Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực dịch vụ tại tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.18 KB, 112 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong thời gian qua đã khẳng
định vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân với đặc thù năng
động, linh hoạt và thích ứng nhanh với các thay đổi của thị trường. Các doanh
nghiệp này cũng đã tạo số lượng việc làm đáng kể góp phần giải quyết các
vấn đề xã hội và xoá đói - giảm nghèo. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng tạo
các mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) trong và ngoài nước để tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá
trị ngành hàng và các chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay, trong nền kinh tế các
nước trên Thế giới các DNNVV thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các
doanh nghiệp.
Lĩnh vực DV nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và
có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa
về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và
tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng
tỉnh thành và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng
góp phần đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Lĩnh vực DV tuy không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nhưng
vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy
thương mại hàng hóa phát triển. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng
hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận tải? dịch vụ thanh
toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ,
đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy
nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng
hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực khác...
Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách



2
có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong
quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ
cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết
định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn
bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu
dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời
gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để
đầu tư tái sản xuất.
Ở nước ta số lượng các DNNVV chiếm tỷ trọng khoảng 97% trong
tổng cơ cấu các doanh nghiệp, trong đó DNNVV lĩnh vực kinh doanh DV
chiếm khoảng 28%. Sau 16 năm tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, nền kinh tế của tỉnh đã
đạt được những thành tựu quan trọng, trong đó có đóng góp tích cực không nhỏ từ
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. DNNVV trong lĩnh vực DV là bộ phận cấu thành
không thể thiếu của nền kinh tế. Những năm từ 2006 đến nay, DNNVV trong
lĩnh vực DV phát triển với tốc độ nhanh về số lượng và chất lượng. Tuy
nhiên, DNNVV trong lĩnh vực DV phát triển còn mang tính tự phát chưa
mang tính định hướng nên còn gặp nhiều các khó khăn, thách thức như: quy
mô nhỏ, trình độ quản lý còn thấp, tiếp cận vốn hạn chế, trình độ công nghệ
và sức sáng tạo thấp, sức cạnh tranh kém. DNNVV trong lĩnh vực DV trên địa
bàn tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Ở tỉnh Vĩnh Phúc phần lớn lao động làm nông nghiệp, thì chính DNNVV
trong lĩnh vực DV là tác nhân và động lực thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Mặt khác, Nhà nước đã có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích
DNNVV trong lĩnh vực DV phát triển, nhưng trong thời gian qua, cả hệ thống
chính trị của tỉnh chưa thật sự quan tâm đóng mức đến khu vực DNNVV
trong lĩnh vực dịch vụ. Khu vực này cần phải được thay đổi diện mạo và vị
thế, là khu vực góp phần quan trọng giải quyết công ăn việc làm, xoá đói



3
giảm nghèo, ổn định an ninh trật tự xã hội, tạo điều kiện thuận lợi khai thác
thế mạnh là tỉnh phát triển nhanh, có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp phụ
trợ, dịch vụ du lịch,…
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, tận dụng những cơ hội và
vượt qua thách thức đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu
lại nền kinh tế của tỉnh, DNNVV trong lĩnh vực DV tỉnh Vĩnh Phúc cần được
phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng; nhằm khẳng định vị trí, vai
trò và phát huy mọi nguồn nội lực của tỉnh, giảm dần sự phụ thuộc vào khu
vực (FDI) góp phần quan trọng vào phát triển bền vững của tỉnh. Để đóng góp
phần nào của mình vào việc tìm kiếm những giải pháp tích cực hỗ trợ phát
triển các DNNVV trong lĩnh vực DV nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp phát
triển, góp phần thực hiện tỉnh Vĩnh Phúc trở thành tỉnh CNH-HĐH.
Từ thực tiễn trên, đề tài “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
lĩnh vực dịch vụ tại tỉnh Vĩnh Phúc” để tìm ra nguyên nhân và đề xuất
những giải pháp phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV ở địa phương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Góp phần hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển
DNNVV và phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV tại tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích, làm rõ tiềm năng, lợi thế, thực trạng phát triển DNNVV
trong lĩnh vực DV về số lượng, chất lượng, loại hình, cơ cấu ngành nghề.
Đồng thời xác định rõ những thế mạnh và yếu kém của DNNVV trong lĩnh
vực DV so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, so sánh với cả
nước và các tỉnh lân cận. Từ đó, chỉ ra những khó khăn, hạn chế, thách thức
và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong việc phát triển DNNVV trong
lĩnh vực DV trong những năm qua.

- Đề xuất các cơ chế chính sách và giải pháp, kế hoạch, chương trình
trợ giúp phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV giai đoạn 2013-2020 phù hợp,


4
nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả việc trợ giúp để các DNNVV trong lĩnh
vực DV phát huy mọi khả năng, nguồn lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội, đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch và cơ cấu lại kinh tế và thực hiện CNH-HĐH của tỉnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng: Các DNNVV trong lĩnh vực DV ở các huyện, thành thị tại
tỉnh Vĩnh Phúc
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian: Đánh giá thực trạng phát triển của các DNNVV trong lĩnh
vực DV giai đoạn 2006-2012 tìm ra các cơ hội phát triển và các khó khăn
thách thức của doang nghiệp; triển khai xây dựng và thực hiện đề tài phát
triển DNNVV trong lĩnh vực DV giai đoạn 2013-2020 để định hướng sự phát
của doanh nghiệp.
+ Không gian: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển DNVVN trong
lĩnh vực dịch vụ.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu phát triển DNNVV trong lĩnh
vực DV tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Thực trạng phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 - 2012.
Chương 4: Mục tiêu, phương hướng, giải pháp phát triển DNNVV
trong lĩnh vực dịch vụ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.



