Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

luận văn công tác xây dựng đảng của đảng cộng sản việt nam (1975 1986)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.8 KB, 75 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ
thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Có được những thành quả đó là do trong
suốt quá trình hình thành, trưởng thành, phát triển, trong mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể, Đảng luôn luôn coi trọng nguyên tắc “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt”.
Điều đó thể hiện sự kiên định của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Đồng thời đã được thực tiễn
cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt từ năm
1975, bên cạnh những thuận lợi lớn, đất nước còn phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn như: Hậu quả nặng nề của 21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước,
của hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam Tổ quốc, bên
cạnh đó là sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch…, mặt khác tình hình
thế giới cũng đang có những diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh đó, Đảng ta
đã lãnh đạo nhân dân tiếp tục tiến hành nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc và từ năm 1986 là tiến hành công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thành tựu mà nhân
dân đạt được trong giai đoạn 1975 - 1986 được ghi nhận là “to lớn và có ý
nghĩa lịch sử”.
Tuy nhiên trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, Đảng cũng
không tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Hạn chế đó đã được Đại hội VI
(tháng 12/1986) chỉ ra: “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về
nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá
độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá”1. “Trong công tác tổ chức thì trì trệ,
chậm đổi mới công tác cán bộ” 2. “Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc
mang nặng chủ nghĩa quan liêu”3… Đó chính là những bài học kinh nghiệm


quý báu cho công tác xây dựng Đảng giai đoạn tiếp theo.
1

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.709
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.709
3
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.709
2

1


Cách mạng nước ta hiện đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ to
lớn. Chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực tiễn đó đặt ra hàng loạt vấn đề mới mẻ, khó khăn, đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân phải có quyết tâm cao độ. Đặc biệt Đảng phải có bản lĩnh
chính trị, trình độ, trí tuệ, phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong
giai đoạn mới. Không chỉ vậy, những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của
tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu
đã tác động mạnh vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên, cùng những âm mưu
thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch đòi hỏi Đảng phải không ngừng
chăm lo, xây dựng, tăng cường tình đoàn kết thống nhất.
Chính xuất phát từ tình hình đó, công tác xây dựng Đảng có một nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế
độ ta. Vì vậy việc nghiên cứu công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1975-1986), rút ra bài học kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn là việc
làm hết sức cần thiết.
Chính vì những lí do trên mà người thực hiện đề tài “Công tác xây
dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam (1975-1986)” chọn làm khóa luận
tốt nghiệp đại học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc được
rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng, đồng thời cũng là
lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều nước trên
thế. Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có khá nhiều cuốn sách cũng như
công trình nghiên cứu về vấn đề này và cũng đã đạt được một số kết quả nhất
định, có thể thống kê một số công trình tiêu biểu như sau:
- GS.TS Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một số
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Nội dung
cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề phong phú về lí luận và thực tiễn từ tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; hiểu thế nào về bản chất của Đảng;
vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước; tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền; xây dựng Đảng cầm quyền; từ thực tiễn đổi mới ở
Việt Nam; một số bài học về xây dựng Đảng trong những năm đổi mới;
Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện
nay; Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?… Từ đó đúc kết những bài học,
kết luận quan trọng về công tác xây dựng Đảng nhằm xây dựng Đảng trong
2


sạch vững mạnh, lãnh đạo đất nước và nhân dân thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới hiện nay.
- PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Lịch sử công tác xây dựng Đảng 19302011, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Nội dung cuốn sách trình bày có
hệ thống lịch sử công tác xây dựng Đảng từ khi Đảng được thành lập đến nay,
góp phần làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng Đảng, phục vụ
thiết thực nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Giáo trình Xây dựng Đảng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống cơ sở lí
luận về vấn đề xây dựng Đảng, nội dung công tác xây dựng Đảng trên các

mặt: chính trị và tư tưởng, nguyên tắc và cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát, kỉ luật và dân vận của Đảng;
sự lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
thời kì 1975-1995, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Nội dung cuốn
sách đã tổng kết công tác xây dựng Đảng từ năm 1975 đến năm 1995 trên 5
lĩnh vực lớn: chính trị, tư tưởng, tổ chức, đội ngũ cán bộ và phương thức lãnh
đạo. Đồng thời khái quát những bài học và phương hướng chung về xây dựng
Đảng.
Nhìn chung các tác phẩm và các công trình nghiên cứu đã đề cập tới
những góc độ khác nhau của công tác xây dựng Đảng. Đó là nguồn tư liệu
quý giá để có thể tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một công trình khoa học nào, hay một cuốn sách nào nghiên
cứu chuyên sâu và hệ thống dưới góc độ lịch sử Đảng về công tác xây dựng
Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam (1975 - 1986).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo đối với công tác xây dựng Đảng của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1975-1986) dưới góc độ lịch sử Đảng. Qua đó rút
ra một số kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo công tác xây dựng Đảng của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1975-1986)
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề về lí luận và một số vấn đề đặt ra đối với công tác
xây dựng Đảng (1975-1986).

3


Làm rõ chủ trương của Đảng và quá trình thực hiện công tác xây dựng
Đảng trong thời kì hơn mười năm đầu cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội

(1975-1986).
Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm của Đảng đối với công tác lãnh
đạo xây dựng Đảng trong thời kì này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác xây dựng Đảng. Trong đó phương pháp chủ yếu là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời kết hợp hai phương pháp đó.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích,
phương pháp chứng minh, phương pháp so sánh… để góp phần giải quyết có
hiệu quả những vấn đề của đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng đối
với công tác xây dựng Đảng trong thời kì mười năm đầu cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu: Do hạn chế về trình độ và khả năng tiếp cận, đề
tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lí luận và thực tiễn chi phối quá trình
lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn 19751986, đồng thời nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quá trình lãnh đạo của
Đảng đối với công tác xây dựng Đảng trên 5 lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, tổ
chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn này.
6. Đóng góp của khóa luận
Thông qua việc nghiên cứu công tác xây dựng Đảng đã góp phần hệ
thống hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và quá trình thực hiện công tác
xây dựng Đảng giai đoạn 1975-1986. Qua đó làm rõ hơn những căn cứ xác
thực về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng Đảng, đồng thời góp
phần khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng về công tác xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương và 11 tiết.


