu có PaCO2 cao hơn khoa hồi sức là do phân bố bệnh tật trong khoa hồi
sức chủ yếu là nhiễm khuẩn còn trong khoa cấp cứu là dị tật tim mạch, hô hấp
cũng như suy hô hấp đơn thuần [5].
1.3. Cách xây dựng và áp dụng thang điểm.
Một thang điểm được phát triển và có giá trị đòi hỏi phải rõ ràng, đơn
giản, dễ định nghĩa, có độ tin cậy và hiệu quả [45].Hầu hết các thang điểm đo
lường độ nặng của bệnh, một số trực tiếp qua các rối loạn tình trạng sinh lý,
hoặc thay thế bằng các điểm (ví dụ như trong điều trị và chẩn đoán), và nhiều
thang điểm định cỡ các quan sát định lượng bằng nguy cơ hậu quả riêng
(thường là sống và tử vong)[45]. Quá trình thiết lập một chỉ số độ nặng cần
trải qua các bước sau[33],[ 38],[ 45],[ 53]:
13
- Bước 1: lựa chọn các thông số có vai trò tiên lượng, như dùng các
triệu chứng lâm sàng, sinh hoá, biện pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân.
- Bước 2: trong các thông số trên, lựa chọn các thông số có vai trò tiên
lượng độc lập và qui cho chúng các mức điểm tuỳ theo mức độ biến đổi so
với nguy cơ tử vong của bệnh nhân. Các biến số tiên lượng cần phải được đo
lường có giá trị và độ tin cậy. Độ tin cậy được đánh giá theo hai cách: khi dữ
liệu được đo lường bởi một người hoặc bởi người khác. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê dựa vào: đối với biến số nhỏ (thống kê Kappa), biến thông
thường (thống kê trọng số K), biến liên tục (hệ số tương quan).
- Bước 3: đánh giá mối quan hệ thống kê giữa tổng số điểm thu được với
tỷ lệ tử vong , phân loại bệnh nhân thành nhiều nhóm có độ nặng khác nhau
để dự đoán nguy cơ tử vong.
- Bước 4: đánh giá hiệu quả của chỉ số độ nặng khi áp dụng cho mẫu
bệnh nhân mới trước khi được công bố rộng rãi. Có hai tiêu chuẩn để đánh giá
hiệu quả của một chỉ số là: khả năng phân tách và khả năng định cỡ:
+ Khả năng phân tách: là khả năng tiên lượng tử vong hay sống ở từng
bệnh nhân, đánh giá dựa vào diện tích dưới đường cong ROC (Receiver
Operating Characteristic) [51]. Một thang điểm có khả năng phân tách tốt khi
diện tích dưới đường cong ROC > 0,80.
+ Khả năng định cỡ: cho phép chia bệnh nhân thành các nhóm có độ
nặng khác nhau tương ứng với các mức điểm của chỉ số, sau đó ước tính nguy
cơ tử vong của nhóm, so sánh giá trị tử vong tiên lượng và giá trị tử vong thực
tế. Đánh giá khả năng định cỡ bằng thử nghiệm Chi bình phương phù hợp của
Hosmer – Lemeshow[23]. Một mô hình có thể có khả năng định cỡ và phân
tách tốt trên mẫu bệnh nhân ban đầu kém ở mẫu bệnh nhân mới. Nguyên nhân
có thể là do sai sót trong quá trình thu thập, xử lý số liệu, sự khác biệt về
nhóm bệnh nhân, về mô hình bệnh tật, hoặc có thể do chính mô hình tiên
14
lượng chưa hoàn thiện, một số mô hình giảm giá trị theo thời gian bởi vì có sự
đổi mới kỹ thuật trong điều trị. Do đó mỗi mô hình luôn luôn phải được cập
nhật, sửa đổi để phù hợp với từng đặc điểm ở từng bệnh viện, từng nước khác
nhau.
