Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực trạng và kiến thức thực hành của người cao tuổi về bệnh tăng huyết áp ở huyện kiến thụy hải phòng năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.11 KB, 79 trang )

-1-

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là bệnh lý phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, là bệnh mạn tính, tiến triển nặng dần và nguy hiểm, gây ra khoảng 4,5%
gánh nặng bệnh tật chung toàn cầu, là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong
hàng đầu ở người cao tuổi (NCT). Trong số các trường hợp mắc bệnh và tử
vong do tim mạch hàng năm có khoảng 35% - 40% nguyên nhân do THA.
Tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch quan trọng và ngày
càng phổ biến ở mọi đối tượng giới tính, nghề nghiệp nhưng người ta thấy tỷ
lệ THA cao hơn ở người cao tuổi [3].
Tại hội thảo Quốc tế về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT) tại
Hà Nội năm 2009, số liệu đưa ra cho thấy Việt Nam có hơn 7 triệu NCT,
chiếm 10% dân số. Vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam đang trở thành thách
thức đối với kinh tế- xã hội. Tại hội thảo này, theo chuyên gia y tế, chi phí
chăm sóc y tế NCT cao gấp 7 lần so với người trẻ nếu không có giải pháp
thích hợp. NCT thường mắc các bệnh về huyết áp, tim mạch, nội tiết, trầm
cảm, mất trí nhớ..... ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống NCT; Tăng
huyết áp chiếm tỉ lệ và có xu hướng phát triển nhanh không chỉ ở các nước
phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Theo Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), trên thế giới, tỉ lệ THA năm 1978 chiếm khoảng 10% - 15% dân số,
năm 2000 là 26,4% (một tỉ người mắc) sẽ tăng lên 29,2% (1,5 tỉ người mắc)
vào năm 2025
Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy tình hình THA ở
NCT đang là vấn đề sức khỏe đáng lo ngại. Một nghiên cứu đa trung tâm do
tổ chức y tế thế giới đã tiến hành tại Bangladesh và Ấn độ cho thấy tỉ lệ THA
ở NCT là 65%; Tỉ lệ này cao hơn ở vùng thành thị và không khác nhau có ý
nghĩa thống kê giữa 2 giới. Nghiên cứu tỉ lệ THA ở NCT tỉnh Hải Dương trên
cơ sở điều tra 3.117 NCT tại cộng đồng, tác giả Nguyễn Đăng Phải đã đưa ra



-2-

tỉ lệ THA là 28,2% [41]. Viện Chiến lược và chính sách y tế năm 2006 điều
tra 7 tỉnh trong cả nước (bao gồm Sơn La, Hải Dương, Hà Tĩnh, Ninh Thuận,
Đăk Lăk, Bà Rịa - Vũng Tàu và Vĩnh Long) tỷ lệ THA 28,4% [7].
Bệnh THA gây nhiều biến chứng nguy hiểm như: tai biến mạch máu
não, suy tim, tổn thương thận, mắt.... phải điều trị lâu dài, cần sử dụng thuốc
và phương tiện hiện đại. Bệnh THA có liên quan đến một số rối loạn chuyển
hóa glucose máu, lipid máu ... các rối loạn chuyển hóa này vừa là nguyên
nhân gây THA vừa là hậu quả của THA và như vậy bệnh này.
Ở Việt Nam nói chung và ở Hải Phòng nói riêng kiến thức, thái độ thực
hành ở người cao tuổi về bệnh THA còn chưa được quan tâm đúng mực.
Nhiều người không biết mình bị THA đến khi có biến chứng mới biết do
thiếu những kiến thức, thực hành không đúng về chế độ dinh dưỡng, thể dục,
sinh hoạt... đã làm tăng tỷ lệ các biến chứng do tăng huyết áp gây ra. Để góp
phần xây dựng các giải pháp chăm sóc sức khỏe cho NCT. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến bệnh tăng huyết áp ở
người cao tuổi tại huyện Kiến Thụy, Hải Phòng năm 2015
2. Mô tả kiến thức, thực hành của người cao tuổi về bệnh tăng
huyết áp tại địa điểm trên.


-3-

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa và phân loại bênh tăng huyết áp.
1.1.1. Định nghĩa tăng huyết áp.
Huyết áp (HA) động mạch là áp lực của máu tác động lên thành động

mạch được tính bằng mmHg hoặc kilopascal (Kpa). Huyết áp động mạch phụ
thuộc vào cung lượng tim và sức cản mạch ngoại vi. Ngoài ra còn phụ thuộc
vào sự đàn hồi của thành mạch, độ nhớt của máu.
Huyết áp động mạch được biểu thị bằng 2 chỉ số: huyết áp tâm thu
HATT và huyết áp tâm trương HATTr.
Huyết áp tâm thu là áp suất máu đo trong động mạch thời kỳ tâm thu,
phụ thuộc vào lực co bóp và thể tích tâm thu, trị số HATT bình thường là 90120 mmHg. Huyết áp tâm trương là áp suất của máu đo được trong thời kỳ
tâm trương, trị số HA tâm trương bình thường 60-80mmHg, trị số HA tâm
trương phụ thuộc vào trương lực của mạch máu.
* Định nghĩa: Theo đinh nghĩa của tổ chức y tế thế giới WHO (Word
HealthOrganization) và hội THA Quốc tế ISH (International Society
Hypertension) một người lớn được gọi là THA khi huyết áp tâm thu ≥
140mmHg và /hoặc HA tâm trương ≥ 90mm.
Đây không phải là tình trạng bệnh lý độc lập mà là một rối loạn với
nhiều nguyên nhân, các triệu chứng đa dạng, đáp ứng với các điều trị cũng rất
khác nhau. THA cũng là yếu tốt nguy cơ của nhiều bệnh tim mạch khác như:
tai biến mạch máu não, bệnh mạch vành…
1.1.2. Những thay đổi sinh lý của huyết áp.
Ở người bình thường huyết áp không phải lúc nào cũng ổn định, mà nó
luôn thay đổi do nhiều yếu tố; Tất cả những thay đổi đó có tính chất sinh lý,