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
1.1. Tư tưởng cơ bản của C.Mác, F.Ăngghen về chính đảng độc lập
của giai cấp vô sản
Ngay từ đầu và trong suốt quá trình hoạt động đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân, C.Mác và F.Ăngghen đã nêu lên những tư
tưởng cơ bản về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Cùng với thời gian
những tư tưởng này về sau ngày càng được bổ sung, phát triển. Xét tổng quát,
tư tưởng C.Mác và F.Ăngghen về Đảng của giai cấp công nhân gồm những
điểm chủ yếu sau:
1.1.1. Về giai cấp, đấu tranh giai cấp và chính đảng (đảng chính trị)
Trong xã hội tư bản tồn tại hai giai cấp chính: giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản, mâu thuẫn với nhau về lợi ích kinh tế. C.Mác đã nhận thấy:
“Trong tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản,
trái lại, là sản phẩm của nền đại công nghiệp” 1. Khi chủ nghĩa tư bản phát
triển cao, lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế
của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển của
xã hội. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - một văn kiện có
tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản, hai ông đã luận chứng
về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là người sáng lập ra xã hội mới. “Giai cấp tư
sản đã tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư
sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”2.
1.1.2. Đảng Cộng sản ra đời, tồn tại, phát triển là để lãnh đạo giai cấp

công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của họ

1

1. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.554
2. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.557

2

5


C.Mác và F.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội có khả thực hiện bước
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là giai cấp công
nhân. Vì “trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ
có giai cấp vô sản là thực sự cách mạng” 1. Nhưng giai cấp vô sản chỉ có thể
đạt được mục tiêu vĩ đại của mình khi được Đảng Cộng sản trực tiếp lãnh đạo.
F.Ăngghen viết: “Để cho giai cấp vô sản có đủ có đủ sức mạnh và có
thể chiến thắng trong giờ phút quyết định - Mác và tôi đã bảo vệ lập trường
này từ năm 1847, thì nó cần thành lập một Đảng đặc biệt, không giống với bất
kì đảng nào đối lập với chúng và tự nhận thức mình là một Đảng có tính chất
giai cấp”2. C.Mác và F.Ăngghen không chỉ chứng minh tính tất yếu của việc
thành lập đảng mà còn cho thấy cơ sở ra đời của Đảng Cộng sản là sản phẩm
sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Khi chủ
nghĩa xã hội thâm nhập vào phong trào công nhân, khi đó giai cấp công nhân
mới ý thức được rằng họ cần phải tổ chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo
đấu tranh giai cấp đi đến thắng lợi. Theo hai ông, chủ nghĩa xã hội khoa học
là cơ sở tinh thần, cơ sở tư tưởng, còn phong trào công nhân là cơ sở vật chất,
cơ sở cho sự sản sinh ra đảng.
1.1.3. Đảng Cộng sản và những nguyên tắc tổ chức của Đảng

C.Mác và F.Ăngghen đã chứng minh luận điểm cho rằng Đảng cách
mạng của giai cấp công nhân phải có tổ chức chặt chẽ về tư tưởng và tổ chức
của Đảng.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1985 -1986), tác phẩm chung của
C.Mác và F.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, trong thế giới tồn tại khái niệm
“người Cộng sản” có nghĩa là “người trung thành của một đảng cách mạng

1

1. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.618
2. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.470

2

6


nhất định”1. F.Ăngghen nhấn mạnh “không có một đảng chính trị nào có thể
tồn tại được nếu như không có tổ chức”2.
Trong điều lệ của “Đồng minh những người Cộng sản” đã xác định rõ
về cơ cấu tổ chức. Tế bào cơ sở của “Đồng minh” là công xã, có từ 3 đến 30
đảng viên. Các công xã hợp thành các khu, là ban chấp hành và cơ quan tối
cao của “Đồng minh” là đại hội, giữa hai nhiệm kì đại hội là Ban Chấp hành
Trung ương. Đại hội được triệu tập mỗi năm một lần. Phân tích kinh nghiệm
hoạt động của “Đồng minh những người cộng sản”, năm 1885, F.Ăngghen
viết: “Tổ chức của Đồng minh hết sức dân chủ, các ban chấp hành của Đồng
minh được bầu cử ra và có thể thay thế bất cứ lúc nào. Chỉ cần một điều đó
cũng đủ để chặn đứng mọi âm mưu và ý đồ thiết lập quyền cá nhân trong
Đồng minh”3.
Qua các văn kiện của “Đồng minh những người Cộng sản” cũng như

của quốc tế thứ nhất (1864-1872) và hoạt động thực tiễn đã chứng minh rằng,
cơ sở để xây dựng tổ chức là nguyên tắc tập trung dân chủ, mặc dù lúc đó
chưa có thuật ngữ này. Tất cả các thành viên đều tham gia bầu cử và bầu cơ
quan lãnh đạo, tham gia vào việc dự thảo và thông qua Cương lĩnh, Điều lệ.
Chế độ tập trung được thực hiện chặt chẽ, các cơ quan cấp dưới phải phục
tùng các cơ quan cấp trên, thiểu số phải phục tùng đa số. Việc phát huy dân
chủ được thực hiện gắn liền với việc tôn trọng kỉ luật Đảng, là kỉ luật bắt buộc
với mọi đảng viên.
C.Mác và F.Ăngghen không ngừng đấu tranh để củng cố sự thống nhất
các đội ngũ của các tổ chức vô sản về tư tưởng và tổ chức, kiên quyết chống
lại bọn cơ hội, xét lại, chống lại những người vi phạm kỉ luật của Đảng. Trong
một bức thư của mình, C.Mác nhấn mạnh: “Ngày nay chúng ta nhất thiết phải
duy trì kỉ luật Đảng, nếu không mọi thứ sẽ mất hết”4. F.Ăngghen cũng phát
triển tư tưởng đó. Trong lời tựa cho tác phẩm “Chiến tranh nông dân ở Đức”,
Ăngghen đã vạch ra sự cần thiết phải “đoàn kết chặt chẽ hơn nữa tổ chức
1

1. C.Mác-F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1995, t.3, tr.41
2. C.Mác-F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1993, t.8, tr.416
3
3. C.Mác-F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1995, t.21, tr.224
4
4. C.Mác-F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Matxcova, 1995, t.29, tr.350
2