1.4. Các thang điểm áp dụng cho trẻ sơ sinh.
Trước đây tiên lượng tỷ lệ TVSS chỉ dựa vào cân nặng hoặc tuổi thai, giá
trị tiên lượng không cao. Hiện nay các nhà sơ sinh học dựa vào một số thang
điểm sau [31]:
- CRIB (Clinical Risk Index for Babies): thang điểm về chỉ số nguy cơ
lâm sàng đối với trẻ sơ sinh, áp dụng cho trẻ có cân nặng < 1500g và/ hoặc
tuổi thai < 31 tuần trong 12 giờ đầu tiên sau sinh. Thang điểm này gồm 6 biến
số (tuổi thai, cân nặng, DTBS, kiềm dư max, FiO2 min, FiO2 max).
- CRIB - II : áp dụng cho trẻ có tuổi thai < 32 tuần. Là thang điểm được
cải tiến từ thang điểm CRIB và được công bố gần đây, chưa được sử dụng
rộng rãi. Gồm 5 biến số (cân nặng theo tuổi thai, nhiệt độ, giới tính, kiềm dư),
cách tính điểm phức tạp vì ứng với mỗi cân nặng và tuổi thai tương ứng với 1
điểm khác nhau[57],[ 61],[ 63].
- SNAP (Score for Neonatal Acute Physiology): thang điểm sinh lý cấp
cho trẻ sơ sinh trong giai đoạn chu sinh. Thang điểm này gồm 28 biến số
được thu thập trong 24 giờ tuổi đầu tiên trên lâm sàng và kết quả các xét
nghiệm máu.
- SNAP-PE (SNAP Perinatal Extension): thang điểm sinh lý cấp đối với
trẻ sơ sinh mở rộng. Thang điểm này bao gồm thang điểm SNAP cộng thêm 3
biến (cân nặng, Apgar < 7 trong 5 phút, tuổi thai).
- SNAP II: thang điểm sinh lý cấp đối với trẻ sơ sinh trong giai đoạn chu
sinh. Được cải tiến từ thang điểm SNAP để cho dễ thu thập số liệu, chỉ gồm 6
15
biến số (HA trung bình, nhiệt độ thấp nhất, tỷ lệ PaO2/FiO2, pH, co giật phức
tạp, lượng nước tiểu).
- SNAPPE-II: thang điểm SNAP II cộng thêm 3 biến số (cân nặng < 749
g, Apgar < 7 trong 5 phút, tuổi thai).[64]
- MAIN (Morbidity Assessment Index for Newborns): thang điểm đánh
giá tình trạng bệnh cho trẻ sơ sinh. Thang điểm này gồm 47 biến số. Chia làm 4
mức độ dựa vào số điểm MAIN ≤ 300: bệnh rất nhẹ; 301 - 600: bệnh nhẹ. 601 2000: bệnh nhẹ đến trung bình; > 2000: bệnh từ trung bình đến nặng. Thang
điểm này phức tạp, mất nhiều thời gian thu thập số liệu, khó đánh giá [52].
- NTISS (Neonatal Therapeutic Intervention Scoring System): thang
điểm liệu pháp can thiệp. Thang điểm này gồm 59 biến số, được công bố năm
1992. Thang điểm dựa vào điều trị nhận được hơn là đo các yếu tố bệnh lý do
đó nó không có khả năng so sánh giữa các bệnh viện.
- Berlin score: là một thang điểm được sử dụng ở Đức, gồm có 5 biến số
(cân nặng, mức của RDS, điểm Apgar trong 5 phút, thông khí nhân tạo, kiềm
dư) dùng để so sánh giữa các trung tâm điều trị.
- NMPI (Neonatal Mortality Prognosis Index): thang điểm dự đoán tử
vong sơ sinh. Gồm 7 biến số (tuổi thai, cân nặng, ngừng tim, tỷ lệ PO2/FiO2.,
DTBS nặng, nhiễm khuẩn). Thang điểm này không được sử dụng rộng rãi.
- NICHHD
(National
Institute
of
Child
Health
and
Human
Development): thang điểm viện quốc gia về sức khỏe và phát triển con người,
gồm 5 biến số (cân nặng, tuổi thai, chủng tộc, giới, điểm Apgar trong 1 phút),
nhưng thang điểm này không được sử dụng rộng rãi.