-4-

chỉ ở giới hạn hoặc cao hơn huyết áp bình thường nhưng sau đó nó tự hạ về
mức bình thường mà không phải dùng thuốc.
- Huyết áp thay đổi theo trạng thái tâm lý.
Các trạng thái tâm lý như lo âu, bồn chồn, xúc động, thần kinh căng
thẳng… đều ảnh hưởng tới huyết áp. Tất cả những yếu tố tác động tâm lý này
nếu ở mức độ mạnh được coi như đả kích (stress). Những stress này tác động

lên vỏ tuyến thượng thận, làm tăng tiết catecholamin vào máu, chất gây co
mạch dẫn đến tăng huyết áp.
- Huyết áp thay đổi theo hoạt động.
Huyết áp tăng hay giảm tùy theo mức độ vận động của cơ thể, kể cả lao
động chân tay và trí óc. Khi cơ thể vận động, nhu cầu oxy và chất dinh dưỡng
tăng lên vì vậy tim phải làm việc nhiều bằng cách tăng tần số và tăng cường
độ co bóp, do đó huyết áp tăng lên, khi nghỉ ngơi huyết áp trở lại bình thường.
- Huyết áp thay đổi theo thời gian.
Trong một ngày huyết áp tăng giảm theo thời gian. Gần sáng, huyết áp
tăng dần lên và tăng cao hơn vào khoảng 9-12 giờ trưa và cuối buổi chiều.
Ban đêm, huyết áp lại hạ xuống và thấp hơn vào khoảng 3 giờ sáng. Sở dĩ có
sự thay đổi này là do ảnh hưởng của nhịp sinh học.
- Huyết áp thay đổi theo khí hậu, thời tiết.
Huyết áp cũng tăng giảm theo thời tiết. Khi trời lạnh, mạch máu ngoại
vi co lại để giảm sự thải nhiệt, do đó huyết áp tăng lên;. Ngược lại, khi nắng
nóng, mạch ngoại vi giãn nhiều để tăng sự thải nhiệt thì huyết áp lại hạ xuống.
1.1.3. Nguyên nhân tăng huyết áp.
Dưới 10% trường hợp có thể xác định được nguyên nhân, gọi là tăng
huyết áp thứ phát [31]. Các nguyên nhân gây tăng huyết áp thứ phát bao gồm
bệnh thân, bệnh về mạch máu, rối loạn nội tiết, dị tật bẩm sinh. Trên 90% các
trường hợp tăng huyết áp không tìm ra nguyên nhân hoặc chưa rõ nguyên


-5-

nhân, nên được gọi là tăng huyết áp nguyên phát hay bệnh tăng huyết áp [31].
Tuy chưa có nguyên nhân rõ rệt nhưng người ta tìm thấy những yếu tố ảnh
hưởng gây tăng huyết áp và được gọi chung là nguyên nhân thuận lợi.
1.2. Chẩn đoán tăng huyết áp:
1.2.1. Chẩn đoán xác định THA dựa vào đo HA:

1.2.2. Quy trình đo HA động mạch cánh tay bằng máy đo HA đồng hồ
hoặcmáy đo HA thủy ngân:
- Bệnh nhân ngồi hoặc nằm đúng tư thế, được chuẩn bị đầy đủ.
- Bệnh nhân đặt ngửa cánh tay, quấn băng tay vừa đủ chặt sao cho mép
dưới của bao tay cách nếp gấp khuỷu tay khoảng 2,5cm.
- Xác định đường đi của động mạch cánh tay.
- Đặt màng loa của ống nghe trên đường đi động mạch cánh tay.
- Bơm hơi vào băng quấn tay đến khi không nghe thấy tiếng mạch đập,
bơm tiếp thêm 30 mmHg.
- Xả hơi từ từ với tốc độ 2-3 mmHg/giây.
- HA tâm thu là trị số khi nghe thấy tiếng đập trở lại đầu tiên.
- HA tâm trương là trị số khi nghe thấy tiếng đập cuối cùng.
1.2.3. Một số phương pháp đo HA khác.
- Bệnh nhân tự đo HA, việc này có những lợi ích là:
+ Tránh cho bệnh nhân phải đến cơ sở y tế liên tục, giảm chi phí và
phiền hà cho bệnh nhân.
+ Giúp theo dõi HA tốt hơn cũng như thuận lợi hơn trong việc theo dõi
HA.
+ Bệnh nhân chủ động hơn trong việc điều trị HA.
+ Tránh hiện tượng THA “áo choàng trắng”.
- Đo HA liên tục (Holter huyết áp):


-6-

Biện pháp này không áp dụng thường quy, có ích trong những trường
hợp: nghi ngờ bệnh nhân có THA “áo choàng trắng”, THA cơn, THA kháng
lại điều trị, tụt HA do dùng thuốc hạ HA
1.3. Tình hình bệnh THA của người cao tuổi trên thế giới và Việt Nam.
1.3.1. Tình hình bệnh THA của người cao tuổi trên Thế giới

Tần suất mắc bệnh THA trong cộng đồng rất cao ở nhiều nước phát
triển. Theo nghiên cứu của William và Lisk (năm 1998) điều tra ở 2 làng với
463 đối tượng, lấy tiêu chuẩn THA là THA tâm thu ≥ 160mmHg, THA tâm
trương ≥ 90mmHg thấy tỷ lệ THA chung ở cả 2 làng là 22.4%. Tỷ lệ này cao
hơn quần thể tương tự khác của các nước Châu Phi [60].
Theo nghiên cứu ở Cameroon (Mbanya và cộng sự năm 1998), điều tra
trên 4.038 người (1.965 người ở nông thôn, 2.073 người ở thành thị). Kết quả
cho thấy rằng tỷ lệ THA ở nông thôn là 5.6%, ở thành thị là 23.4% [63].
Tại Hoa Kỳ theo điều tra về sức khỏe và dinh dưỡng năm 1988 đến
năm 1991 có 20,4% người trưởng thành bị THA; tại Pháp năm 1994 là 41%;
Canada năm 1995 là 22%; Hungaria năm 1996 là 26,2%; Mêhico năm 1988 là
19,4%; Cuba năm 1998 là 44%; Địa bàn Thành phố Ấn Độ năm 1997 là
23,7% [60].
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định điều trị THA hiệu quả làm
giảm biến chứng của bệnh, giảm tỷ lệ tử vong. Nhưng cuộc điều tra sức khỏe
ở Hoa Kỳ cho thấy: năm 1976 đến năm 1980 chỉ có 10% người THA giữ
được HA của họ <140/90mmHg và năm 1988 đến năm 1991 tỷ lệ này tăng
lên đạt 27%. Điều đáng quan tâm là trên 70% bệnh nhân THA không kiểm
soát HA đạt hiệu quả (hoặc không điều trị gì). Vấn đề này xảy ra ở nhiều
nước khác nhau [60].
Bệnh THA đang tăng nhanh trên thế giới do hậu quả của lối sống ít
hoạt động thể lực, làm việc căng thẳng, chế độ ăn không cân đối …