7


đảng và tổ chức các công đoàn”1. Đồng thời, C.Mác và F.Ăngghen đã khẳng
định, củng cố hàng ngũ Đảng, loại ra khỏi Đảng những phần tử thù địch và cơ

hội chủ nghĩa là điều kiện cần thiết để phát triển Đảng. F.Ăngghen viết
“Phong trào vô sản nhất thiết phải trải qua các bước phát triển khác nhau,
mỗi bước phát triển đó đều có một số người dừng lại, họ không đi xa được
nữa”2. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là phải loại trừ những
con người đó và bổ sung vào đội ngũ của mình trước hết là những công nhân
tiên tiến. Hai ông đã đấu tranh không khoan nhượng chống những quan điểm
biệt phái của Baculin và cuối cùng theo đề nghị của C.Mác và F.Ăngghen,
Đại hội của Quốc tế cộng sản I họp ở La Hay 1872, đã nhất trí khai trừ
Baculin ra khỏi Hội liên hiệp công nhân Quốc tế vì hoạt động riêng rẽ.
Để có thể làm được như vậy, hai ông đặc biệt coi trọng việc tự phê bình
và phê bình trong Đảng, vì nó là phương pháp phát hiện và sửa chữa thiếu sót;
là điều kiện quan trọng phát triển sinh hoạt nội bộ Đảng và hoạt động có hiệu
quả của Đảng; là phương tiện để để viên tích cực những người cộng sản; là
điều kiện đảm bảo sức mạnh bên trong và năng lực chiến đấu của Đảng.
1.1.4. Những tư tưởng về Đảng Cộng sản cầm quyền
1.1.4.1. C.Mác và F.Ăngghen đã nêu lên những thuộc tính cơ bản của
Đảng Cộng sản:
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã nêu lên bản chất
cách mạng và khoa học của Đảng: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản
là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác, về mặt lí luận, họ hơn bộ phận còn lại
của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản”3. Họ khác với các đảng vô sản khác ở hai điểm:
“Trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau,
họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và
chung cho toàn thể giai cấp vô sản. Và trong các giai đoạn khác nhau của

1

1. C.Mác-F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Matxcova, 1995, t.18, tr.499

2. C.Mác -F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Chính trị, Matxcova, 1995, t.33, tr.496
3
3. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.558
2

8


cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản, họ luôn đại biểu cho lợi ích
của toàn bộ phong trào”1.
1.1.4.2. C.Mác và F.Ăngghen khẳng định bản chất Đảng của giai cấp
công nhân “là một tổ chức chiến đấu của những người cách mạng”.
F.Ăngghen nhấn mạnh: “Đảng công nhân được thành lập không phải để
thành cái đuôi của bất cứ một đảng tư sản nào, mà phải thành một đảng độc
lập, có mục đích riêng và chính trị riêng của mình”2. Luận chứng về mục đích
đấu tranh của giai cấp công nhân và Đảng của nó, Điều 1 trong “Điều lệ Đồng
minh những người Cộng sản” ghi rõ: “Mục đích của liên đoàn là lật đổ giai
cấp tư sản, lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội tư sản cũ
dựa trên sự đối kháng giai cấp và xây dựng một xã hội mới không có giai cấp
và không có chế độ tư hữu”3. Hai ông đòi hỏi Đảng phải xem xét chặt chẽ
thành phần xuất thân của đội ngũ mình, thanh lọc một cách nghiêm khắc
những kẻ phản bội và những phần tử thù địch khác.
1.1.4.3. C.Mác và F.Ăngghen cho rằng: Đảng chỉ có thể trở thành chân
chính và cách mạng, khi phong trào cách mạng của quần chúng và lực lượng
cách mạng của phong trào ấy phát triển mạnh mẽ.
Năm 1895, khi viết lời tựa cho cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp,
F.Ăngghen đã viện dẫn những số liệu minh chứng cho sự tín nhiệm của quần
chúng đối với Đảng thông qua lá phiếu tín nhiệm. Đó là những con số không
thể chối cãi được về sự lớn mạnh nhanh chóng của Đảng. Đây là bài học cho
các Đảng về sức mạnh của quần chúng và phong trào cách mạng của họ.

1.1.4.3. C.Mác và F.Ăngghen nhấn mạnh: Đảng lãnh đạo dựa trên cơ
sở khoa học và quyết định tập thể. Cơ sở khoa học ở chỗ: nó dựa trên những
quy luật phát triển khách quan của xã hội. Cấn đấu tranh chống khuynh hướng
cơ hội, nghiêm túc học tập khoa học cách mạng và dựa vào khoa học đó mà
làm công tác thực tiễn. Quyết định tập thể là trên cơ sở mở rộng dân chủ, cần
tôn trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến của các thành viên để xây dựng chủ
trương, nhiệm vụ và cuối cùng là biểu quyết theo đa số.
1

1. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.1, tr.557
2. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.4, tr.134
3
3. C.Mác - F.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H, 1962, t.4, tr.493
2

9


1.1.4.4. C.Mác và F.Ăngghen coi chủ nghĩa quốc tế vô sản là nguyên
tắc quan trọng nhất trong xây dựng Đảng. C.Mác nhấn mạnh: Chỉ có sự liên
minh quốc tế của giai cấp vô sản mới có thể đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng
của giai cấp ấy. Khẩu hiệu được ông đưa ra trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản
là “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Trên đây là những tư tưởng thiên tài của C.Mác và F.Ăngghen về đảng
của giai cấp công nhân. Những tư tưởng này ngày càng được hoàn thiện và có
ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ sự phát triển sau này của toàn bộ phong trào
cộng sản của công nhân quốc tế.
1.2. V.I. Lênin kế thừa, phát triển những tư tưởng cơ bản của
C.Mác và F.Ăngghen về Đảng Cộng sản, đưa ra những nguyên lí đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân

1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Lênin đã
nói một cách hình ảnh rằng chủ nghĩa đế quốc là “chủ nghĩa tư bản giãy
chết”, chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa đế quốc làm cho các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản phát
triển đến tuột cùng. Trong các mâu thuẫn đó nổi lên 3 mâu thuẫn cơ bản sau:
Thứ nhất, là mâu thuẫn giữa lao động và tư bản.
Thứ hai, là mâu thuẫn giữa các nhóm tài chính và các cường quốc đế
quốc chủ nghĩa đang đấu tranh với nhau để giành các nguồn nguyên liệu và
giành lãnh thổ với các nước khác.
Thứ ba, là mẫu thuẫn giữa các nước “văn minh” thống trị với hàng trăm
triệu người thuộc các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới.
Đó là những kết quả không thể tránh khỏi của những chính sách bóc lột
trơ tráo nhất và áp bức vô nhân đạo nhất của chủ nghĩa đế quốc đối với các
nước thuộc địa. Bằng chứng là phong trào cách mạng trong tất cả các nước
thuộc địa và phụ thuộc đều tăng cường thêm. Tình trạng đó sở dĩ quan trọng
với giai cấp vô sản vì: nó phá hoại tận gốc các vị trí của chủ nghĩa tư bản.