5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận chung về doanh nghiệp
* Các quan điểm về doanh nghiệp
- Quan điểm nhà tổ chức: doanh nghiệp là một tổng thể các phương
tiện, máy móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích.
- Quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông
qua đó, trong khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố
sản xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị
trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
- Quan điểm chức năng: doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh
doanh nhằm thực hiện một, một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm
mục đích sinh lợi.
- Quan điểm lý thuyết hệ thống: doanh nghiệp là một bộ phận hợp
thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác
động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà
nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của
xã hội.
Từ các quan điểm trên, nói một cách khái quát “Doanh nghiệp là một
đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi
nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi chính đáng
của người tiêu dung”.
* Những đặc điểm họat động của doanh nghiệp nói chung

- Mang chức năng sản xuất kinh doanh.


6
- Tối đa hóa lợi nhuận là mục têu kinh tế cơ bản, bên cạnh các mục tiêu xã hội.
- Phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
* Các loại hình doanh nghiệp
- Doanh nghiệp nhà nước: là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do nhà nước giao.
- Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp mà trong đó, tài sản của nó là
thuộc sở hữu một cá nhân duy nhất.
- Doanh nghiệp chung vốn hay công ty: đây là loại hình doanh nghiệp
mà các thành viên sẽ cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương
ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty. Có hai hình thức công ty
chính là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Ngoài ra còn có một
hình thức công ty khác là công ty dự phần. Công ty loại này không có tài sản
riêng, không có trụ sở riêng và thông thường hoạt động của nó dựa và tư cách
pháp nhân của một một trong các thành viên.
- Hợp tác xã: Là một tổ chức kinh tế tự chủ do người lao động có nhu cầu
và lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn đầu tư, góp sức lập ra theo qui định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Vai trò của các DNNVV trong lĩnh vực DV ở Việt Nam

Hình 1.1. Lĩnh vực DNNVV ở Việt Nam


7

Lĩnh vực dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm
và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở
cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định
và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp.
Hoạt động của dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các DNNVV tham gia hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực này cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
đóng góp vào tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước:
- Các DNNVV trong lĩnh vực DV góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu
thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong
phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
- Các DNNVV trong lĩnh vực DV tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển. Các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp
phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch
vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có các
doanh nghiệp dịch vụ thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được.
- Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, các DNNVV trong lĩnh vực
DV đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu
về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có
thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường
nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản
xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học, kỹ thuật
công nghệ.
- Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu
dùng, nâng cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng
tăng lên góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân
công lao động trong xã hội.


8

- Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt
chẽ với thị trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này
nếu DNNVV trong lĩnh vực DV và thương mại phát triển mạnh mẽ, phong
phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị trường thu hút các yếu tố đầu
vào, đầu ra của thị trường.
- Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, các DNNVV trong ngành dịch
vụ đã góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất
nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã bình thường hóa về thương mại với Hoa Kỳ
và gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nghị quyết đại hội X của
đảng ta đã khẳng định:... Về kinh tế, nước ta đã ra khái khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài nhiều năm, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH,
HĐH được đẩy mạnh... với những bước đi đó Việt Nam đã hội nhập vào khu
vực thị trường rộng lớn, có tình cạnh tranh cao và gồm những đối tác có năng
lực cạnh tranh rất mạnh... những thành quả này vừa tạo ra các tiền đề và cơ sở
kinh tế, vừa cung cấp những bài học cần thiết để chúng ta thực hiện bước hội
nhập mới có tầm quan trọng đặc biệt - hội nhập ở cấp độ đa phương - toàn cầu
trong Tổ chức Thương mại thế giới.
1.1.3. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực dịch vụ
1.1.3.1. Khái niệm về DNNVV và DNNVV trong lĩnh vực DV
Trong thời gian qua ở Việt Nam để hỗ trợ cho các DNNVV, một số cơ
quan nhà nước và một số tổ chức đã đưa ra nhiều tiêu thức phân loại
DNNVV, có thể tổng hợp như sau:
- Ngân hàng công thương Việt Nam thì định nghĩa : DNNVV là các
DN có dưới 500 lao động, có vốn cố định nhỏ hơn 10 tỷ đồng, có vốn lưu
động nhỏ hơn 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng nhỏ hơn 20 tỷ đồng. Sự xác
định này nhằm phân lọai đối tượng cho vay vốn và số vốn cho vay đối với các
doanh nghiệp.