-7-

1.3.2. Tình hình bệnh THA của người cao tuổi tại Việt Nam
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, đô thị hóa tỷ
lệ người tăng huyết áp gia tăng khá nhanh.
Theo nghiên cứu của Viện Tim mạch Việt Nam năm 2008 tiến hành

điều tra 8 tỉnh và thành phố ở nước ta cho thấy tỷ lệ THA đã tăng lên đến
25,1%, nghĩa là cứ 4 người trưởng thành thì có một người bị THA. Trong số
những người bị THA thì có tới 52% (khoảng 5,98 triệu người) không biết
mình bị THA, 30% (khoảng 3,45 triệu người) trong số những người đã biết
mình bị THA vẫn không có một biện pháp điều trị nào và 64% những người
đó (khoảng 2,4 triệu người) THA đã được điều trị nhưng vẫn chưa đưa được
về con số HA mục tiêu. Như vậy hiện nay Việt Nam có khoảng 11.83 triệu
dân hoặc không biết bị THA, hoặc THA nhưng không được điều trị, hoặc
điều trị nhưng chưa đưa được con số HA về mức bình thường [3].
Theo kết quả của công trình điều tra dịch tễ học bệnh tăng huyết áp
năm 1989- 1992 của Trần Đỗ Trinh và cộng sự cho thấy tỷ lệ THA là 11,7%
[52].
Năm 1999, theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự đã tiến
hành điều tra bệnh THA ở người trưởng thành tại Hà Nội thấy tần suất THA
là 16,05% [60]. Đến năm 2001, theo nghiên cứu của Phạm Thị Kim Lan tỷ lệ
THA ở nội thành Hà Nội tăng lên là 23,2% [27].
Năm 2002, theo điều tra của viện Tim mạch các tỉnh miền Bắc Việt
Nam là 16.32% trong đó ở đô thị là 23,2%, Duyên Hải là 16,6%, Đồng Bằng
và Trung Du là 12,4% và 13,9% [32].
Năm 2008, Trương Tấn Minh và cộng sự đánh giá tình hình THA ở
NCT tỉnh Khánh Hòa là 48,1% [39].


-8-

1.3.3. Tình hình mắc bệnh tăng huyết áp ở Hải Phòng
Điều tra dịch tễ học THA trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2002
Bùi Thị Hà và cộng sự cho thấy; tỉ lệ THA ở người trưởng thành chiếm
17,15% trong đó nội thành là 19,09%, ngoại thành là 16,44% (p < 0,05) [14].
Năm 2004, Đặng Xuân Tin và cộng sự điều tra dịch tễ học ở người cao

tuổi thấy: THA trong nội thành là 39,2%; ngoại thành là 26,9% (p < 0,05)
Năm 2010, Phạm Văn Hán và cộng sự nghiên cứu về tỷ lệ THA ở NCT
quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng tỷ lệ THA là 32,1% [19].
Năm 2012, nghiên cứu trên những người cao tuổi tại huyện An Lão của
Nguyễn Thị Thuyết cho thấy tỉ lệ THA là 36,05%.
1.4. Tình hình người bệnh tuân thủ điều trị và kiểm soát số đo huyết áp.
Theo báo cáo JNC VII năm 2003, bệnh THA ảnh hưởng tới gần 1 tỷ
người trên thế giới[82]. Ngay tại một nước phát triển như Hoa Kỳ, chỉ có 59%
bệnh nhân THA tham gia điều trị. Trong số những bệnh nhân điều trị chỉ có
34% bệnh nhân kiểm soát được HA. Tới giai đoạn 2009 - 2010 trong nghiên
cứu về THA ở người trưởng thành Hoa Kỳ, Yoon SS, Burt V, Louis T và
Carroll MD đã chỉ ra rằng trong số những người bị THA chỉ có 81,9% nhận
thức được bệnh của mình, 76,4% trong số đó tiến hành điều trị và chỉ có
53,3% có huyết áp được kiểm soát [87].
Theo nghiên cứu của Zhang CY, Niu GM, Zhao SG, AR, Wang ZG,
Jiang MF, Huri L năm 2012 tiến hành ở đối tượng người Hán và Mông Cổ
trên 55 tuổi trong khu vực tự trị nội Mông Cổ cũng cho thấy tỷ lệ người mắc
THA cao trong khi tỷ lệ nhận thức, điều trị và kiểm soát được HA lại khá
thấp. Cụ thể ở nam giới tỷ lệ nhận thức được THA là 61,03%, trong số đó tỷ
lệ tham gia điều trị là 46,73% và tỷ lệ kiểm soát thành công HA là 11,87%; tỷ
lệ nhận thức, điều trị và kiểm soát THA ở nữ giới tương ứng là 67,58%;
56,55% và 14,03% [88].


-9-

Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Đặng Văn Chung cho thấy cứ 100
người THA chỉ có 4% được điều trị đúng cách, 13,5% điều trị không không
đúng cách, 15% biết mình bị THA nhưng không điều trị, còn số người không
biết mình bị THA lên tới 67,5% [52].

Năm 2004, Viên Văn Đoan và cộng sự công bố kết quả nghiên cứu cho
thấy tỷ lệ bệnh nhân không hiểu biết về bệnh THA cũng như không biết mình
bị THA khá cao (47,6%), tỷ lệ hiểu biết về bệnh THA chiếm tỷ lệ 9,5% [12].
1.5. Phân loại Tăng huyết áp
Theo WHO/ISH (Ủy ban phòng chống tăng huyết áp Hoa Kỳ) năm
2003 chia THA làm 3 độ.
Bảng 1.1. Chia độ tăng huyết áp theo WHO/ISH (năm 2003)
Huyết áp (mmHg)

Phân độ THA

Tâm thu

Tâm trương

THA độ I

140 - 159

90 - 99

THA độ II

160 - 179

100 - 109

THA độ III

 180


 110

- Liên Ủy ban quốc gia về dự phòng, phát hiện, đánh giá, điều trị THA
Hoa Kỳ (Join National Committee - JNC) lại đưa ra phân loại hơi khác quan
các kỳ họp và gần đây JNC VII (năm 2003) chia THA như sau:
Bảng 1.2. Phân loại độ THA theo JNC VII ( năm 2003)
Phân loại THA
Bình thường