10


Biến các nước thuộc địa và phụ thuộc từ chỗ là lực lượng hậu bị của chủ
nghĩa đế quốc thành lực lượng hậu bị của cách mạng vô sản.
Thời kì mới, đặt giai cấp vô sản trước nhiệm vụ mới: tổ chức lại toàn
bộ công tác đảng theo phương thức mới, cách mạng. Trong khi đó chủ nghĩa
cơ hội ngày càng lớn mạnh lên trong nội bộ Quốc tế II, những người lãnh đạo
trong các Đảng xã hội - dân chủ thuộc quốc tế này đã tỏ rõ thái độ - chống lại
lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại chính sách và hành động cách
mạng của giai cấp công nhân. Đây là hoàn cảnh quốc tế đã làm nảy sinh học

thuyết về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Lúc này, nước Nga là nơi tập trung tất cả những mâu thuẫn cơ bản của
chủ nghĩa đế quốc. Nước Nga, hơn nước nào hết, đã sục sôi cách mạng, vì
thế, chỉ có nước Nga, mới có thể giải quyết được các mâu thuẫn ấy bằng con
đường cách mạng. Nước Nga Sa hoàng trước kia là lực lượng hậu bị hùng
mạnh của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, vì vậy muốn đánh đổ chế độ Nga
hoàng tất phải đụng đến chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, cách mạng chống chế
độ Nga hoàng phải gắn liền với cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, phải
chuyển cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc thành cách mạng vô sản. Thực
hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, giai cấp vô sản Nga cần thiết phải có một
đảng mới, một đảng chiến đấu, cách mạng. Một đảng đủ kinh nghiệm để có
thể tự chủ trong những điều kiện phức tạp của một hoàn cảnh cách mạng và
đủ mềm dẻo để lựa chiều tránh đủ mọi thứ trở ngại trên con đường dẫn đến
đích đến. Đảng mới ấy là đảng của chủ nghĩa Lênin. Nó khác hẳn về chất so
với đảng kiểu cũ thuộc Quốc tế II. Cùng với hoạt động tích cực của Lênin, sau
khi đuổi bọn Mensêvich ra khỏi Đảng, từ một nhóm chính trị, những người
Bônsêvich chính thức thành lập một Đảng độc lập, Đảng công nhân dân chủ xã hội - một đảng kiểu mới (Bônsêvich).
1.2.2. Những nguyên lí đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng
11


Lênin khẳng định: Cơ sở tư tưởng của Đảng là học thuyết Mác (ngày
nay được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin). Khi nói về bản chất của một Đảng
kiểu mới, Lênin chỉ ra rằng: “Chúng ta phải tự gọi mình là Đảng cộng sản
như Mác - Ăngghen đã tự gọi mình như vậy, chúng ta cần nhắc lại rằng
chúng ta là những người mácxít và cơ sở của chúng ta là Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”1. Chủ nghĩa Mác với tư cách là hệ thống lí luận khoa học về
cách mạng, không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường và những phương

tiện cải tạo thế giới bằng cách mạng. Như vậy, chủ nghĩa Mác đã đem lại cho
loài người đặc biệt là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức và cải tạo
thế giới. Do vậy, chủ nghĩa Mác là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là vũ khí
lí luận sắc bén, phản ánh bản chất cách mạng của giai cấp vô sản. Tầm quan
trọng của vấn đề này đã được Lênin chỉ rõ: “Chỉ có đảng nào được một lí
luận tiên phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò của người
chiến sĩ tiền phong”2 và rằng “Không có lí luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng”3, lí luận một khi thâm nhập vào quần chúng sẽ trở
thành sức mạnh vật chất to lớn. Vì vậy, chủ nghĩa Mác là cơ sở tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Thứ hai, Đảng là đội tiên phong, có tổ chức và là hình thức tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân. Đảng tiên phong trên 3 phương diện.
Một là: Tiên phong trên phương diện lí luận
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Ăngghen là cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Nhờ có lí luận cách mạng và khoa học, Đảng mới
có cơ sở để xác định nhiệm vụ chính trị cho từng thời kì, định ra đường lối,
chủ trương, chính sách đúng, nâng cao được trình độ trí tuệ, có khả năng nhìn
xa trông rộng, có thể phân tích, đánh giá đúng tình hình và đưa ra dự báo
chính xác, từ đó nhận thức được quy luật khách quan của xã hội để tránh sai
lầm trong xây dựng đường lối, chính sách. Để có thể hoàn thành vai trò của
người chiến sĩ tiền phong, đòi hỏi Đảng phải trung thành và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể mỗi nước.
1

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.6, tr.31
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.6, tr.32
3
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.6, tr.30
2