- NBRS (Nursery Neurobiologic Risk Score): thang điểm nguy cơ thần
kinh ở trẻ nhỏ, gồm 7 biến số (pH máu, hạ đường máu, xuất huyết trong não
16
thất, leucomalacia quanh não thất, co giật, nhiễm khuẩn, cần thở máy), có tác
dụng tiên lượng về thần kinh ở nhóm trẻ đẻ thấp cân nhưng nó bị cản trở bởi
thời gian thu thập dữ liệu và ảnh hưởng của quá trình chăm sóc.
1.5. Thang điểm CRIB.
1.5.1. Lịch sử nghiên cứu và áp dụng thang điểm CRIB
- Thang điểm CRIB được William Tarnow – Mordi và cộng sự xây
dựng dựa trên cơ sở thang điểm APACHE[45]. Thang điểm có nguồn gốc từ
nghiên cứu hồi cứu trên 812 trẻ cân nặng thấp (≤1500g) hoặc đẻ non <31
tuần, không có dị tật bẩm sinh gây chết ngay, nhập vào bốn bệnh viện mức độ
ba ở Vương quốc Anh. Sử dụng phân tích hồi quy đa biến: tử vong là yếu tố
phụ thuộc và đánh giá giá trị tiên lượng của 40 biến số thay đổi sau sinh, tìm
ra các biến số độc lập có giá trị tiên lượng. Thang điểm được xây dựng từ sáu
biến số có giá trị tiên lượng nhất: cân nặng, tuổi thai, DTBS, kiềm dư, FiO2
nhỏ nhất và FiO2 lớn nhất thích hợp; các biến số được thu thập trong 12h đầu
tiên của cuộc sống. Các biến số này được phân tầng, cho điểm với tổng số
điểm của thang điểm là 24. Trong nghiên cứu này thấy rằng CRIB có khả
năng phân tách giữa nhóm trẻ tử vong và nhóm trẻ sống tốt hơn cân nặng đơn
lẻ, với diện tích đường cong tương ứng là 0,9 ± 0,05, 0,78 ± 0,03 (p = 0,03)
[34],[ 47].
- Theo kết quả nghiên cứu của Kaaresen PI và cộng sự đã áp dụng thang
điểm CRIB trên 335 trẻ có cân nặng ≤ 1500g trong 16 năm từ tháng 1/198012/1995 ở Nauy nhận thấy rằng: CRIB có giá trị tiên lượng tử vong tốt ở các
bệnh viện khác nhau, ở các giai đoạn thời gian khác nhau và có khả năng tiên
lượng tốt hơn cân nặng và tuổi thai. Thang điểm có khả năng phân tách tốt
giữa hai nhóm trẻ tử vong và nhóm sống 2, có ý nghĩa thống kê (p<0,0001).
17
Trong nghiên cứu này cũng thấy rằng CRIB cũng có khả năng tiên lượng tốt
trong các trường hợp dùng các phương pháp điều trị mới: nhóm trẻ có mẹ
được tiêm corticoid trước sinh, thấp hơn nhóm trẻ có bà mẹ không được tiêm
corticoid và nhóm trẻ được điều trị surfactant [39].
- Baumer J H, Wright D, Mill T nghiên cứu hồi cứu trên 380 trẻ sơ sinh
có tuổi thai dưới 31 tuần hoặc cân nặng dưới 1501g: nhóm thứ nhất 112 trẻ
(sinh 1984-1986), nhóm thứ hai 246 (1991-1994) ở bệnh viện Derriford (Hoa
Kỳ)[25]. Kết quả cho thấy:
- Điểm số Apgar phản ánh tình trạng của trẻ khi sinh, mức độ ngạt, sự
trưởng thành của phổi, tăng lên ở giai đoạn sau (1991-1994) chứng tỏ chăm
sóc sản khoa được cải thiện.
+ Cứ tuổi thai giảm đi một tuần điểm số CRIB tăng 0,45 nhưng khả
năng sống sót không được cải thiện nhiều khi tuổi thai tăng lên (do các tiến bộ
trong sản khoa và chăm sóc sơ sinh), điều đó cũng giải thích tại sao điểm cho
tuổi thai rất nhỏ trong điểm số CRIB (≤ 24 tuần tương ứng với 1 điểm).