HA tâm thu
(mmHg)
< 120



HA tân trương
(mmHg)
< 80

Tiền THA

120 - 139

Và/hoặc

< 80 - 89

THA giai đoạn 1


140 - 159

Và/hoặc

90 - 99

THA giai đoạn 2

 160

Và/hoặc

 100


- 10 -

Nếu HATT và HA TTr ở hai phân độ khác nhau tính theo trị số HA lớn
hơn.
1.6. Các biến chứng của bệnh THA.
Cho đến nay, mặc dù đã trải qua rất nhiều cuộc nghiên cứu nhưng
nguyên nhân THA vẫn chưa được hoàn thiện. THA ở người lớn phần đa là
không có căn nguyên (chiếm đến 90% THA nói chung). Nhưng hiểu biết về
sinh lý bệnh cho thấy HA chịu ảnh hưởng của cung lượng tim và sức cản
mạch ngoại vi. Cung lượng tim tăng thì HA tăng, cung lượng tim giảm thì HA
giảm. Sức cản của tiểu động mạch giảm do giãn mạch thì HA hạ, sức cản đó
tăng do co mạch ngoại vi nhiều thì THA.
1.6.1 Một số bệnh hay có cùng bệnh THA:
Một số bệnh hay có cùng bệnh THA gồm có:
+ Bệnh xơ vữa động mạch: Bệnh xơ vữa động mạch và bệnh THA là

hai bệnh khác nhau nhưng nếu có cùng trên một người bệnh thì lại thúc đẩy
sự phát triển của nhau làm cả hai bệnh trở nên nặng hơn, gây nhiều biến
chứng phức tạp, nhất là TBMMN.
+ Bệnh đái tháo đường: Người ta thấy rằng 30-50% những người mắc
bệnh đái tháo đường bị THA, những bệnh nhân này thường là thừa cân, béo
phì. Khi xét nghiệm thấy đường máu tăng cao ở 1/3 số bệnh nhân có THA.
1.6.2. Một số tổn tổn thương cơ quan đích có thể gặp trong tăng huyết áp.
- Tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là
nguyên nhân gây tử vong cao nhất đối với THA; dày thất trái gây suy tim toàn
bộ, suy mạch vành gây nhồi máu cơ tim, phù phổi cấp.
- Não: Tai biến mạch máu não thường gặp như: Nhũn não, xuất huyết
não có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề,...
- Thận: Vữa xơ động mạch thận sớm và nhanh, Xơ thận gây suy thận
dần dần, Hoạt tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây THA ác tính, Giai


- 11 -

đoạn cuối thiểu máu cục bộ nặng ở thận dẫn đến nồng độ Creatinin và
angiotensin II trong máu tăng gây cường aldosterol thứ phát.
- Mạch máu: THA là yếu tố gây xơ vữa ĐM, phồng ĐM chủ.
- Mắt: Soi đáy mắt có thể tổn thương đáy mắt.
1.7. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh THA.
Có nhiều yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ THA trong cộng đồng như:
1.7.1. Tuổi, giới.
Huyết áp cũng tăng dần theo tuổi, tuổi càng cao hệ động mạch càng bị
xơ cứng nhiều, sự co giãn đàn hồi của thành động mạch kém đi, lòng động
mạch bị hẹp lại, vì vậy huyết áp cũng tăng dần.Theo nghiên cứu của Phạm
Gia Khải và cộng sự năm 2002 cho thấy tuổi càng cao thì huyết áp càng tăng
[30].

Còn về giới tính thì ở lứa tuổi thanh niên trở lên nhất là trung niên nam
giới có huyết áp trung bình cao dần và tỷ lệ chết sớm cũng cao hơn nhưng về
cuối đời thì ngược lại, HA ở nữ giới tăng nhanh hơn.Các công trình nghiên
cứu trên thế giới cũng thấy rằng THA ở nam nhiều hơn ở nữ. Theo Hayes và
cộng sự ở bệnh viện Mayoclinic- Minnesota Hoa Kỳ năm 1998 thì sự khác
nhau này có liên quan về gen và về sinh lý học giới tính [70].
1.7.2. Béo phì
Là hậu quả của việc mất cân bằng năng lượng, trong đó năng lượng
ăn vào vượt quá năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài.
- Chẩn đoán thừa cân béo phì theo WHO áp dụng cho khu vực Châu Á
Thái Bình Dương năm 2000 [49]. Được đánh giá dựa trên chỉ số khối cơ thể
BMI (Body Mass Index).
BMI = Trọng lượng cơ thể (kg)/chiều cao(m)2
Nghiên cứu về dịch tễ THA của quần thể người trưởng thành ở thành
phố Maracaibo- Vennezuela thấy rằng người có BMI trung bình ≥ 25 có tỷ lệ


- 12 -

mắc THA gấp 2 lần người có BMI ≤ 25 ( 47,6% so với 24,4%) [49].Nghiên
cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự trên 7610 người tại Hà Nội từ tháng
4/1998 đến tháng 4/1999 cho thấy nhóm BMI từ 22 trở lên đã có nguy cơ
THA [30].
1.7.3. Đái tháo đường.
Bệnh Đái tháo đường hay mắc cùng với bệnh THA. Người ta thấy
khoảng 30- 50% bệnh nhân đái tháo đường bị THA. Những bệnh nhân này
thường béo. Ngược lại, xét nghiệm đường trong máu thấy tăng cao ở 1/3 số
bênh nhân bị THA [8].
Năm 1998, Nguyễn Thị Dung nghiên cứu 1160 bệnh nhân THA tại
Bệnh viện Việt Tiệp, đường máu lúc đói đã được xét nghiệm ở 79,3% số bệnh

nhân trong đó có 14,5% bị đái tháo đường [8]. Năm 2002, nghiên cứu của
Phạm Thị Kim Lan trên 1138 đối tượng ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ đái tháo
đường ở người THA là 9,9% cao hơn rõ rệt so với người không THA 3,4%
[37].
1.7.4. Rối loạn Lipid máu.
Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức năng quan trọng, một
phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp. Mức tổng
Cholesterol tốt nhất là dưới 150mg/dl. Lượng cholesterol trong khẩu phần ăn
có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phần trong huyết thanh. Do cholesterol
trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hết ủy ban
chuyên viên quốc tế đều khuyên lượng cholesterol trong chế độ ăn trung bình
nên <300mg/ngày/người.
Từ tháng 11/1996 đến tháng 01/1997, Phạm Nguyễn Sơn và cộng sự
nghiên cứu trên 144 bệnh nhân THA tại khoa A2 bệnh viện Trung ương quân
đội 108 cho thấy 37,2% có tăng Cholesterol máu, 25% tăng Triglycerid máu,
33,6% có giảm HDL- Cholesterol [7].