9
- Công văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh

nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn
kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa
VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây
dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục
vụ cho việc hoạch định chính sác.
-Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát
triển DN nhỏ và vừa thì “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
- Nghị định 56/2009 của chính phủ cho rằng: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn
vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu
tiên), cụ thể như bảng 1.1:
Bảng 1.1. Tiêu chí phân loại DNNVV theo nghị định 56/2009/NĐ-CP
Quy mô
Khu vực

1. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
2. Công nghiệp và
xây dựng
3. Thương mại và
dịch vụ

DN siêu
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
nhỏ

Số lao
Tổng
Tổng
Số lao
Số lao động
động
nguồn vốn
nguồn vốn
động

< 10

< 20 tỷ

10 - 200 20 - 100 tỷ 200 – 300

< 10

< 20 tỷ

10 - 200 20 - 100 tỷ 200 – 300

< 10

< 10 tỷ

10 - 50

10 – 50 tỷ


50 - 100

Với những mục đích khác nhau và vào những thời điểm khác nhau nên
việc đưa ra những tiêu thức để phân loại, xác định DNNVV của các tổ chức,
cơ quan nhà nước và các cá nhân cũng khác nhau và cũng chỉ mang tính ước


10
lệ. bản thân các tiêu chí đó chưa đủ để xác định thế nào là DN vừa và nhỏ ở
Việt Nam hiện nay. Như vậy, theo nghị định 56/2009/NĐ-CP khu vực
DNNVV trong lĩnh DV ở Việt Nam bao gồm:
+ Các DNNN trong lĩnh vực DV có qui mô vừa và nhỏ được thành lập
và đăng ký theo luật DNNN năm 2005
+ Các công ty CP, công ty TNHH, DNTN và HTX được thành lập và
hoạt động theo luật DN, luật HTX đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu
thức mà nghị định 56/2009/NĐ-CP đưa ra.
+ Các DN có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu
thức mà nghị định 56/2009/NĐ-CP đưa ra.
1.1.3.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực DV
Việc đưa ra một khái niệm chuẩn xác về DNNVV trong lĩnh vực DV có
ý nghĩa rất quan trọng và lớn lao để xác định đóng đối tượng cần hỗ trợ. Nếu
vi phạm việc đối tượng được hỗ trợ quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác
dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể. Việc hỗ trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai.
Còn nếu phạm vi đối tượng được hỗ trợ quá hẹp sẽ không có ý nghĩa và ít có
tác dụng trong nền kinh tế và do đó không thể kịp thời hỗ trợ cần thiết các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì thế hầu hết các nước đều rất chú trọng
nghiên cứu tiêu thức phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV. Tuy nhiên không
có tiêu thức thống nhất để phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV cho tất cả
các nước việc điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước khác nhau và ngay trong

một nước sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo tựng thời kỳ từng ngành nghề
và vùng lành thổ.
Có hai tiêu chí phổ biến để phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV đó là
tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
* Nhóm tiêu chí định tính: Dựa trên những đăc trưng cơ ản của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít
mức độ phức tạp của quản lý thấp, các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh


11
đúng bán chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó nó
thường chỉ làm cơ sở để tham khảo kiểm chứng mà ít đươc sử dụng trong
thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng : có thể sử dụng các tiêu chí như số lao
động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận, trong đó: Số lao động có
thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên và lao
động thực tế.
Tài sản hoặc vốn có thể dựng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay
vốn cố định, giá trị tài sản còn lại.
Doanh thu có thể có thể là doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng / năm
hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này). Ở nhiều nước trên thế giới tiêu chí
định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. ở các nước apec
tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. một số tiêu chí khác thì
tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước như: vốn đầu tư, tổng giá trị tài sản doanh
thu và tỷ lệ góp vốn. số lượng tiêu chí dựng để phân loại có thể có từ một đến
hai và cao nhất là 3 tiêu chí phân loại.
Trong thời gian qua ở Việt Nam để hỗ trợ cho các DNNVV trong lĩnh
vực DV, một số cơ quan nhà nước và một số tổ chức đó đưa ra nhiều tiêu thức
phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV, có thể tổng hợp như sau: Sự phân loại
doanh nghiệp theo qui mô lớn, vừa, nhỏ chỉ mang tính chất tương đối và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ triển kinh tế của một nước, trình độ

càng cao thì trị số các tiêu trí càng tăng lên. Do vậy với các nước phát triển,
đang phát triển, chậm phát triển thì chỉ số về số lượng lao động vốn để phân
loại doanh nghiệp là rất khác nhau. chẳng hạn ở Nhật Bản, doanh nghiệp có
300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn doanh
nghiệp có qui mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn.
Cùng với trình độ phát triển kinh tế của một nước thì tính chất, ngành
nghề cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới việc phân loại DNNVV trong lĩnh vực
DV. Do đặc điểm của ngành nghề có những ngành sử dụng nhiều lao động


12
(như xây dựng), có ngành sử dụng nhiều vốn (như ngân hàng, tín dụng). Do đó
cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại DNNVV
trong lĩnh vực DV giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước, người
ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loai khác
nhau. chẳng hạn các ngành xấy dựng chỉ số thường cao hơn.
Việc căn cứ tiêu chí phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV còn tuỳ
thuộc vào vùng lãnh thổ. Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên
số lượng và qui mô doanh ngiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn một doanh
nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng ở vùng núi và nông thôn nó lại là
lớn, không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố kể trên mà việc phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn phụ thuộc vào tính lịch sử. Một doanh nghiệp trước đây
được coi là lớn nhưng qua thời gian hiện tại và tương lai nó chỉ được coi là vừa
thậm chí là nhỏ. ở Đài Loan năm 1997 trong ngành xây dựng doanh nghiệp có
quy mô dưới 130000 USD (5 triệu đô la Đài Loan) là DNNVV trong lĩnh vực
DV trong khi năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD (40 triệu đô la Đài Loan).
Và cuối cùng việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải chú ý tới mục
đích phân loại. Chẳng hạn khái niệm là DNNVV trong lĩnh vực DV trong với
mục đích phân loại để hỗ trợ các doanh nghiệp mới ra đời sẽ khác với là
DNNVV trong lĩnh vực DV trong được phân loại với mục đích là giảm thuế với