+ CRIB có sự tiên lượng tử vong tốt hơn cân nặng và tuổi thai, bởi vì
thang điểm này có sự phối hợp tuổi thai và cân nặng trong tiên lượng cùng
với nhu cầu oxy và tình trạng toan chuyển hoá. Do đó nó có thể là một thang
điểm có giá trị thể hiện mô hình tử vong ở từng bệnh viện.
- William Tarnow – Mordi, Gareth J Parry và cộng sự đã áp dụng thang
điểm CRIB trong nghiên cứu ở 9 trung tâm điều trị tích cực sơ sinh tại Anh và
Bắc- Ai len (United Kingdom) trên 2671 trẻ đẻ non hoặc có cân nặng thấp từ
1/7/1988-30/6/1994 , nhận thấy rằng thang điểm này đánh giá được nguy cơ
tử vong, có giá trị như nhau tại các bệnh viện và coi thang điểm CRIB như là
một thành tựu khoa học vào năm 1994[33].
18
- Năm 1993 hiệp hội sơ sinh quốc tế, đã xem xét các kết quả nghiên cứu
và công nhận thang điểm CRIB là thang điểm có khả năng đánh giá nguy cơ
ban đầu cho trẻ sơ sinh và để so sánh chất lượng điều trị ở các trung tâm điều
trị sơ sinh [44].
- Từ đó đến nay đã có nhiều nghiên cứu áp dụng thang điểm. Các kết quả
đều thấy rằng nhóm trẻ có điểm số CRIB >10 có tỷ lệ tử vong cao[29],[ 43],[
48].
- Coscia A và cộng sự (2000) đã sử dụng thang điểm CRIB để tiên lượng
tỷ lệ tử vong, bệnh lý, ảnh hưởng sự phát triển của hệ thần kinh sau 1 và 2
năm, trên 251 trẻ đẻ non cân nặng thấp tại Ý, kết quả nghiên cứu cho thấy:
Nhóm trẻ có điểm số >10 chỉ có một bệnh nhân sống sót. Điểm số CRIB tỷ lệ
thuận với tỷ lệ tử vong, xơ hoá võng mạc ở trẻ đẻ non, bệnh phổi mạn tính,
ảnh hưởng sự phát triển thần kinh [28].
- Khanna R và cộng sự (2002), nghiên cứu trên 97 trẻ sơ sinh đẻ non cân
nặng ≤1500g hoặc tuổi thai <31 tuần tại một bệnh viện ở Ấn độ cho thấy điểm
số CRIB, cân nặng và tuổi thai có khả năng tiên lượng tử vong như[40].
- Rivas Ruiz R và cộng sự (2008), đánh giá khả năng của thang điểm
CRIB trong tiên lượng tử vong và xuất huyết nội sọ ở 163 trẻ đẻ non cân nặng
thấp và cực thấp tại Tây Ban Nha cho thấy CRIB có khả năng tiên lượng tử
vong và xuất huyết nội sọ tương tự như cân nặng. Trong nhóm cân nặng >
1000g CRIB có khả năng tiên lượng tử vong tốt nhất, nhưng không tốt ở
nhóm cân nặng <1000g[48].
Ở Việt Nam, có 4 nghiên cứu áp dụng thang điểm CRIB.
- Phạm Lê An (2003) nghiên cứu trên 58 trẻ sơ sinh non tháng nhẹ cân
nhập khoa hồi sức từ 2/2000-12/2002, cho thấy nhóm trẻ có điểm số CRIB
>11 đã tử vong 100%, thang điểm có khả năng phân tách chính xác nhóm trẻ
19
tử vong và nhóm sống với diện tích dưới đường cong ROC 0,934 (0,8521,00), và khả năng tiên đoán nguy cơ tử vong cao hơn yếu tố kiềm dư máu
động mạch (AUC = 0,760 (0,64-0,954)) và PaCO2 máu động mạch (AUC=
0,770 (0,633-0,906))[1].