- 13 -

Năm 2002, nghiên cứu của Phạm Thị Kim Lan trên 1138 đối tượng ở
Hà Nội cho thấy:
- Khi Cholesterol toàn phần ≥ 6,20mmol/l thì nguy cơ bị THA gấp 7
lần những người có Cholesterol toàn phần < 5,20mmol/l.
- Triglycerid tăng nhẹ cũng làm nguy cơ bị THA tăng gấp 2,7 lần.
- Khi LDL- Cholesterol > 4,2mmol/l làm tăng nguy cơ THA lên 5,6 lần
[38].
1.7.5. Hút thuốc lá.
- Hút thuốc lá, mặc dù không phải là một nguyên nhân THA, nhưng là
một yếu tố đe dọa quan trọng của bệnh. Vì nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở

người THA có hút thuốc lá cao hơn 50- 60% so với những người THA không
hút thuốc lá [48].
- Nghiên cứu dịch tễ học của Trần Đỗ Trinh về bệnh THA ở Việt Nam
(1989- 1992) chỉ ra rằng ở những người hút thuốc lá trung bình trên 8
điếu/ngày tỷ lệ bị THA cao hơn người bình thường (p< 0,05), nhưng nếu hút
dưới số lượng đó thì tỷ lệ bị THA không khác nhau [52].
- Năm 2006, Rosen BD Sead, MF Shea và cộng sự nghiên cứu ảnh
hưởng của thuốc lá đối với bệnh nhân THA, cho rằng hút thuốc lá làm giảm
chức năng tâm thu thất trái và thay đổi chức năng thận ở bệnh nhân này [62].
1.7.6. Uống rượu - bia.
WHO đã khuyến cáo “rượu làm THA và đó là yếu tố nguy cơ của tai
biến mạch máu não, thường thấy phối hợp với bệnh cơ tim, loạn nhịp tim,
tăng xuất huyết não. Nếu uống rượu điều độ chỉ ở mức 10g ethanol x 1-3 lần/
ngày thì có thể chấp nhận được, ở mức trên 3 lần/ ngày ( >30g ethanol ) có
bằng chứng hại cả về sinh học lẫn xã hội ”.


- 14 -

Điều tra dịch tễ học của Trần Đỗ Trinh về bệnh THA ở Việt Nam trong
4 năm 1989- 1992 cho thấy những người bị THA có tỷ lệ uống rượu cao hơn
những người bình thường (p< 0,01) [52].
Nghiên cứu của Phạm Gia Khải về dịch tễ học THA tại Hà Nội năm
1999 cho thấy uống rượu có mối liên quan chặt chẽ với THA ở cả 2 giới OR=
1,9 CI 95%; 1,66- 2,17 [30].
1.7.7. Ăn mặn.
- Ăn mặn là cội nguồn của nhiều căn bệnh gây tỉ lệ tử vong cao trong
đó có bệnh tim mạch. Khi ăn mặn cơ thể sẽ nạp vào một lượng natri lớn đẩy
nồng độ natri trong máu tăng cao, thận phải làm việc quá công suất mới lọc
máu được. Khi lượng natri trong máu cao, thận không thể phát huy tối đa khả

năng làm việc sẽ gia tăng áp lực thẩm thấu gây tăng thể tích máu. Đây chính
là nguyên nhân dẫn đến tăng huyết áp và gánh nặng cho hoạt động của tim
mạch. Câu hỏi về hàm lượng muối quá cao trong khẩu phần ăn đã được
Ambard và Beasard đề cập đến từ năm 1904. Một số nghiên cứu gồm cả dịch
tễ học, sự di trú và nghiên cứu văn hóa theo chiều ngang, cho thấy có sự
khẳng định mạnh mẽ là số lượng muối ăn hàng ngày quá cao là một nguyên
nhân gây THA trong các quần thể [52].
Các thử nghiệm cho thấy chế độ ăn nhiều Natri trên 14g/ngày sẽ gây
THA; trong khi ăn ít muối dưới 1g/ngày gây giảm huyết áp động mạch. Hạn
chế chế độ ăn muối là một trong những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa
THA và có lẽ là cách điều trị không dùng thuốc tốt nhất [61].
1.7.8. Yếu tố gia đình.
Tiền sử gia đình (TSGĐ), nhất là trực hệ: bố, mẹ, anh chị em ruột, có
người lớn bị THA là một trong các nguy cơ mạnh nhất làm cho một đối tượng
có thể bị THA trong tương lai.


- 15 -

Năm 1999, Phạm Gia Khải nghiên cứu 1221 trường hợp THA có 188
trường hợp có người trong gia đình bị THA gồm: Bố bị THA 80/188
(42,55%), mẹ bị THA 71/188 (37,76% ), anh chị em ruột, cô dì chú bác bị
THA 37/188 ( 19,68%) [30].
Ngoài những yếu tố nguy cơ đã nghiên cứu ở trên còn có nhứng yếu tố
như: Stress, uống cà phê, ít vận động thể dục thể thao…
1.8. Các biện pháp phòng ngừa tăng huyết áp.
Việc phòng ngừa không cần tiêu tốn tiền bạc mà chỉ cần trong cuộc
sống hằng ngày chú ý đến cải thiện chế độ sinh hoạt, ăn uống, tập luyện để
những người có số HA ở mức bình thường cao 130- 139/85- 90 mmHg không
trở thành người THA, những người THA nhẹ có khi không phải uống thuốc,

còn những người THA trung bình hoặc tăng HA nặng thì việc điều chỉnh lối
sống tốt và phối hợp với liều thuốc giảm đi cũng giảm được HA theo mong
muốn.
1.8.1 Chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Trong thay đổi lối sống, cách thức ăn ăn uống ảnh hưởng mạnh nhất;
Nguyên tắc xây dựng chế độ ăn trong phòng bệnh và điều trị bệnh THA là: ăn
ít Natri, giàu kali, lợi tiểu, giảm béo, giảm kích thích, tăng an thần, nhiều rau,
quả tươi, chất xơ, protein.
Mục đích chế độ ăn uống phải khoa học, hợp lý nhằm duy trì sinh lý
bình thường, có lợi cho việc kiểm soát cân nặng, chỉ số HA, phục hồi thể lực
giữ lượng mỡ và đường trong máu ổn định, làm chậm phát sinh các biến
chứng cấp và mạn tính.
1.8.1.1. Ăn ít Natri, giàu kali, đủ Canxi
- Ăn ít Natri: Giảm muối (natri clorua) tới mức chịu được, lý tưởng là
không quá 1,5g/ngày natri hoặc 3,8g/ngày muối ăn. Theo khuyến cáo cảu
WHO, lượng muối ăn là dưới 6g/ngày. Ngoài việc giảm lượng muối, mì chính


- 16 -

trong khi nấu nướng, cần hạn chế dùng thêm muối hoặc nước chấm ở bàn ăn.
Không nên ăn những món ăn như: dưa muối, cà muối, cá khô. Hạn chế ăn đồ
hải sản vì bản thân các loại thức ăn này chứa nhiều natri. Không nên dùng
những thực phẩm, đồ uống có chứa chất kích thích như rượu, bia, cà
phê…Những loại thức ăn nhanh, bánh mì, xúc xích....
- Ăn giàu kali: Lượng kali ăn 120mmol/ngày (tương đương 4,7g/ngày).
Nên ăn tăng cường rau, củ, đậu đỗ và hoa quả các loại rau quả giàu kali: khoai
tây, dưa hấu, đậu nành, chuối, táo… có 10-12mmol kali trong 150g chuối,
450g táo, 100g nấm, 250g và rốt, 200g cà chua tươi.
- Ăn đủ canxi: NCT ăn khoảng 1,2g/ngày.

