Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Đề tài Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.83 KB, 132 trang )

Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2.Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 4
2.1. Về tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng................................................ 4
2.2. Về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng ............................................. 9
3. Mục đích , ý nghĩa của đề tài .................................................................. 10
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 11
6.Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 11
CHƢƠNG I: TIỂU THUYẾT TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG ............................................... 13
1.1. Nhà văn và những nhân tố tác động đến nghiệp văn ........................... 13
1.1.1.Nhà văn .......................................................................................... 13
1.1.2 Nhân tố gia đình ............................................................................. 15
1.1.3. Nhân tố quê hương ........................................................................ 17
1.1.4. Nhân tố thời đại ............................................................................. 19
1.2 Hành trình văn học và vị trí tiểu thuyết trong s nghiệp của Nguyễn Huy
Tưởng .......................................................................................................... 21
1.2.1 Sơ lược về s nghiệp ...................................................................... 21
1.2.2 Tiểu thuyết trong s nghiệp của nhà văn ....................................... 29
1.3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng .................................. 33
1.3.1 Quan điểm chung về nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng ............. 34
1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng về tiểu thuyết .... 37

1


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng



CHƢƠNG II: CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TIỂU THUYẾT CỦA
NGUYỄN HUY TƢỞNG .............................................................................. 42
2.1 Cảm hứng lịch sử .................................................................................. 43
2.1.1. Đề tài: lịch sử hiện diện qua những ung đột hốc liệt ................ 45
2.1.2. Nhân vật – những con người đa diện đ y cá tính. ........................ 53
2.2. Cảm hứng lãng mạn ............................................................................. 62
2.2.1. Ca ngợi cái đẹp giữa cuộc sống đời thường .................................. 62
2.2.2. Bày tỏ hát vọng về một ã hội thái bình an lạc ........................... 66
2.3 Cảm hứng bi ịch .................................................................................. 69
2.3.1. Bi ịch thân phận con người ......................................................... 69
2.3.2. Bi ịch tình yêu ............................................................................. 73
2.4 Cảm hứng hiện th c .............................................................................. 78
2.4.1. Phản ánh chân th c cuộc sống ...................................................... 79
2.4.2. Phản ánh chân th c con người ...................................................... 81
CHƢƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN HUY TƢỞNG .............................................................................. 87
3.1. Nghệ thuật t chức cốt truyện .............................................................. 87
3.1.1. Cốt truyện ây d ng trên hệ thống s

iện ................................... 88

3.1.2 Cốt truyện ây d ng trên s vận động tâm lí ................................. 91
3.2 . Nghệ thuật ây d ng nhân vật ............................................................ 93
3.2.1.Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ........................................ 93
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật ............................ 98
3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ............................................. 106
3.3 Giọng điệu và ngôn ngữ ...................................................................... 114
3.3.1 Giọng điệu .................................................................................... 114
3.3.2 Ngôn ngữ ...................................................................................... 119

KẾT LUẬN .................................................................................................. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................129

2


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nguyễn Huy Tưởng là một trong những tác giả lớn của nền văn học
hiện đại Việt Nam. Gia nhập làng văn há muộn so với các bạn viết cùng thế
hệ giai đoạn 1930-1945, nhưng ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà
một hối lượng tác phẩm há đ sộ với nhiều thể loại và đề tài phong phú,
được đánh giá cao cả về giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Ông được tôn vinh là
“người dẫn đầu gương mẫu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam” (Vân
Thanh), là người “có công thúc đẩy và xây dựng nền kịch nói nước nhà phát
triển trên một chặng đường mới” (Hà Minh Đức). Cho nên, hông phải ngẫu
nhiên mà Nguyễn Huy Tưởng được đánh giá là “một cây bút có tầm nhìn văn
hóa vào loại bậc nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XX” (Tr n Đăng Suyền).
1.2 Nguyễn Huy Tưởng thành công với nhiều thể loại, nhưng một trong
những đóng góp lớn nhất của nhà văn phải ể đến tiểu thuyết. Các tiểu thuyết
của nhà văn gắn liền với cảm hứng lịch sử, nhưng hông nặng về các số liệu
và dấu mốc, mà vẫn mang hơi thở của cuộc sống thường nhật và đậm chất trữ
tình. Có thể nói tiểu thuyết là một trong những thể loại ết tinh tư tưởng và tài
năng của Nguyễn Huy Tưởng, góp ph n làm phong phú nền tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại. “Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, từ những tiểu thuyết lịch sử
thời tiền chiến đến tác phẩm Sống mãi với thủ đô (…) đã đưa Nguyễn Huy
Tưởng lên địa vị người viết tiểu thuyết lịch sử hàng đầu của nền văn học mới
và là “nhà viết sử bằng văn chương” xuất sắc nhất trong lịch sử văn xuôi Việt