- Phạm Lê An (2004) nghiên cứu trên 172 trẻ sơ sinh nhập khoa hồi sức
(10/2000-1/2002), cũng cho thấy nhóm trẻ tử vong có trung bình điểm số
CRIB (8,21±4,62) cao hơn nhóm sống (2,7±2,01), có ý nghĩa thống kê
p<0,05, điểm số CRIB tăng 10 điểm thì có nguy cơ tử vong tăng 13,4 lần so
với nhóm không tăng điểm số CRIB. Đánh giá năng lực các yếu tố nguy cơ
với các biến liên tục như: điểm số CRIB, kiềm dư máu động mạch giá trị âm,
pH máu động mạch, cân nặng lúc sinh, tỷ lệ PaO2/ FiO2 trong tiên lượng tử
vong, thấy chỉ có điểm số CRIB (AUC= 0,89 (0,759-0,958)) có giá trị tiên
lượng chính xác có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuỳ theo mô hình bệnh tật ở
từng bệnh viện có thể kết hợp điểm số CRIB với một số lâm sàng để làm tăng
thêm khả năng tiên đoán nguy cơ tử vong, như trong nghiên cứu này tác giả
đã tạo mô hình gồm 2 yếu tố: điểm số CRIB, có phù cứng bì có tỷ lệ tiên đoán
đúng tử vong 81,2%, tỷ lệ tiên đoán đúng trong cả hai nhóm tử vong và sống
là 78,2% và định cỡ tốt với thử nghiệm Chi bình phương phù hợp của Hosmer
và Lemeshow (p>0,05)[2]
- Võ Công Đồng và Phạm Lê An (2004) [5]: đã áp dụng thang điểm trên
trẻ sơ sinh trong hai khoa là khoa hồi sức và khoa cấp cứu và thấy rằng trong
mỗi khoa, CRIB có sự phân tách khác nhau: CRIB trong khoa hồi sức tốt hơn
trong khoa cấp cứu với diện tích dưới đường cong tương ứng 0,849 và 0,804.
Trong nghiên cứu này CRIB chưa đủ mạnh để tiên lượng tử vong ở trẻ sơ sinh
trong hai khoa.
20
- Vũ Vân Yến (2008): áp dụng thang điểm cho trẻ đẻ non tại khoa sơ
sinh bệnh viện Nhi Trung ương. Nghiên cứu cho thấy CRIB có khả năng phân
tách tốt giữa nhóm tử vong và nhóm sống[21].
1.5.2. Thang điểm CRIB –II
Được phát triển từ thang điểm CRIB với năm biến số: cân nặng, tuổi
thai, giới tính, nhiệt độ, kiềm dư. Thang điểm đã được điều chỉnh đơn giản, ít
bị ảnh hưởng bởi quá trình điều trị sớm, thích hợp với hiện tại và được áp
dụng ở Anh và Bắc – Ailen từ 1988-1999 [46].
1.5.3. So sánh khả năng tiên lượng tử vong giữa thang điểm CRIB và các
thang điểm khác
- Kết quả nghiên cứu của Gagliardi L và cộng sự (2004): CRIB và CRIB
II có khả năng tiên lượng tốt hơn SNAPPE-II, trong đó CRIB-II chính xác
hơn CRIB và ít chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác, với diện tích dưới đường
cong ROC của CRIB: 0.903; CRIB –II: 0.907; SNAPPE-II: 0,84[32].
- Theo nghiên cứu của De Felice C và cộng sự (2005), CRIB và CRIB –
II có giá tiên lượng tử vong như nhau trong nhóm trẻ đẻ non thấp cân, và đều
tốt hơn khả năng tiên lượng của cân nặng và tuổi thai[29].
- Theo De Felice và cộng sự (2005): các thang điểm có giá trị tiên lượng
bệnh nặng khi điểm số: CRIB >5 (OR = 21,37 (6,24-73,21)); CRIB II>10
(OR= 56,17 (6,75-467,2)); SNAP-II>22 (OR= 43,05 (11,9-155,7)); SNAPPEII>42 (OR= 48,95 (10,18-235,4)). Cả 4 thang điểm có giá trị và được sử dụng
để tiên lượng tử vong và tình trạng bệnh nặng trong nhóm trẻ đẻ non, thấp
cân[30].