- Ăn đủ vitamin C, E, A và các yếu tố vi lượng.
1.8.1.2. Ăn nhiều rau quả, quả tươi, chất xơ.
Chất xơ trong rau quả và những loại ngũ cốc thô như: gạo lức, bắp lức
các loại đậu có tác dụng chuyển hóa các chất béo và làm hạ huyết áp. Các
chất xơ, nhất là chất xơ tan trong nước, có khả năng hút nước và trương nở
lên đến 8-10 lần trọng lượng ban đầu, qua đó có thể kết dính và đào thải nhiều
cặn bã và chất độc hại ra khỏi cơ thể. Đặc biệt, chất xơ cũng thu hút những
acid mật do cơ thể sản sinh ra để tiêu hóa các chất béo và đào thải chúng ra
ngoài theo đường ruột. Điều này buộc cơ thể huy động đến kho dự trữ
cholesterol ở gan để tạo ra những acid mật mới dẫn đến hạ độ cholesterol.
Nên ăn nhiều rau xanh, trái cây  300g/ngày.
1.8.1.3. Chất béo.
Không nên ăn nhiều mỡ bão hòa: mỡ động vật, phủ tạng động vật,
trứng, bơ, phomat, dầu dừa, dầu cọ. Nên ăn chất béo không bão hòa có nguồn
gốc thực vật, các loại dầu thực vật, dầu cá và một số hạt có chất béo như: hạt
mè, hạt hướng dương, hạt hạnh nhân. Acid béo omega-3 trong cá và các loại


- 17 -

hạt có tác dụng làm hạ cholesterol xấu (LDL), tăng lượng cholesterol tốt
(HDL) và giảm nguy cơ máu đông.
1.8.1.4. Hạn chế các chất kích thích, tăng an thần lợi tiểu.
- Rượu, bia: với ai uống rượu: sử dụng ở mức độ vừa phải. Nam giới:
uống < 04 đơn vị uống chuẩn/ngày, nữ giới: uống < 02 đơn vị uống
chuẩn/ngày. Một tuần nên có 2 ngày không uống rượu.
- Cách tính một đơn vị uống chuẩn ở các loại đồ uống có rượu.
+ Bia 6%- 12%

285ml


+ Rượu vang 15%-17%

120ml

+ Rượu ngọt 20% - 25%

60ml

+ Rượu mạnh 40% - 45%

30ml

- Các chất kích thích khác: không hút thuốc lá, thuốc lào, không uống
café, nước chè đặc… Nên ăn đồ ăn, thức uống an thần, lợi tiểu: chè sen vông,
chè hoa hòe, nước ngô luộc, nước rau luộc, nước râu ngô…
1.8.2 Tăng cường hoạt động thể lực.
Bên cạnh chế độ ăn uống hợp lý thì chế độ tập luyện khoa học cũng là
biện pháp hữu hiệu hàng đầu để đẩy lùi biến chứng bệnh THA. Vận động để
duy trì HA ở mức ổn định đó là nguyên tắc vàng đối với bệnh nhân THA và
những người không muốn mắc bệnh này.
Ngoài sự vận động căng thẳng kéo dài dễ làm tổn thương một số cơ
quan trong cơ thể thì những vận động nhẹ nhàng có thể hạn chế được tiên
lượng trên, kích thích sản sinh các chất bổ trợ miễn dịch, tăng cường sức đề
kháng, nó cũng giúp người tập phấn chấn, sảng khoái, vui tươi đẩy lùi stress.
Thể dục không chạy cũng thuộc dạng vận động này, nó không chỉ thích hợp
cho người cao tuổi mà còn tốt cho những người sức yếu, mắc các bệnh tim
mạch. Nhưng thời gian tập luyện mỗi lần kéo dài 20- 30 phút/buổi và 3-4 buổi



- 18 -

/tuần, thời gian tập luyện phải qua 2-3 tháng thì huyết áp mới bắt đầu hạ
xuống [21].
1.9. Tình hình nghiên cứu kiến thức và thực hành THA trên TG và VN
1.9.1. Nghiên cứu về bệnh THA trên Thế giới
Bệnh THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở mức
cao, đặc biệt các nước phát triển. Tại các nước phát triển có hình thái bệnh tật
chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh không nhiễm
trùng là chính, trong đó có bệnh THA. Điều tra tại Hoa Kỳ năm 1999 - 2000
trên đối tượng là người trưởng thành cho thấy tỷ lệ HA bình thường là 39%,
31% thuộc nhóm tiền THA và 29% là THA [61]. Tỷ lệ hiện mắc hiệu chỉnh
theo tuổi ở nam là 39% so với nữ 23,1%. Nhưng tỷ lệ THA ở nam chỉ cao hơn
ở nữ lứa tuổi trước tuổi 45. Ở độ tuổi 45 - 54, tỷ lệ THA ở nữ bắt đầu nhỉnh
hơn ở nam giới và ở các độ tuổi lớn hơn tỷ lệ THA ở nữ cao hơn nam [63].
THA được coi là nguyên nhân chủ yếu hoặc góp phần chính trong 11,4% các
ca tử vong ở Mỹ năm 2003. Trong vòng 10 năm (1993 - 2003), tỷ lệ tử vong
do THA tăng 29,3%, số ca tử vong tăng 56,1%. THA giai đoạn II trở lên (HA
> 160/95 mmHg) làm tăng nguy cơ đột quỵ thêm 4 lần so với người có HA
bình thường [70]. THA cũng tăng nguy cơ phát triển suy tim ứ huyết 2 - 3 lần.
Năm 1999 - 2000 có tới 37,5 triệu lượt bệnh nhân phải đi khám vì THA tại
Mỹ. Ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp cho THA năm 2003 đã lên tới 65,3
tỷ USD [57].
Đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới về bệnh THA
ở người trưởng thành: tại Canada (1995) tỷ lệ THA là 22%, Mêhicô (1998)
19,4%; Tây Ban Nha (1996) 30%; Cu Ba (1998) 44%; Trung Quốc (2001)
27%; Thái Lan (2001) 20,5%; Singapore (1998) 26,6%; Châu Phi (2007)
21,3% [72]. Một nghiên cứu ở Brasil, với nhóm tuổi từ 20 đến 69 tuổi có tỷ lệ
THA là 23,6% [69].