các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại và không gây ôi nhiễm môi
trường. Nếu gọi ia, ib, id là tương ứng các hệ số vùng, ngành, và hệ số phát triển
quy mô của doanh nghiệp.
sa : quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ chung trong một nước
f(sba) : quy mô doanh nghiệp thuộc một ngành trên địa bàn cụ thể thì :
Ia x Ib
F (Sba) =

x Sa
Id

Ở Việt Nam trước đây khái niệm là DNNVV trong lĩnh vực DV trong


13
đó được sử dụng để phân loại doanh nghiệp nhà nước với mục đích xác định
mức cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc
doanh nghiệp : doanh nghiệp i, doanh nghiệp loại ii, doanh nghiệp loại iii
tiêu chí phân loại chủ yếu là lao động trong biên chế và theo phân cấp trung
ương – địa phương.
Theo văn bản pháp lý năm 1993 thì việc phân loại doanh nghiệp ở Việt
Nam theo 3 hạng ( hạng đặc biệt, hạng i, ii,iii, iv ) dựa trên hai nhóm yếu tố
là độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh gồm 8 tiêu chí :
Vốn sản xuất kinh doanh, trình độ lao động và công nghệ, phạm vi hoạt động,
số lượng lao động thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Lợi nhuận thực hiện,
doanh thu và tỉ suất lợi nhuận trên vốn.
Cách phân loại này phức tạp việc sử dụng nhiều tiêu chí và chưa tính
đến tính chất đặc thự của từng ngành nghề và từng địa phương. mặt khác đối
tượng phân loại là nhằm phục vụ cho việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý
doanh nghiệp nhà nước làm căn cứ để xếp lương chứ không phục vụ cho định

hướng phát triển là DNNVV trong lĩnh vực DV trong và hỗ trợ các doanh
nghiệp này phát triển.
Nhằm định hướng hỗ trợ cho các là DNNVV trong lĩnh vực DV trong
phát triển ở một số địa phương, các cơ quan chức năng đó đưa ra các tiêu
phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở thành phố Hồ Chí Minh những doanh
nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu
hàng tháng dưới 10 tỷ đồng là các doanh nghiệp vừa còn dưới giới hạn trên là
các doanh nghiệp nhỏ. Ở tỉnh Vĩnh Phúc những doanh nghiệp có doanh thu
dưới 100 tỷ đồng một năm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng cần phân định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo lĩnh vực
sản xuất và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất doanh nghiệp có số vốn dưới 1
tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ
1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng và số lao động từ 100 người đến 500 người là doanh


14
nghiệp vừa. trong thương mại và DV doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu
đồng và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có số vốn từ
500 triệu đến 5 tỷ đồng và có từ 50 đến 250 lao động là doanh nghiệp vừa.
Trên thế giới việc phân loại là DNNVV trong lĩnh vực DV trong cũng
như các tiêu chí phân loại phụ thuộc vào nhiều yếu tố phự hợp với trình độ
phát triển điều kiện và mục đích phân loại của mỗi nước và nhiều điểm khác
nhau tuy vậy vẫn có một số điểm chung giống nhau. Chẳng hạn việc phân loại
là DNNVV trong lĩnh vực DV trong của các nước nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp này phát triển đó thực hiện các mục đích như (huy động mọi tiềm
năng vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của xã hội góp
phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của mỗi nước, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, tạo thêm viêc làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá và tăng
thu nhập trong dân cư, giảm bớt dòng người đổ ra thành phố tăng sự năng
động hiệu quả của nền kinh tế giảm đến mức tối đa rủi ro trong kinh doanh, số

lượng và chủng loại hàng hoá, hình thức cờu trúc nhiều tầng, thiết lập quan hệ
kinh doanh giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn.
Qua nghiên cứu chúng ta thấy có thể tham khảo cách phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới và trong khu vực như sau:
Đài Loan: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu được hình thành
và sử dụng từ năm 1967. Ngay từ đầu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan
đó đươc phân biệt theo hai nhóm ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
thương mại vận tải và dịch khác. Từ năm 1977 họ lại thêm nhóm ngành thứ 3
là ngành khai khoáng. Người ta dựng tiêu chí vốn góp và lao động trong
thương mại và dịch khác dựng tiêu chí doanh thu và lao động trong thời gian
hơn 30 năm qua tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đó
đựơc thay đổi 6 lần. Sự thay đổi trong khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
theo hướng tăng dần trị số giữa các tiêu chí (trong sản xuất số vốn góp từ năm
triệu lên 40 triệu đô la Đài Loan tổng giá trị tài sản từ 20 triệu lên 120 triệu,


15
doanh thu từ 5 triệu lên 40 triệu) và phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát hơn
nhiều lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Hiện nay ở Đài Loan doanh nghiệp
vừa và nhỏ là doanh nghiệp:
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng : Có vốn góp dưới 40
triệu đô la Đài Loan (1,4 triệu USD), và số lao động thường xuyên là dưới
300 người.
- Trong khai khoáng : Có vốn góp dưới 40 triệu đụ la Đài Loan số lao
động thường xuyên dưới 500 người.
- Trong thương mại, vận tải và dịch khác : Có tổng doanh thu hàng năm
dưới 40 triệu đụ la Đài Loan, lao động khoảng 50 người.
Nhật Bản: Doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại theo khu vực:
Khu vực sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu USD
vốn đầu tư khu vực thương mại và dịch vụ: Doanh nghiệp có dưới 100 lao