Nam hiện đại. [61, tr.37]. Cho đến thời điểm này, các công trình nghiên cứu
hiện có tuy đã tập trung hai thác các thể loại trong s nghiệp sáng tác của nhà
văn một cách cô đọng và hái quát, hoặc đã phân tích tiểu thuyết của ông ở
một vài hía cạnh cụ thể, song theo chỗ chúng tôi được biết, hiện nay, vẫn
thiếu một công trình có tính t ng hợp mà chi tiết về cảm hứng chủ đạo và nghệ
thuật tiểu thuyết của nhà văn. Do đó, nghiên cứu về tiểu thuyết và những đặc

3


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

trưng riêng của tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng là một công việc c n thiết
trong bối cảnh hiện nay.
1.3.Trong những năm g n đây, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã
được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường. Đó là cách tốt nhất để
tri ân nhà văn, đ ng thời là cách tốt nhất để hẳng định giá trị tác phẩm của tác
gia. Chính vì vậy, nghiên cứu sáng tác của nhà văn hông chỉ tạo cơ hội để
người viết nâng cao hiểu biết về con người và văn chương Nguyễn Huy Tưởng,
mà còn rất hữu ích đối với người viết trong công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Ngoài ra, ở một phạm vi nhất định, hy vọng đề tài này sẽ góp ph n làm tư liệu
tham hảo phục vụ việc soạn giảng của các đ ng nghiệp ở các trường ph thông
về tác giả, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng.
Xuất phát từ những lý do hách quan và chủ quan nêu trên, chúng tôi
quyết định tiếp cận và th c hiện đề tài “Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn
Huy Tưởng”.
2.Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của những nhà hoa
học có uy tín hai thác tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng nói chung, về tiểu
thuyết của nhà văn nói riêng. Ở thời điểm th c hiện đề tài, chúng tôi có những

thuận lợi nhất định hi ế thừa, tham hảo từ những công trình mang tính tập
hợp như “Nguyễn Huy Tưởng- hát vọng một đời văn” (NXB Văn hóa thông
tin, 2001); “Nguyễn Huy Tưởng - về tác gia và tác phẩm” (NXB Giáo dục,
2007). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục phân tích, bình giá tác phẩm
của nhà văn thông qua các bài viết trên tạp chí hoa học chuyên ngành, các đề
tài luận văn, luận án. Từ đó, chúng tôi tập hợp thành những hía cạnh có liên
quan tr c tiếp đến đề tài như sau:
2.1. Về tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
Tác giả Phong Lê, hi bàn đến các sáng tác của nhà văn đã nêu bật chủ đề

4


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

người trí thức trên cơ sở đối chiếu với một số tác phẩm của các tác giả cùng
thời. Chủ đề ấy được bộc lộ nhất quán trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng trên nền mạch ngu n cảm hứng về lịch sử .Tác giả hẳng định: “Lịch
sử - đó là mối quan tâm sâu sắc và thường xuyên của Nguyễn Huy Tưởng. Đó
lại vừa là khoảng lùi cho ông chiêm nghiệm về những gì của hiện tại… Lịch
sử như thời sự … Và lịch sử trong sự kết nối từ quá khứ đến hiện tại đó là sự
song hành hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của
cường quyền, của những rối ren và náo động của xã hội với một bên là sự
mỏng manh, sự bấp bênh của những số phận, những cuộc tình, những đam mê
và khát vọng của con người, trong đó trọng tâm là người trí thức”. [40, 8586]. Cùng hai thác chủ đề này trong sáng tác của nhà văn là tác giả Nguyên
Ngọc. Tác giả nhấn mạnh: Nguyễn Huy Tưởng “chủ trương một quan niệm
rất đặc sắc về người trí thức. Người trí thức không chỉ có học vấn. Người trí
thức, kẻ sĩ là người có trách nhiệm cao, có khát khao mãnh liệt đối với đất
nước, dân tộc… Ông gắn liền trách nhiệm và lòng yêu nước với tài năng làm
đẹp cho đất nước, cho dân tộc… Có thể coi đó là điểm xuất phát hết sức quan

trọng và quán xuyến toàn bộ nội dung chủ nghĩa yêu nước, toàn bộ nội dung
quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng”. [40, 100- 101]
Tác giả Hoàng Tiến hai thác đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn
Huy Tưởng. Khi đề cập đến tiểu thuyết lịch sử - những sáng tác in dấu thành
Thăng Long- của nhà văn, tác giả nhận ét: “Nguyễn Huy Tưởng nghiên cứu
lịch sử, tỉa ra những sự việc để dựng nên tiểu thuyết. Rồi, nhà văn hư cấu,
tưởng tượng và dàn trải nhân vật theo ý đồ của mình, hơn là vụ vào sự thực
lịch sử. Cho nên, đọc tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng đừng nên
tưởng rằng lịch sử đã diễn ra như thế” [40, 138]. Tiếc là trong t ng dung
lượng hái lược nội dung sáng tác của nhà văn ở các thể loại, những dòng bình
luận như trên về tiểu thuyết lịch sử hông nhiều.
Tác giả Tr n Đình Nam và Nguyễn Phương Chi đã âu chuỗi những giá
trị nội dung và nghệ thuật của các sáng tác Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến các