- 19 -

Kiểm soát huyết áp có hiệu quả cũng làm giảm tỷ lệ tử vong và biến
chứng của các bệnh tim mạch. Tuy vậy, tỷ lệ kiểm soát tốt huyết áp bằng
thuốc trên thế giới chỉ đạt từ 25 - 40%. Các mô hình như bệnh nhân tự theo
dõi HA, nhân viên y tế theo dõi phải được xây dựng và đánh giá thêm. Giáo
dục truyền thống trực tiếp cho người bệnh hoặc thầy thuốc đơn thuần không
có tác dụng đáng kể trong việc làm giảm số đo HA ở bệnh nhân THA.
Phân tích tổng hợp khác trên các thử nghiệm phòng tiên phát bệnh
mạch vành cho thấy: thay đổi các nguy cơ về lối sống (hút thuốc, chế độ
luyện tập thể lực thường xuyên, chế độ ăn) dù không thay đổi đáng kể tử lệ tử
vong chung và tử vong riêng do bệnh động mạch vành song đã có tác dụng
làm giảm HA tâm thu xuống 3,9 mmHg (95% CI: 3,6 - 4,2); giảm HA tâm
trương xuống 2,9 mmHg (95% CI: 2,7 - 3,1) thêm ngoài tác dụng của thuốc
hạ áp. So sánh việc dùng thuốc tích cực, thay đổi lối sống đơn thuần cũng đã
đạt hiệu quả tương tự 50% khi dùng thuốc. Hơn nữa phân tích này cũng cho
thấy các biện pháp can thiệp yếu tố nguy cơ thông quan tư vấn giáo dục đến
từng cá nhân người THA hay đến từng hộ gia đình có hiệu quả nhiều hơn
trong việc giảm các yếu tố nguy cơ và cũng dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong ở
nhóm bệnh nhân THA có nguy cơ cao.
1.9.2. Nghiên cứu về bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam
Năm 1999, theo điều tra của Phạm Gia Khải và cộng sự, tỷ lệ THA là
16,05% [23]. Năm 2002, theo điều tra của Viện Tim mạch trung ương, tỷ lệ
THA là 23,2% [26]. Tần suất THA và các yếu tố nguy cơ tại các tỉnh miền
Bắc Việt Nam năm 2001 - 2002 (trên 5012 người) cho thấy tần suất THA ở
người trưởng thành là 16,5%; trong đó THA độ 1, độ 2, độ 3 lần lượt là
10,2%; 4,2% và 1,9%. Tỷ lệ được điều trị thuốc hạ áp chỉ chiếm 11,5%, trong
số đó kiểm soát HA tốt (đưa HA về bình thường) chỉ chiếm 19,1% [26]. Tỷ lệ
người dân hiểu biết đúng tất cả các yếu tố nguy cơ chỉ chiếm 23% (18,8%



- 20 -

nông thôn so với 29,5% ở thành thị), trong khi hiểu biết sai về các yếu tố
nguy cơ chiếm hơn 1/3 dân số (44,1% ở nông thôn so với 27,1% ở thành thị)
[48]. Bệnh nhân THA có thái độ đồng tình về các biện pháp dự phòng kiểm
soát huyết áp nhưng vẫn chưa thực sự có kiến thức cũng như thực hành đúng
trong việc phòng ngừa bệnh THA [20]. Các nghiên cứu trong nước đã chỉ ra
kết quả thấy rằng kiến thức và thực hành của người cao tuổi vẫn còn rất hạn
chế [14], [19], [59].
Tình trạng quản lý bệnh nhân THA ở Việt Nam, cho đến nay chưa có
hệ thống quản lý và dự phòng đối với bệnh THA. Các hoạt động y tế mới chỉ
tập trung vào công tác điều trị bệnh nhân tại các bệnh viện, chưa có mô hình
dự phòng, ghi nhận và quản lý bệnh THA tại cộng đồng. Công tác tuyên
truyền bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các hoạt động điều tra dịch tễ,
đào tạo cán bộ cho công tác phòng chống THA tại các cơ sở còn nhiều hạn
chế nên việc nghiên cứu thực trạng bệnh THA và các yếu tố liên quan ở các
địa phương là rất cần thiết cho phòng và chống bệnh THA ở cộng đồng.


- 21 -

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu là những người cao tuổi (≥60 tuổi) tại huyện
Kiến Thụy, Hải Phòng
- Tiêu chuẩn chọn người cao tuổi:

+ Người từ 60 tuổi trở lên, sống từ 5 năm trở lên tại địa phương
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Các đối tượng dưới 60 tuổi.
+ Các đối tượng sống trên địa bàn nghiên cứu dưới 5 năm.
+ Người cao tuổi THA có biến chứng, tai biến mạch máu não thất ngôn,
mắc bệnh tâm thần, không hợp tác, bị bệnh quá nặng không thể phối hợp
tham gia nghiên cứu, không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1/2015 đến tháng 8/2015
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng với số dân toàn
huyện là 137.968 người trong đó người ≥ 60 tuổi là 14.164 chiếm
10,26%.Tổng diện tích tự nhiên 10.751,9 ha.Huyện có 17 xã và 1 thị trấn;
phía Bắc giáp quận Dương Kinh và quận Kiến An, Nam và Tây Nam giáp
huyện Tiên Lãng; Tây giáp huyện An Lão; Đông và Đông Nam giáp quận Đồ
Sơn.