- Buhrer C và cộng sự (2008): nghiên cứu trên 1485 trẻ sơ sinh đẻ non
cân nặng thấp nhập viện từ (1/1/1991-31/12/2006) tại một bệnh viện ở Đức
cho thấy CRIB-II có khả năng tiên lượng tử vong kém hơn CRIB, cân nặng,
tuổi thai [27].
21
- Thang điểm CRIB dễ dàng thu thập số liệu, đơn giản, ít tốn thời gian
(khoảng 5 phút, trong khi các thang điểm khác phải mất 20 phút), dễ áp dụng và
có khả năng tiên lượng tử vong tốt hơn các thang điểm khác [22],[ 24],[ 25],[ 43]
1.5.4. Một số hạn chế của thang điểm[34].
- Chỉ phù hợp cho trẻ đẻ non, trong khi đó các khoa hồi sức tích cực
nhận nhiều loại bệnh nhân.
- CRIB phản ánh dấu hiệu nặng chỉ trong ngày đầu của cuộc sống, các
dấu hiệu về sinh lý thay đổi theo thời gian. Trong khi đó các thang điểm khác
của trẻ em và người lớn có phạm vi rộng hơn.
- Các biến số về sinh lý chỉ đơn thuần về hô hấp.
22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu.
Đơn nguyên sơ sinh - Khoa hồi sức cấp cứu và chống độc – Bệnh viện
Trẻ em Hải Phòng
2.1.2. Thời gian nghiên cứu.
Từ 01/01/2015 đến 31/8/2015
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
+ Trẻ đẻ non: có tuổi thai < 37 tuần và có khả năng sống được.
+ Trẻ có khả năng sống được là trẻ có tuổi thai ≥ 22 tuần hoặc cân
nặng ≥ 500g.
+ Điều trị tại đơn nguyên sơ sinh có ngày tuổi ≤ 28 ngày.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Trẻ đủ tháng (có tuổi thai ≥37 tuần).
+ Những trẻ được chuyển đi các bệnh viện khác trong thời gian nghiên
cứu (≤ 28 ngày tuổi).
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
+ Nghiên cứu thuần tập tiến cứu.
23
2.3.2. Cỡ mẫu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 146 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn
được chọn vào mẫu nghiên cứu.
2.3.3. Các biến số được thu thập trong quá trình nghiên cứu về thang
điểm CRIB
2.3.3.1. Cách thức tiến hành thu thập số liệu
+ Các bệnh nhân khi vào khoa sơ sinh được chọn vào mẫu nghiên cứu sẽ
được khám lâm sàng tỷ mỷ, tiến hành làm xét nghiệm, điều trị, theo dõi FiO2
trong 12h đầu nhập viện, các thông số nghiên cứu được ghi nhận theo bệnh án
mẫu.
+ Các xét nghiệm huyết học và sinh hóa được thực hiện tại khoa sinh hoá
và khoa huyết học bệnh viện Trẻ em Hải Phòng.
+ Siêu âm tim màu Doppler, siêu âm não qua thóp được thực hiện tại
giường bằng máy siêu âm tim màu Acuson X 300 của hãng SIEMEN - cộng
hòa liên bang Đức.
+ Phim chụp XQ phổi và cắt lớp vi tính sọ não được chụp tại giường và
khoa chẩn đoán hình ảnh- bệnh viện Trẻ Em Hải Phòng.
2.3.3.2. Các biến số không theo thang điểm CRIB
- Tuổi: trong ngày đầu tiên được tính theo giờ, những ngày sau được tính
theo ngày.
- Giới.
- Địa dư .
- pH: dựa vào kết quả khí máu động mạch.
- PaCO2: dựa vào kết quả khí máu động mạch.
- Nhiệt độ: được đo ở hậu môn.
- Đường huyết: lấy máu động mạch cùng với làm kết quả khí máu.