12


Hai là: Tiên phong trên phương diện tổ chức.
Để có thể hoàn thành vai trò của người chiến sĩ tiền phong Đảng phải
được tổ chức chặt chẽ, chỉ có như vậy mới đảm bảo được sự thống nhất về ý
chí và hành động của toàn Đảng. Trong cuốn “Một bước tiến, hai bước lùi”
Lênin viết: “Tôi muốn trình bày một cách tuyệt đối rõ ràng và chính xác rằng
tôi muốn và tôi đòi hỏi Đảng, đội tiên phong của giai cấp, phải hết sức có tổ
chức”1. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền giai cấp vô sản không có một
thứ vũ khí nào khác là tổ chức.
Ba là: Tiên phong trên phương diện hành động
Yêu cầu này đòi hỏi cán bộ, đảng viên của Đảng phải gương mẫu đi
đầu trong cuộc đấu tranh chống mọi tập tục lạc hậu, những thói quen xấu
đang cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Lênin khẳng định: Tính Đảng không chỉ thể hiện trên lời nói mà còn
thể hiện ở việc làm. Đảng là hình thức tổ chức giai cấp cao nhất của giai cấp
công nhân. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng phải mở rộng ra tất cả những hình
thức tổ chức khác của giai cấp vô sản vì Đảng không phải là tổ chức duy nhất
của giai cấp vô sản. Ngoài Đảng ra còn có: công đoàn, hợp tác xã, phụ nữ,
thanh niên… Trong cuộc đấu tranh giai cấp ở các thời kì khác nhau, tất cả
những tổ chức ấy đều tuyệt đối cần thiết cho giai cấp vô sản, vì không có
những tổ chức ấy thì không thể củng cố được các trận địa giai cấp của giai
cấp vô sản trong các lĩnh vực khác nhau.
Thứ ba, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng
Nguyên tắc đó kết hợp chặt chẽ một cách hữu cơ giữa tập trung và dân
chủ, là thuộc tính vốn có của Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Không
thể tưởng tượng được một Đảng cách mạng chân chính, một Đảng mácxit lại
không có tập trung. Lênin đã chỉ rõ rằng trong Đảng chỉ có một kỷ luật bắt
buộc như nhau đối với tất cả mọi người, từ đảng viên thường cho đến cán bộ

lãnh đạo. Cũng không thể có một Đảng mácxit mà lại không có dân chủ trong
1

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, t. 8, tr.47 - 48

13


Đảng. Nếu không có dân chủ, Đảng có nguy cơ thoái hóa thành một tổ chức
quan liêu, kỉ luật trong Đảng sẽ được phục tùng mù quáng, do đó không thể
bền vững được. Chỉ có thể kết hợp đúng đắn giữa tập trung và dân chủ mới
đảm bảo được khả năng chiến đấu của Đảng, Đảng mới thực hành được vai
trò của mình là lãnh tụ chính trị của quần chúng.
Lênin còn đề cập đến những tiêu chuẩn sinh hoạt và nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng: Một là, những tiêu chuẩn sinh hoạt đó là quy tắc điều hòa sinh
hoạt nội bộ Đảng, xác định hình thức tổ chức đảng, các phương pháp công tác
và tư cách đảng viên. Nhờ những tiêu chuẩn của Lênin, mà Đảng điều chỉnh
các mặt quan trọng nhất trong đời sống và hoạt động của mình.
Hai là, là những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng: Lãnh đạo tập thể, có
quan điểm giai cấp đối với các hiện tượng xã hội, có căn cứ khoa học đối với
quyết định, đấu tranh không điều hòa với chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa
duy ý chí, sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, giữa công tác chính trị và
công tác tổ chức, kết hợp tính kế thừa với việc đề ra và giải quyết một cách
sáng tạo những vấn đề do cuộc sống và thực tiễn phát triển của xã hội đặt ra.
Phương pháp lãnh đạo chủ yếu của Đảng là thuyết phục, là sự tác động
về tư tưởng, chính trị và tổ chức, kiên quyết bác bỏ các đòi hỏi của các phần
tử Tờrốtkít âm mưu đòi Đảng áp dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính
đối với các Xô viết. Đồng thời, Đảng kiên quyết bác bỏ đòi hỏi của nhóm
“công nhân đối lập”, chủ trương Đảng “không được can thiệp vào hoạt động
của các tổ chức đó.

Thứ tư, Đảng là khối thống nhất ý chí và hành động, phê bình và tự phê
bình là quy luật phát triển của Đảng
Lênin nói: “Sự thống nhất của giai cấp vô sản dân chủ xã hội, đó là
điều kiện cần thiết cho thắng lợi của nó. Sự thống nhất của giai cấp vô sản
dân chủ không thể có được nếu không có sự thống nhất của đảng của nó là
Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga”1. Đoàn kết thống nhất là quy luật
trưởng thành của Đảng Cộng sản, là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận, là
điều kiện đảm bảo cho sự đoàn kết toàn bộ giai cấp vô sản. Sự thống nhất đó
1

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.22, tr.314 - 315

14


trước hết phải là sự thống nhất về tư tưởng, trên cơ sở hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân, nhưng cần được củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức, thống
nhất về hành động và kỉ luật nghiêm minh, bắt buộc với mọi đảng viên, không
ngoại lệ. Nếu để xảy ra chia rẽ “không phải là nguy hiểm mà còn cực kì nguy
hiểm”.
Để sự thống nhất luôn được củng cố, Đảng phải thường xuyên tự phê
bình và phê bình. Lênin chỉ rõ: “Thái độ của một chính đảng trước những sai
lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng và chắc chắn nhất
để xét xem đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ đối
với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa
nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm,
nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy - đó là dấu hiệu
chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn nghĩa vụ của mình, đó là
giáo dục và huấn luyện giai cấp rồi đến quần chúng”1.
Thứ năm, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên chính vô sản

Theo quan điểm của Lênin, không có sự lãnh đạo của Đảng thì không
thể có chuyên chính vô sản.
Chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân, tức là Đảng Cộng sản, mới
có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội quân tiên phong của giai cấp vô sản, và
của tất cả quần chúng lao động, lãnh đạo giai cấp đó về mặt chính trị và thông
qua giai cấp đó, mà lãnh đạo tất cả quần chúng lao động. Nếu không thể, thì
không thể thực hiện chuyên chính vô sản được.
Thứ sáu, Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu
tranh ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
Lênin nhấn mạnh: “Những người cộng sản chỉ như giọt nước trong đại
dương nhân dân mênh mông. Chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì
không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo, tính sinh
động của quần chúng là nhân tố cơ bản của xã hội mới… Chủ nghĩa xã hội
sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”2. Đảng
sinh ra từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng lao động khỏi áp
1

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.41, tr.51
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1976, t.35, tr.24