động đối với doanh nghiệp buôn bán hay 50 lao động (đối với doanh nghiệp
bán lẻ và DV) vốn đầu tư dưới 300000USD (đối với doanh nghiệp buôn bán)
và 100.000 USD đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ.
Liên minh châu âu: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới
250 lao động, doanh số không quá 40000EUR, hoặc tổng số vốn hàng năm
không quá 27 triệu EUR có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn
ngoài ra có nhiều cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước khác
song ở đây tôi chỉ muốn đưa ra một vài vớ dụ về các cách phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới và khu vực.
Dưới đây là bảng tổng hợp tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ,
trong đó có DNNVV trong lĩnh vực DV trong ở một số nước trên thế giới.
Bảng 1.2. Tổng hợp tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ


16
ở một số nước trên thế giới
Nước

Loại doanh nghiệp

Số lao động
(Người)

Tổng số vốn

Danh thu/năm

Trong đó doanh nghiệp nhỏ

<500

<9

<100triệu Dmac
< 1 triệu Dmac

Canada

DNV&N

<500

< 20 triệu $
Canada

Nhật

DNV&N ttrong CN
DNV&N trong bán buôn
DNV&N trong bán lẻ

<300
<100
<50

Hàn Quốc

DNV&N trong CN
DNV&N trong DV

<100

<20

Hồng Kông

DNV&N trong Cn
DNV&N trong DV

<100
<50

Đài Loan

DNV&N

Singapore

DNV&N

<100

< 500 triệu $
Singapore

Thái Lan

DNV&N

<200

<50 triệu Bath


CHLB Đức

DNV&N

<100 triệu yên
<30 triệu yên
< 10 triệu yên

< 120 triệu $
Hồng kông

Nguồn: 1) Doanh nghiệp vừa và nhỏ, APEC, 1998; 2) định nghĩa doanh nghiệp vừa
và nhỏ, UN/ECE, 1999; 3) Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ, OECD, 2000

Có thể khái quát lại việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở
các nước theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kỳ. Các tiêu chí này
được sử dụng phổ biến ở nhiều nước đó là số lao động thường xuyên vốn đầu
tư, doanh thu. còn trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế của từng nước.
Để xác định tiêu chí phân loại DNNVV trong lĩnh vực DV trong ở Việt
Nam một cách phự hợp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta là một
nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị
trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực.
ngoài ra cần tính đến các yếu tố khác tác động tới việc phân loại như: Mục
đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa bàn. tiêu chí phân loại doanh nghiệp
vừa và nhỏ theo hai tiêu chí là lao động thường xuyên và vốn sản xuất là hợp


17

lý việc các tiêu chí này có tính phổ dụng tính bao quát và tính sát thực.
Tính phổ dụng thể hiện ở chỗ, tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về
hai tiêu thức này, tính bao quát của các tiêu chí này đựoc thể hiện ở chố có thể
xác định hai tiêu chí này ở mọi cấp độ: Toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh
nghiệp. tính sát thực thể hiện ở chỗ trong điều kiện của Việt Nam đây là hai
tiêu chí có thể các định tương đối chính xác trị số của chúng.
Tuy vậy hai tiêu chí này chỉ mới thể hiện được quy mô đầu vào mà
chưa phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh của các
doanh nghiệp. nếu căn cứ vào các tiêu chí khác để phân loại như: Doanh thu,
vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, lợi nhuận đều hạn chế việc rất khó
xác định hoặc số liệu khác chuẩn xác. Tiêu chí doanh thu (hoặc giá trị gia
tăng có nhiều ý nghĩa việc nó phản ánh quy mô doanh nghiệp qua kết quả
hoạt động của nó (gắn với hiệu quả) nhưng trong điều kiện của Việt Nam tiêu
chí này rất khó xác định và khó có số liệu chuẩn xác (chẳng hạn do việc giấu
doanh thu để trốn thuế hoặc do trình độ hạch toán của doanh nghiệp còn thấp các
tiêu chí khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không
phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành khác
nhau, chẳng hạn vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính
hình thức. vốn cố định có sự khác biệt lớn trong các ngành sản xuất thương mại.
vốn lưu động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực ngành nghề.
Về lĩnh vực ngành, cần phân biệt hai lĩnh vực chính là sản xuất công
nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cần chú ý là việc phân loại theo hai nhóm
ngành như vậy vẫn còn chung chung chưa phản ánh hết đặc thự ngành nghề.
chẳng hạn trong các ngành sản xuất công nghiệp thì tính chất và mức độ sử
dụng vốn lao động và doanh thu làm căn cứ để phân loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ là rất khác nhau. Để đạt tới mức độ chuẩn xác hơn cần phân loại theo
ngành hẹp hơn trên đặc tính sử dụng lao động, vốn của các ngành và đặc điểm
của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định hợp lý nhất