- Chẩn đoán: dựa vào lâm sàng, cận lâm sàng, tiêu chuẩn vàng của từng bệnh
24
+ Suy hô hấp:
Lâm sàng: tần số thở > 60 lần/phút hoặc < 40 lần/ phút; co kéo cơ hô
hấp, tím.
Đánh giá mức độ suy hô hấp bằng chỉ số Silverman: <3 điểm (không
suy hô hấp, 3-5 điểm (suy hô hấp nhẹ), >5 điểm (suy hô hấp nặng).
Khí máu: PaO2 < 70mmHg; PaCO2 >50 mmHg; pH máu <7,3.
+ Màng trong: suy hô hấp xảy ra trên trẻ đẻ non, cấp tính trong những
giờ đầu sau đẻ, X-Quang: phổi ít nở, nốt mờ lan toả hai phế trường, giảm độ
sáng của nhu mô phổi, ứ khí trong các nhánh phế quản.
+ Tràn khí màng phổi: lồng ngực mất cân đối, RRFN mất một bên, mỏm
tim lệch sang bên lành, X-Quang để chẩn đoán xác định.
+ Chảy máu phổi: máu trào qua nội khí quản hoặc mũi miệng, X-Quang:
nốt mờ nhiều hai phế trường.
+ Viêm phế quản phổi: lâm sàng có thể có biểu hiện suy hô hấp, XQuang phổi nốt mờ không đều rải rác hai phế trường tập trung chủ yếu cạnh
rốn phổi và cạnh tim, cấy dịch nội khí quản có vi khuẩn.
+ Nhiễm trùng máu:
* BC <5.000/mm3 hoặc > 30.000/mm3
* BC đa nhân trung tính (BCĐNTT)<1.500/mm3
* BCĐNTT non (không nhân)/ BCĐNTT >0,2.
* CRP >15mg/l.
* Cấy máu (+).
+ Viêm ruột hoại tử: nôn ra dịch vàng hoặc xanh, phân có máu mùi khẳn,
bụng chướng, chọc dò màng bụng, X-Quang hình ảnh điển hình là bóng hơi
trong thành ruột.
+ Xuất huyết não – màng não: thiếu máu, triệu chứng thần kinh, siêu âm
qua thóp, chọc dịch não tuỷ có máu không đông.
25
+ Dị tật bẩm sinh: khám lâm sàng, siêu âm, X-Quang.
+ Vàng da: lâm sàng da có màu vàng, xét nghiệm lượng Bilirubin trong
máu >120μmol/l.
2.3.3.3. Các biến số theo thang điểm CRIB
- Tuổi thai (tuần) theo Bảng điểm đánh giá tuổi thai FinstrÖm.
- Cân nặng: (gr).
- Dị tật bẩm sinh [3]:
+ Dị tật bẩm sinh (DTBS) gây chết ngay sau đẻ: vô sọ; phù bào thai;
không thận.
+ DTBS nặng (đe dọa tính mạng cấp): tim bẩm sinh tím sớm (chuyển
gốc động mạch; thân chung động mạch; thất phải 2 đường ra, thất trái 2
đường vào, tứ chứng Fallot hẹp động mạch phổi nặng, bất thường động mạch
vành; hẹp eo, quai động mạch chủ); thiểu sản thanh khí phế quản, thoát vị
hoành bẩm sinh ...
+ DTBS nhẹ: dị tật vùng mặt, tay, chân; tim bẩm sinh tím muộn ( còn
ống động mạch, thông liên thất, thông liên nhĩ); đảo ngược phủ tạng...
- Khí máu:
+ Lấy máu động mạch: động mạch quay.
+ Kết quả khí máu được nhanh chóng phân tích bằng máy phân tích khí
máu GEM 3000 ngay tại khoa hồi sức cấp cứu.
+ Xét nghiệm khí máu được lấy tại thời điểm vào viện và nhiều lần sau đó
để theo dõi, điều chỉnh cho phù hợp với tình trạng bệnh nhân
- FiO2:
+ Nồng độ oxy trong khí thở vào
+ Nồng độ oxy thích hợp để SpO2 đạt 95 %.