- 22 -

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho ước lượng một tỷ lệ:

n  Z(1-  /2) 
2

p(1 p)

d2

Trong đó:
α: mức ý nghĩa thống kê (tra bảng với α=0,05 có Z (1- α/2)= 1,96.
p: là tỷ lệ THA theo một nghiên cứu trước p= 32,1%. [19]
d: là độ chính xác mong muốn, d = 0,05.
Thay vào công thức trên ta tính được cỡ mẫu tối thiểu trong nghiên cứu
này là 334 NCT. Để tăng độ mạnh của mẫu nghiên cứu, chúng tôi nhân gấp
1,5 lần và tăng thêm 10% cỡ mẫu đã tính thì được cỡ mẫu cần nghiên cứu là
550 NCT.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu.
- Bước 1: Chọn chủ đích 1 Thị trấn Núi Đối và 2 xã bằng phương pháp
bốc thăm ngẫu nhiên chúng tôi chọn được 2 xã Du Lễ và Đại Hà trong 17 xã.
- Bước 2: Theo thống kê của Ban dân số về NCT thị trấn và 2 xã; chúng
tôi tiến hành lập danh sách các khu dân cư và các thôn sau đó bốc thăm ngẫu
nhiên, ở thị trấn 2/4 khu dân cư là khu dân cư Cầu Đen, Thọ Xuân; 3/6 thôn
của xã Du Lễ là Thôn 1, Thôn 3, Quán Bơ và 3/7 thôn của xã Đại Hà là Cao
Bộ, Cao Tiến, Nhân Trai để điều tra.
- Bước 3: Chọn ngẫu nhiên hộ đầu tiên có NCT bằng cách quay cổ
chai, chọn hộ tiếp theo bằng cách cổng liền cho đến khi đủ NCT.
2.2.4. Nội dung nghiên cứu.
- Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu:
+ Giới tính
+ Nhóm tuổi


- 23 -

+ Nghề nghiệp
+ Trình độ học vấn

- Tỷ lệ NCT bị bệnh THA:

+ Theo giới tính.
+ Theo nhóm tuổi.
+ Theo tiền sử nghề nghiệp.
+ Theo tình trạng hôn nhân.
+ Theo trình độ học vấn.
- Yếu tố liên quan đến bệnh THA của NCT:
+ Yếu tố liên quan giữa chỉ số BMI với THA của NCT
+ Yếu tố liên quan giữa chế độ ăn mặn với THA của NCT
+ Yếu tố liên quan giữa hút thuốc lá, thuốc lào với THA của NCT
+ Yếu tố liên quan giữa uống rượu bia với THA của NCT
+ Yếu tố liên quan giữa chế độ tập luyện với THA của NCT.
- Kíến thức của NCT về bệnh THA:
+ Tỷ lệ NCT có kiến thức về bệnh THA.
+ Tỷ lệ NCT biết cách xử trí khi có dấu hiệu cơn THA.
- Thực hành của người cao tuổi về bệnh THA:
+ Tỷ lệ NCT tham gia luyện tập thường xuyên.
+ Tỷ lệ NCT thường xuyên tiêu thụ thực phẩm giàu cholesterol.
+ Tỷ lệ NCT thường xuyên tiêu thụ món ăn có nguy cơ cao cho sức
khỏe.
+ Tỷ lệ NCT đã giảm tiêu thụ món ăn có nguy cơ cao cho sức khỏe khi
bị THA.
+ Tỷ lệ NCT có đi khám bệnh để được chăm sóc y tế.
+ Tỷ lệ NCT được kiểm tra huyết áp.
+ Tỷ lệ NCT bị THA áp dụng thời gian điều trị.


- 24 -


+ Tỷ lệ NCT biết cách dự phòng tai biến của THA.
2.2.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp và thừa cân, béo phì.
- Chẩn đoán THA theo JNC VII (2003).
Phân độ THA
HA tâm thu
(mmHg)
HA bình thường
< 120

Tiền THA
120- 139

Tăng HA gđ I
140- 159
và/hoặc
Tăng HA gđ II
> 160
và/hoặc

HA tâm trương
(mmHg)
<80
80- 89
90-99
> 100

Chẩn đoán thừa cân béo phì theo WHO áp dụng cho khu vực Châu Á
Thái Bình Dương năm 2000. Dựa trên chỉ số BMI.
BMI = Trọng lượng cơ thể (kg)/ (chiều cao)2 m
Xếp loại

- Gầy
- Bình thường
- Thừa cân
- Béo phì độ 1
- Béo phì độ 2
- Béo phì độ 3
2.2.6. Kỹ thuật và phương pháp thu thập thông tin.

BMI (Kg/m2)
< 18,5
18,5 - 22,9
≥ 23 - 24,9
25 - 29,9
30 - 34,9
≥ 35

- Phần phỏng vấn:
+ Phỏng vấn trực tiếp thu thập thông tin của các đối tượng nghiên cứu
để tìm các yếu tố liên quan đến bệnh THA tuổi, tiền sử gia đình, chế độ ăn
uống, thói quen sinh hoạt: hút thuốc lá, uống rượu, ăn mặn, hoạt động thể
lực...
+ Phỏng vấn kiến thức và thực hành của NCT nơi nghiên cứu.
+ Công cụ: Bộ câu hỏi dùng để phỏng vấn.


- 25 -

- Khám lâm sàng:
Tiến hành khám lâm sàng cho toàn bộ NCT bởi các bác sĩ, từ đó xác
định bệnh tật của NCT qua các chỉ tiêu lâm sàng. Các bác sĩ đều được tập

huấn thống nhất các kỹ thuật áp dụng trong nhóm nghiên cứu.
* Đo huyết áp:
- Dụng cụ đo: Máy đo huyết áp là máy đo huyết áp kế thủy ngân LPK2
sản xuất tại Nhật Bản sai số cho phép ± 5mmHg.
- Các điều kiện khi đo HA: Thực hiện thống nhất trong nhóm nghiên
cứu kỹ thuật đo HA động mạch cánh tay, lấy tay trái làm chuẩn ở tư thế nằm
ngửa. Đối tượng đến khám được ngồi nghỉ ngơi tại phòng khám ít nhất 15
phút, không hoạt động mạnh, không dùng chất kích thích như: rượu, cà phê,
thuốc lá trước đó 1 giờ. Bề rộng bao đo nên bằng 80% chu vi cánh tay.
- Tiến hành đo: đối tượng được nằm thoải mái trên giường, đặt máy đo
HA ngang mức của tim. HA tâm thu tương ứng với pha I của Korotkoff ( xuất
hiện tiếng đập đầu tiên) và HA tâm trương là ở pha V (mất tiếng đập). Đo HA
2 lần trong mỗi lần khám, cách nhau 2 phút, lấy trung bình cộng của 2 lần đo.
Nếu thấy kết quả của 2 lần đo cách nhau > 5mmHg thì đo thêm lần thứ 3 rồi
lấy kết quả trung bình. Nếu có THA thì đối tượng được đo lại 2-3 lần trong
ngày tiếp theo.
Đầu tiên nên đo HA ở cả 2 tay, nếu HA chênh lệch thì lấy chỉ số HA ở
tay có số đo HA cao hơn.
* Đo các chỉ số nhân trắc:
Đo cân nặng, chiều cao theo kỹ thuật thường quy trong nhân trắc học.
Từ cân nặng chiều cao tính ra chỉ số BMI. Các kỹ thuật cân đo cụ thể được
mô tả như sau:
- Đo, cân nặng:


×