18
cho toàn bộ nền kinh tế là: Trong công nghiệp vốn sản xuất dưới 5 tỷ đồng lao
động dưới 300 người trong đó có dưới 1 tỷ đồng và dưới 50 lao động là doanh
nghiệp nhỏ trong thương mại, dịch vụ: vốn sản xuất dưới 2 tỷ đồng và dưới
100 người là doanh nghiệp vừa còn doanh nghiệp có dưới 1 tỷ đồng tiền vốn
và số lao động dưới 30 người là doanh nghiệp nhỏ.
1.1.3.3. Lý luận về phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV
a) Phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV
DNNVV trong lĩnh vực DV chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số
các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, chính vì vậy phát triển DNNVV trong
lĩnh vực DV là góp phần đưa DNNVV trong lĩnh vực DV lên giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, áp đảo các doanh nghiệp khác trong tổng số doanh
nghiệp đăng ký hoạt động, nâng cao sản lượng của doanh nghiệp để tạo ra
khối lượng việc làm đáng kể.
Phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV chính là giữ ổn định nền kinh tế,
ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu
phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời
điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và
vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Sự phát triển của DNNVV trong lĩnh vực DV làm cho nền kinh tế trở
nên năng động, với quy mô nhỏ nên dễ dàng điều chỉnh khi có sự thay đổi cho
phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp. Phát triển DNNVV trong lĩnh
vực DV chính là giúp cho ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ phát triển,
góp phần chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp
thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Ngoài ra phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV còn là động lực giúp
cho địa phương cải thiện tình hình kinh tế, nếu như doanh nghiệp lớn thường
đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV trong lĩnh vực
DV lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào



19
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
- Phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV là chiến lược lâu dài, đồng thời
cũng là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, là một trong những trụ cột của nền
kinh tế; giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của tỉnh; tạo cơ
sở, nền tảng của quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
- Tạo bước đột phá về chính sách và giải pháp cải thiện môi trường đầu
tư, môi trường kinh doanh thuận lợi để DNNVV trong lĩnh vực DV triển bình
đẳng và cạnh tranh lành mạnh trước pháp luật trên cơ sở phù hợp với quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong các lĩnh vực, ngành nghề
có khả năng khai thác tiềm năng và lợi thế của tỉnh, gắn với chương trình xây
dựng nông thôn mới, mục tiêu phát triển dịch vụ - du lịch, phát triển khoa học
và công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp
cũng như toàn nền kinh tế.
- Khuyến khích thành lập các doanh nghiệp mới, đồng thời tạo điều kiện
để các doanh nghiệp hiện có phát triển về quy mô và năng lực; nâng cao chất
lượng sản phẩm và tính cạnh tranh. Tích cực đưa công nghệ mới vào sản xuất,
quản lý của doanh nghiệp; xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp.
- Sự phát triển của DNNVV trong lĩnh vực DV làm cho nền kinh tế trở
nên năng động, với quy mô nhỏ nên dễ dàng điều chỉnh khi có sự thay đổi cho
phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp. Phát triển DNNVV trong lĩnh
vực DV chính là giúp cho ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ phát triển,
góp phần chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp
thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Ngoài ra phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV còn là động lực giúp
cho địa phương cải thiện tình hình kinh tế, nếu như doanh nghiệp lớn thường
dặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và



20
vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
b. Yếu tố ảnh hưởng đến phát triển DNNVV trong lĩnh vực DV
(1) Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của DNNVV
trong lĩnh vực DV là các nhân tố thuộc về bản thân DN như: Vốn, lao động,
trình độ quản lý của chủ DN, mặt bằng kinh doanh, công nghệ mà DN sử
dụng, sự hợp tác giữa các DN...
Nhóm nhân tố này là những nhân tố phản ánh năng lực bên trong của
doanh nghiệp, bao gồm nhân tố vốn, lao động, công nghệ, năng lực của chủ
doanh nghiệp và các nhân tố văn hóa kinh doanh, tinh thần kinh doanh, sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp,.....
- Vốn kinh doanh: Vốn kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và
hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Vốn kinh doanh của DN có thể chia ra là
vốn tự có và vốn vay. Do sự canh tranh khốc liệt trên thị trường nên hiện nay
hầu hết các DNNVV trong lĩnh vực DV ở Việt Nam đều gặp khó khăn về
vốn. Nhu cầu về vốn xuất phát từ chiến lược sản xuất kinh doanh của DN
như: đổi mới công nghệ sản xuất, mua sắm máy móc, trang thiết bị mới nhằm
thay thế lao động thủ công bằng máy móc hiện đại từ đó nâng cao năng suất
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh và tạo được uy
tín cho DN trên thị trường.
Vốn là nhân tố, là nguồn lực quan trọng đối với sự ra đời và phát triển
DNNVV trong lĩnh vực DV ở Việt Nam. Nguồn vốn đối với các DNNVV
trong lĩnh vực DV chủ yếu là vốn tự có và vốn vay từ ngân hàng, bạn bè,
người thân trong gia đình… Thiếu vốn và khó khăn trong việc tiếp cận các
nguồn vốn chính thức là hiện tượng thường gặp đối với các DNNVV trong
lĩnh vực DV ở Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
sự canh tranh ngày càng khốc liệt thì đòi hỏi nhu cầu về vốn cũng khác trước.