2

15


bức bóc lột. Quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong
cuộc đấu tranh ấy. Đảng cần có sự ủng hộ của quần chúng thì đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng mới trở thành hiện thực, đặc biệt là khi trở thành
Đảng cầm quyền.
Tuy nhiên khi trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp phát triển

kinh tế - xã hội, đảng viên có chức có quyền dễ nảy sinh bệnh quan liêu,
mệnh lệnh và xa rời quần chúng. Đây là một trong hai nguy cơ lớn cần phải
đề phòng.
Thứ bảy, Đảng tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động vào Đảng, đồng thời thường xuyên đưa những
người không đủ tư cách đảng viên và phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Lênin rất quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ trí thức mới từ công nhân
và nông dân. Người tin tưởng sâu sắc vào năng lực cách mạng của quần
chúng, nhắc nhở toàn dân phải chăm lo phát hiện những nhân tài trong quần
chúng, phải có nhiệt tình ân cần chăm sóc, bồi dưỡng họ. Đồng thời, Lênin
cũng chỉ rõ Đảng phải biết sử dụng và cải tạo những chuyên gia, những trí
thức do chế độ cũ đào tạo.Từ thực tiễn của Đảng Bônsêvich Nga sau những
năm có chính quyền, Lênin nhấn mạnh rằng: “Phải đuổi ra khỏi Đảng những
kẻ gian xảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực,
nhu nhược…”1.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản quốc tế đã chỉ ra: Khi đội
ngũ Đảng có nhiều đảng viên không còn giữ được vai trò tiên phong và có
nhiều phần tử cơ hội, lúc gặp biến cố lịch sử - Đảng khó giữ được vai trò lãnh
đạo của mình.
Như vậy, chất lượng chứ không phải số lượng đảng viên là yếu tố cơ
bản quyết định sức mạnh của Đảng.
Thứ tám, Tính chất quốc tế của Đảng Cộng sản
Đây là nguyên lí phản ánh bản chất giai cấp vô sản của Đảng Cộng sản,
Đảng phải luôn tự coi mình là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế,
Đảng phải tổ chức và hoạt động theo những nguyên lí về Đảng kiểu mới của
1

2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1975, t.44, tr.154

16



giai cấp công nhân, Đảng có trách nhiệm làm tròn nghĩa vụ quốc tế của
mình.Tính chất này dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và được thể hiện
trong toàn bộ đường lối, chiến lược, sách lược đối nội, đối ngoại của Đảng, là
điều kiện tiên quyết đảm bảo cho Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ mới
xã hội chủ nghĩa.
1.3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, xây dựng và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết đến vấn đề xây dựng Đảng. Người coi
đó là nhiệm vụ then chốt để đưa sự nghiệp của dân tộc đi đến thắng lợi. Trong
tác phẩm “Thường thức chính trị” Hồ Chí Minh viết: “Xây dựng Đảng, có ba
mặt: tư tưởng, chính trị và tổ chức”.1
1.3.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng - lí luận
* Tầm quan trọng của xây dựng Đảng về tư tưởng - lí luận
Theo Hồ Chí Minh: “Cần nhất trí về tư tưởng, về hành động, về tình
cảm” thì mới nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân,
tăng cường đoàn kết nhất trí. “Đoàn kết nhất trí là sức mạnh, là then chốt của
thành công”. Ở Người, xây dựng Đảng về tư tưởng là nhằm nâng cao trình độ
tư tưởng về chính trị của cán bộ, đảng viên, tẩy bỏ tư tưởng phi vô sản, thống
nhất về tư tưởng, thống nhất hành động, đoàn kết toàn Đảng để làm tròn
nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang của mình. Xây dựng Đảng về tư tưởng không
phải là phát động những cuộc chiến tư tưởng để quy kết lẫn nhau, làm cho
Đảng ta bị chia rẽ, suy yếu.
* Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng:
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học tập lí luận Mác - Lênin, kinh nghiệm cách
mạng các nước, học nghị quyết của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, quét

sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh
viết: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
1

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, t.7, tr.239

17


không có bản chỉ nam”1. Ngày nay, “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là
“trí khôn” của Đảng, là “kim chỉ nam” chỉ ra phương hướng và phương pháp
cách mạng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng cần học lí
luận Mác - Lênin.
Cách học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là: học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lí
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta. Học để mà làm. Lí luận đi đôi với thực tiễn. Học lí luận
Mác - Lênin luôn luôn đi liền với vận dụng một cách sáng tạo, đó là phong
cách Hồ Chí Minh.
Cán bộ, đảng viên và quần chúng phải học nghị quyết, quán triệt nghị
quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Phương pháp học nghị quyết,
theo Hồ Chí Minh: thảo luận các văn kiện Đại hội Đảng là một dịp học tập
tốt. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ cần căn cứ thực tế của mình để nâng cao tư
tưởng, ý thức tổ chức và kỉ luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tiến bộ hơn
nữa.
Nâng cao đạo đức cách mạng, quyét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí
Minh viết: “Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”.
“Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” 2. Hồ Chí Minh

chỉ ra rằng: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” 3. Đạo đức cách mạng theo
Hồ Chí Minh nêu 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Hồ Chí Minh cho rằng 5 điều trên là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó
không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, không phải
vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của toàn Đảng, của dân tộc, của loài
người. Người nhấn mạnh và luôn luôn chú trọng đến việc rèn luyện đạo đức
1

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, t.5, tr.234
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t.5, tr.552
3
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t.9, tr.293
2

18


cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Vì: “cũng như sông có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng
thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”1.
Giáo dục đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là
một nội dung cốt lõi công tác tư tưởng của Đảng.
1.3.2. Xây dựng Đảng về chính trị
Về chính trị, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải khắc cốt rằng:
“Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta
không có lợi ích nào khác. Vì vậy cán bộ, đảng viên phải một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, phải là người đày tớ hết sức trung thành của nhân dân” 2.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị nhằm vào giải quyết các vấn
đề lớn sau:
Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng ở trong mọi tình
huống. Lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn Đảng không bao giờ hy sinh lợi
ích của giai cấp công - nông.
Đối với nhân dân: Đảng phải kính yêu quần chúng, gần gũi quần
chúng, tin tưởng vào lực lượng vĩ đại và đầu óc thông minh của quần chúng,
học hỏi quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng để đoàn kết và lãnh đạo
quần chúng: “Ta có kính nhân dân, yêu nhân dân; dân mới yêu ta, kính ta”
Đối với kẻ địch: Kẻ địch ở bên trong như những tư tưởng sai lầm,
những xu hướng thiên lệch: chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh xa rời quần
chúng… Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ dịch bên trong là bạn đồng
minh của kẻ thù bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ, địch bên trong
đáng sợ hơn vì nó phá hoại từ bên trong phá ra. Kẻ địch bên ngoài là đế quốc,
phong kiến cùng tất cả những kẻ phản cách mạng, thì phải kiên quyết dũng
cảm chống lại, nhất định không được khoan nhượng, tha thứ.
Đối với công việc: Đảng phải thấy trước, lo trước, tính trước. Phải cân
nhắc những điều kiện thuận lợi và khó khăn, để kiên quyết vượt qua mọi khó
khăn, phát triển mọi thuận lợi. Bất kì công việc to việc nhỏ, đều phải rất cẩn
1