Các DNNVV trong lĩnh vực DV cần có lượng vốn đủ lớn để đầu tư công nghệ,


21
đổi mới thiết bị máy móc tiên tiến phù hợp vào sản xuất kinh doanh, nhằm thay
thế lao động thủ công, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu trong nước và thế giới. Như vậy, nhân tố vốn và sử dụng vốn có
hiệu quả là yếu tố quyết định ra đời và phát triển của DNNVV trong lĩnh vực
DV ở Việt Nam.
- Về trang thiết bị, công nghệ: Vốn kinh doanh và công nghệ luôn đi
liền với nhau, doanh nghiệp nào thiếu vốn thì công nghệ sử dụng cũng lạc hậu
và ngược lại. Công nghệ sẽ tác động trực tiếp tới năng suất, chất lượng sản
phẩm, giúp cho DN nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong
những năm vừa qua, do sức ép của thị trường và cơ chế quản lý kinh tế, các
DNNVV trong lĩnh vực DV đã có những đổi mới công nghệ nhất định như:
dùng điện vào sản xuất, mua máy móc thiết bị hiện đại từ các nước phát
triển...Tuy vậy vẫn còn nhiều DN sử dụng công nghệ lạc hậu nên năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm thấp.
- Trình độ quản lý của chủ DN: Chủ DN là người trực tiếp điều hành
mọi hoạt động của DN. Do vậy, chủ DN là một trong những yếu tố cơ bản
nhất tạo nên sự thành công hay thất bại của DN. Những người chủ DN có
năng lực, trình độ sẽ có các biện pháp và chiến lược kinh doanh để sản phẩm
của họ có thể sản xuất với chi phí thấp, bán theo giá thị trường để từ đó thu
được lợi nhuận lớn nhất. Bên cạnh đó, chủ DN cũng cần là người có sự linh
hoạt và khôn khéo trong quản lý người lao động, luôn biết cách động viên,
khuyến khích kịp thời đối với những người lao động hoàn thành tốt công việc
đồng thời cũng có những biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những lao
động ý thức kém.
- Khả năng tiếp cận thông tin và hệ thống thông tin: Hệ thống thông
tin và khả năng tiếp cận thông tin, nhất là những thông tin về thị trường, giá

cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DN. Hệ thống thông tin ở nước ta hiện nay mặc dù so với trước


22
đã được phổ biến khá rộng rãi, các phương tiện thông tin tương đối phong phú
và hiện đại, phương pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ...
song nhìn chung tính chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác - đầy đủ và hoàn
thiện của hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu sản xuất
kinh doanh trong điều kiện thị trường. Bên cạnh đó khả năng thu thập thông
tin, xử lý các thông tin của các DNNVV ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế: sự thay đổi về giá cả sản phẩm trên thị trường, thông tin về các đối
thủ cạnh tranh, bản quyền về sản phẩm, thông tin về sự biến động của các
nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm của DN... Do đó, nó
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
- Tổ chức quản lý doanh nghiệp và người lao động
+ Đa số các DNNVV trong lĩnh vực DV của nước ta hiện nay vẫn tổ
chức theo mô hình quản lý theo mô hình "gia đình". Đặc biệt mô hình này thể
hiện rõ nhất ở các DNNVV trong lĩnh vực DV ở thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh: Các doanh nghiệp tư nhân, công ty THHH. Những người quản lý
cũng như lao động trong các doanh nghiệp này là những người trong cùng gia
đình, hoặc cùng huyết thống hay là những người thân quen.
+ Về trình độ của cán bộ quản lý doanh nghiệp thì phần lớn các
DNNVV trong lĩnh vực DV ngoài quốc doanh chủ doanh nghiệp và cán bộ
quản lý đều chưa được đào tạo cơ bản, thiếu kinh nghiệm quản trị và kiến
thức kinh doanh trong cơ chế thị trường.
+ Về người lao động thì lao động làm việc trong các doanh nghiệp là lao
động phổ thông ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ học vấn thấp, hoặc chỉ
được đào tạo qua các lớp ngắn hạn tại các doanh nghiệp … Bên cạnh đó các
doanh nghiệp thường sử dụng lao động theo hình thức thời vụ hoặc hợp đồng

gia công với các hộ dân cư. Số liệu điều tra về trình độ của người lao động
trong các DNNVV trên cả nước cho thấy: chỉ có 15% lao động có trình độ đại


23
học trong đó chỉ tập trung vào DNNN, công ty TNHH và công ty cổ phần.
+ Thu nhập của người lao động trong các DNNVV vẫn còn ở mức thấp và
không ổn định. Mặc dù mức thu nhập này cao hơn so với làm nông nghiệp nhưng
vẫn thấp hơn so vơi các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra lao động vẫn chưa được
hưởng các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nghỉ chế độ, ….
(2) Các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố bên ngoài tác động đến sự phát triển của DNNVV trong
lĩnh vực DV đó là các nhân tố thuộc về Chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Mỗi quốc gia đều có chính sách, khuôn khổ luật pháp riêng và rõ ràng
cho DNNVV trong lĩnh vực DV, có cơ quản lý Nhà nước chuyên soạn thảo
Chính sách đối với DNNVV trong lĩnh vực DV. Trong những năm qua, thông
qua các tổ chức quốc tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, các DN và các tổ
chức hỗ trợ DN của Việt Nam đã có dịp tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm phát
triển DNNVV trong lĩnh vực DV với các nước trong khu vực, trao đổi nhu
cầu hợp tác, đào tạo cán bộ, cũng như các kỹ năng tư vấn hỗ trợ DNNVV
trong lĩnh vực DV. Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam chưa có khung chính sách thích
hợp cho loại hình DNNVV trong lĩnh vực DV. Một số cơ quan quản lý, cơ quan
hỗ trợ DN và một số địa phương đã tự ban hành tiêu chí để xác định DNNVV
trong lĩnh vực DV tuỳ theo mục đích hoạt động của các tổ chức và cơ quan đó.
Đến năm 2001, Chính phủ mới ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP năm 2001
định nghĩa về DNNVV (và định nghĩa lại vào tháng 6 năm 2009) làm cơ sở để
phân loại, nghiên cứu và đề xuất cơ chế chính sách vĩ mô liên quan đến
DNNVV. Tuy nhiên, đã xuất hiện một số hạn chế chủ yếu sau đây:
- Chính sách hỗ trợ DNNVV: Ngày 30/06/2009 nhà nước đã ban hành
nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp các DNNVV, trong đó có DNNVV

trong lĩnh vực DV phát triển. Thông qua nghi định này nhà nước đã tháo gỡ
phần nào khó khăn của DNNVV về mặt tài chính khi khuyến khích thành lập
quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV do Bộ Tài Chính chủ trì, khuyến khích


24
các địa phương xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các DNNVV thuê,
ưu tiên trợ giúp đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật…
nhận được nhiều sự trợ giúp từ phía chính phủ nhưng đến giai đoạn hiện nay
các DNNVV trong lĩnh vực DV vẫn chưa thoát khó để vươn lên phát triển
một cách bền vững. Theo kết quả điều tra khảo sát của tác giả thì phần lớn các
DNNVV trong lĩnh vực DV bị thiệt khi không được hỗ trợ nhưng không biết.
Ví dụ điển hình là chính sách giảm, giãn thuế của chính phủ được ban hành
rộng rãi, nhưng trong 50 Doanh nghiệp được khảo sát trong lĩnh vực DV khi
hỏi có biết gì về các chính sách hỗ trợ của chính phủ thì có đến 60% - 70% trả
lời là không biết gì.
Hiện nay, vẫn còn một số quan điểm chưa thuận lợi cho DNNVV trong
lĩnh vực DV phát triển. Trước hết, đó là nhận thức chưa đầy đủ của các ngành
các cấp, các địa phương về vai trò, vị trí của DNNVV trong lĩnh vực DV
trong CNH – HĐH nói riêng và trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung.
- Chính sách thuế: Hệ thống thuế hiện nay đã được cải cách theo
hướng đơn giản hoá để dễ thực hiện, đảm bảo công bằng giữa các thành phần
kinh tế và đảm bảo cho DN có thể tồn tại và cạnh tranh được. Tuy nhiên, các
chính sách thuế hiện hành vẫn còn phức tạp, còn tồn tại tình trạng phân biệt
đối xử giữa các loại hình DN và tỷ suất thuế cao chưa khuyến khích nền kinh
tế tăng trưởng trong dài hạn mà mục tiêu chủ yếu là tăng thu trong ngắn hạn.
- Chính sách lãi suất và tín dụng: Cùng với Chính sách đất đai và
Chính sách khoa học công nghệ, Chính sách tài chính tín dụng là một trong
những Chính sách quan trọng đối với sự phát triển của các DNNVV trong
lĩnh vực DV. Trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng, tỷ lệ dành cho các

DN ngoài quốc doanh còn rất thấp. Hiện nay các thủ tục vay tín dụng của các
ngân hàng nhìn chung còn khá phức tạp. Việc thiếu các quy định về đăng ký
tài sản cá nhân là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc thế
chấp, cầm đồ khi vay mượn. Ngoài ra các thủ tục thế chấp này vẫn có nhiều


25
điểm chưa hợp lý như quy định về công chứng, đánh giá tài sản... Một thực tế
là các ngân hàng thương mại không muốn cho các DNNVV trong lĩnh vực
DV vay vì khối lượng vốn vay nhỏ, độ tin cậy thấp, các ngân hàng không đủ
cán bộ tín dụng để quản lý các khoản vay nhỏ này. Ngoài ra, các DNNVV
thường gặp khó khăn trong việc thế chấp tài sản, lập dự án để vay vốn... Do
vậy, đa số các DNNVV trong lĩnh vực DV thường phải huy động vốn trong
khu vực tài chính phi chính thức với lãi suất cao, gây bất lợi cho hoạt động
kinh doanh.
- Chính sách khoa học - công nghệ: Các DNNVV trong lĩnh vực DV
gặp phải những khó khăn liên quan đến thông tin như: không hiểu kỹ về đối
tác, nhất là các đối tác nước ngoài; không biết xuất xứ của công nghệ của
nước ngoài cũng như các thông tin để đánh giá sự phù hợp của công nghệ đối
với DN. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực nói chung và kỹ năng của
người lao động nói riêng cũng là yếu tố quan trọng để có thể tiếp thu được
công nghệ chuyển giao. Chính sách của Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở
những phương hướng, chưa có chính sách hay chương trình thật cụ thể cho
việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Mối liên hệ giữa DN lớn,
DNNVV và DNNVV trong lĩnh vực DV , giữa các DNNVV với nhau trong
chuyển giao công nghệ còn yếu. Ngoài ra, các Chính sách vĩ mô về công nghệ
vẫn còn mâu thuẫn với nhau. Ví dụ: Nhà nước luôn khẳng định khuyến khích
các DN đổi mới công nghệ nhưng chế độ khấu hao tài sản đối với các DN lại
không phù hợp. Các chính sách thuế, ưu đãi về vốn cũng chưa thực sự khuyến
khích việc nghiên cứu và triển khai áp dụng công nghệ mới và chuyển giao

công nghệ.
- Chính sách của địa phương: Chính quyền địa phương cần tiếp tục
hoàn thiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ Doanh nghiệp, tiếp tục xây
dựng và đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển


×