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t.5, tr.253
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, t.10, tr.337

2

19


thận, không hấp tấp, rụt rè, thắng không kiêu, bại không nản. Tuyệt đối tránh

chủ quan nông nổi. Đảng phải biết rút kinh nghiệm, biết học hỏi để tiến bộ.
Về xây dựng đường lối chủ trương, chính sách và đề ra khẩu hiệu:
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta căn cứ tình hình trong nước và thế
giới, đề ra khẩu hiệu, mục đích và kế hoạch đấu tranh. Đảng quy định ở giai
đoạn nào thì phải dựa vào lực lượng nào, đoàn kết lực lượng nào, cô lập và
phân hóa lực lượng nào để tiêu diệt kẻ thù của giai cấp, của nhân dân.
Khẩu hiệu chính trị đúng thì toàn dân thấy được phương hướng, nhận
rõ ai là kẻ thù, ai là bạn, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng, để đánh thắng
kẻ thù của cách mạng.
Đối với Đảng không được sai lầm về chính trị.
1.3.3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Hồ Chí Minh đề cập tới 8 vấn đề lớn:
* Giữ vững nguyên tắc xây dựng Đảng. Trong tập hợp tác phẩm của Hồ
Chí Minh nổi bật 3 nguyên tắc xây dựng Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ. Khái niệm “tập trung dân chủ” hay “dân
chủ tập trung” của Hồ Chí Minh cho một nội hàm giống nhau. Nội dung
nguyên tắc tập trung dân chủ, theo Người không đối lập với tập trung. Mặt
đối lập với “dân chủ” là “quân chủ”, là quan liêu, độc tài. Mặt đối lập với “tập
trung” là “phân tán”, “cục bộ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa bảo đảm
quyền chủ động của mọi thành viên trong tổ chức, vừa đảm bảo thống nhất ý
chí và hành động cho sự nghiệp chung.
Nguyên tắc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đoàn kết thống nhất là truyền thống cực kì quý báu, do đó “phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đoàn kết là sức sống của Đảng.
Đoàn kết nhất trí là nguyên tắc công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh
viết: “Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng càng thêm vững chắc, bảo đảm cho sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của chúng ta càng giành được nhiều thắng lợi to lớn
hơn nữa”1. “Cán bộ, đảng viên phải đoàn kết chặt chẽ, đảm bảo dân chủ và kỉ
1


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.375

20


luật trong Đảng. Đảng viên cũ, mới, già, trẻ, gái, trai phải thương yêu nhau,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”1.
Phương pháp xây dựng khối đoàn kết: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải
thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung
quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết”2.
Đoàn kết phải được xây dựng trên một nền tảng tư tưởng chung, một lí tưởng
cách mạng chân chính, một đường lối cách mạng đúng, vì lợi ích chung là
phục vụ nhân dân. Người chính là tấm gương sáng về giữ gìn đoàn kết nhất trí
trong Đảng, là trung tâm của khối đoàn kết trong Đảng và đoàn kết toàn dân.
Nguyên tắc phê bình và tự phê bình
Nguyên tắc này được Người đề cập đến trong hầu hết tác phẩm, bài nói,
bài viết về xây dựng Đảng. Người coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng: “Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta
ngày càng thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển
ưu điểm, tiến bộ không ngừng3”. “Một Đảng mà giấu khuyết điểm của mình là
một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh nảy sinh khuyết
điểm đó rồi đi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một
Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”4. Cách thức phê bình và tự
phê bình “phải thật thà, phải chân thành”, “cởi mở”…
* Về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
“Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều tốt”. Vì vậy
“đối với Đảng ta xây dựng chi bộ tốt, cho vững là một việc vô cùng quan
trọng”. Chất lượng chi bộ do đảng viên quyết định, với tiêu chuẩn chi bộ tốt là

“Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
nội bộ thực sự đoàn kết, chấp hành tốt đường lối chính sách của Đảng, lãnh
đạo sản xuất và chiến đấu tốt, một lòng một dạ phục vụ nhân dân…”. Ngược
1

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.211
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.387
3
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.575
4
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.261
2

21


lại, khi có những đảng viên không gương mẫu, nội bộ không đoàn kết nhất trí
“tệ hơn nữa là trong những chi bộ ấy có một số đảng viên và cán bộ, có cả cán
bộ cao cấp, cán bộ lãnh đạo quan liêu mệnh lệnh rất nặng” sẽ làm cho chi bộ
kém đi. Vì vậy cần ra sức củng cố các chi bộ để chi bộ trở thành hạt nhân lãnh
đạo của Đảng.
* Về vấn đề cán bộ
“Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “công việc thành hay bại là do
cán bộ tốt hay kém”1. Đó là một trong những quan điểm của Người về cán bộ
và vai trò của cán bộ được nêu ra trong phần IV của tác phẩm “Sửa đổi lề lối
làm việc”. Người chỉ rõ tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ là “Những người tỏ ra
trung thành và hăng hái trong công việc, những người liên lạc mật thiết với
dân chúng, những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, những người
luôn giữ đúng kỉ luật”2. Với tầm nhìn xa trông rộng của mình, Người đã dồn
hết sức lực và tâm huyết của mình để xây dựng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu

cầu cách mạng trong mọi chặng đường.
* Vấn đề đảng viên.
Công tác đảng viên là công tác trọng tâm, công việc gốc của Đảng.
“Đảng viên là tế bào cấu thành nên Đảng”, “đảng viên tốt thì chi bộ tốt”, “chi
bộ tốt thì đảng mới mạnh”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947),
Người không chỉ chỉ rõ tư cách và bổn phận của người đảng viên mà còn yêu
cầu “Mỗi cán bộ đảng viên, cần phải có tính đảng mới thực hiện được công
việc. Kém tính đảng thì việc gì cũng không làm nên”. Hay trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”, Người dành hẳn mục 39 nói về tiêu chuẩn đảng
viên, mục 40 nói về nghĩa vụ đảng viên, mục 41 nói về quyền lợi đảng viên.
Đạo đức của người đảng viên: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Vai trò
của đảng viên: “Đảng viên đi trước làng nước theo sau”. Nâng cao đạo đức
cán bộ đảng viên gắn với việc tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, không ngừng bồi
dưỡng, kết nạp quần chúng ưu tú, đồng thời loại bỏ những người không đủ tư
cách ra khỏi đảng.

1

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.270
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.276

2

22


Ngoài ra, tư tưởng của Hồ Chí Minh còn đề cập đến nhiều khía cạnh
khác như: Công tác kiểm tra kỉ luật của Đảng; về cách thức lãnh đạo của
Đảng; công tác đối ngoại của Đảng; công tác dân vận.
Trên đây là những tư tưởng cơ bản của Người về xây dựng Đảng.

Những tư tưởng này đã và đang được Đảng ta vận dụng cụ thể và sáng tạo
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
1.4. Một số vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng Đảng trước năm
1975
Trong bất kì giai đoạn lịch sử nào Đảng ta cũng chú trọng công tác xây
dựng Đảng. Trong giai đoạn trước năm 1975 Đảng ta chú trọng công tác xây
dựng Đảng trên các mặt: Xây dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng - tổ chức,
xây dựng đội ngũ cán bộ, về phương thức lãnh đạo của Đảng.
Một là xây dựng Đảng về chính trị.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã xác định đường lối chiến lược chung
của cách mạng Việt Nam là: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản 1”. Sự lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa như thế là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan và trào lưu
của thời đại, đã trở thành lí tưởng phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta trong
suốt những năm qua.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xây dựng được đường lối
chính trị đúng đắn - một đường lối thể hiện sự kiên định về chiến lược, sự sắc
sảo, mềm dẻo về sách lược, sự phong phú sáng tạo và linh hoạt về phương
pháp cách mạng và chính đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, có nguồn gốc
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng, tại Đại hội III (tháng 9/1960), Đảng đã xác định đường
lối cơ bản về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà
Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (khóa III) tháng 12/1965 đã quyết định
chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm phục
1

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1998, t.2, tr.1


23


vụ cho sự nghiệp chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Khi ấy, chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở miền Bắc là để thể thực
hiện vai trò quyết định của hậu phương lớn đối với tuyền tuyến lớn miền
Nam. Như vậy, trên thực tế đó là thực hiện một đường lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện có chiến tranh.
“Đảng ta luôn gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do đó đã phát huy
sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa phục vụ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, đồng thời đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt thành tựu trên một
số mặt”1.
Đó là nhờ Đảng ta trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, kế
thừa những tinh hoa truyền thống dân tộc, vận dụng sáng tạo những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể nước ta.
Tuy nhiên, Đảng ta cũng phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm trong
việc lãnh đạo và quản lí kinh tế. “Công tác lãnh đạo thực hiện trên một số mặt
xây dựng quy hoạch kinh tế, chính sách, tổ chức và quản lí kinh tế, quản lí xã
hội không theo kịp nhiệm vụ phát triển của nhiệm vụ chính trị. Do đó, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, năng lực sản xuất chưa
được khai thác đúng với khả năng, nguồn vốn, vật tư và lao động chưa được
sử dụng với hiệu quả kinh tế cao và còn nhiều lãng phí, phong trào thi đua xã
hội chủ nghĩa chưa mạnh.”2
Cũng có khuyết điểm bước đầu chưa được nhìn thấy (Nghị quyết 20
của Ban Chấp hành Trung ương khóa III, tháng 4 - 1972, đã định ra chủ
trương cải tiến quản lí kinh tế, xóa bỏ quản lí hành chính bao cấp, thực hiện
phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa) song do trình độ giới hạn, do hoàn
cảnh khó khăn lúc đó chưa cho phép sửa chữa một cách căn bản.
Hai là xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức

Theo phương hướng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III của Đảng
(tháng 9/1960), “công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đã có nhiều
cố gắng nhằm tăng cường tính chất đảng của giai cấp công nhân và bám sát
1

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thời kì 1975-1995, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.15
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.708

2

24


yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, bảo đảm thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
Đảng”1. Những năm đầu sau Đại hội III, miền Bắc chuyển mạnh vào nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
trong khi đó cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công, dấy lên phong
trào Đồng Khởi, sau đó đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mĩ - Ngụy,
buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari, tháng 01 năm 1973, rút quân về nước. Tiếp
đến là tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa xuân năm 1975…
Những chuyển hướng ấy đã đặt ra biết bao yêu cầu to lớn và phức tạp
đối với công tác tư tưởng và tổ chức: “Thích ứng với tình hình đó, công tác
xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đã có những chuyển hướng rất quan
trọng trên một quy mô rộng lớn và nói chung đã đáp ứng yêu cầu cơ bản của
nhiệm vụ chính trị”2. Công tác tư tưởng được tăng cường, tổ chức của Đảng
được chăm lo củng cố.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức còn có
những nhược điểm, khuyết điểm “Công tác tư tưởng ở những bước ngoặt cách
mạng có những lúc không kịp thời, buông lỏng và đấu tranh thiếu sắc bén
chống những nhận thức mơ hồ, lệch lạc và những khuynh hướng sai lầm.

Trình độ lý luận, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều cán bộ, đảng viên
chậm được nâng cao.
Trong công tác tổ chức, một số vấn đề về hệ thống, cơ cấu bộ máy của
Đảng chậm được nghiên cứu để thay đổi cho phù hợp với những điều kiện
mới, do đó tổ chức của Đảng có những mặt chưa hợp lý và thiếu năng động.
Nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, tự
phê bình và phê bình chưa được chấp hành nghiêm chỉnh ở nhiều nơi. Tình
trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lỏng lẻo, mất đoàn kết trong quan hệ
cá nhân còn khá phổ biến. Số tổ chức cơ sở Đảng thuộc loại yếu kém tương
đối nhiều nhưng chậm được củng cố”3.
Ba là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

1

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.707
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.708
3
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.713 - 714
2

25


×