5


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

tiểu thuyết, tác giả viết: “Đọc An Tư, ta cảm nhận rất rõ không khí và màu
sắc thời đại mà nhà văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới
do nhà văn sáng tạo ra, và cũng rất tự nhiên, vui sướng, đau khổ ký thác tâm
sự cùng người thiên cổ. Tình yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ,
những của cải tinh thần vô giá mà cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu
đó sâu thẳm trong tâm linh bỗng trỗi dậy… ” [ 61, 174] .Với Đêm hội Long
Trì, “ông đã làm sống lại dĩ vãng xa lắc xa lơ, bị sức nặng của hàng mấy thế
kỷ đào sâu chôn chặt. Những phong tục, tập quán , lễ nghi, những hội hè đình
đám lộng lẫy với những tài tử giai nhân “ngựa xe như nước, áo quần như
nen” hiển hiện trước mắt ta… Tác giả phê phán xã hội phong kiến thời Trịnh
Sâm – dĩ nhiên - nhưng điều chủ yếu mà ông muốn nói là thế này: bất kỳ một

sức mạnh nào, nếu đi ngược lại với quyền lợi, nguyện vọng của số đông, cuối
cùng nhất định sẽ bị tiêu diệt”. [61, 175-176]. Hơn nữa, trong bài viết này, tác giả
còn bàn đến phong cách Nguyễn Huy Tưởng - phong cách của một nhà văn
“thiên về ca ngợi, thiên về cái hùng tráng, huy hoàng, thiên về cái cao cả… Ông
giỏi viết về cái vĩ mô, nhưng khi đi vào những cái vi mô , ông cũng chứng tỏ một
năng khiếu quan sát tinh tế. Ông am hiểu tâm lý con người, nhưng cũng chú ý
đến từng chi tiết để làm nên bức tranh rộng lớn. Câu văn ông thường giản dị, dễ
hiểu. Ông không tỉa tót , kỹ xảo theo lối “thôi xao”, mà lấy tự nhiên, giản dị làm
gốc… Văn ông đọc lên tưởng như không có gì, tưởng như dễ viết lắm. Tưởng vậy
thôi, đạt được cái “không có gì”, cái “dễ” ấy thật không đơn giản. Thực ra, đấy
là một nét phong cách của ông” [61, 177]. Đây là những nhận ét rất giá trị đối
với đề tài mà chúng tôi đang th c hiện.
Trong cuốn “ Nguyễn Huy Tưởng, về tác gia và tác phẩm”, tác giả Bích
Thu và Tôn Thảo Miên đã hái quát về toàn bộ tác phẩm của nhà văn theo
chiều dài thời gian, từ thể loại t s đến ịch. Trong đó, các tiểu thuyết được
đề cập chủ yếu ở góc độ đề tài và một vài đặc điểm nghệ thuật: “Với cảm
quan lịch sử nhạy bén, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lịch sử theo lối riêng
của mình, khai thác những sự kiện nằm ở khúc quanh của lịch sử, trong thời

6


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

điểm xảy ra các biến cố dữ dội, đầy sóng gió, thác ghềnh với con người và đất
nước… Các tác phẩm dựa trên một cốt truyện gọn, chứa xung đột dữ dội, kịch
tính gay gắt, hành động quyết liệt trong một không gian lẫm liệt, hoành tráng.
Lý tưởng và mạch ngầm trong tác phẩm Nguyễn Huy Tưởng đã hun đúc tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc ẩn sâu trong tâm linh người Việt qua các
thời đại”[61, 37]. Tuy nhiên, trong bài viết, vì mục đích hái quát, tác giả

hông dành nhiều dung lượng cho các tiểu thuyết của nhà văn.
Tác giả Đỗ Hằng, hi tóm tắt giá trị nội dung các sáng tác của Nguyễn
Huy Tưởng theo dòng thời gian đã hái quát: “Có thể khẳng định, trước Cách
mạng Tháng Tám…, Nguyễn Huy Tưởng đã thực sự ghi dấu ấn sâu sắc trong
nền văn học cũng như trên diễn đàn báo chí Việt Nam. Những sự kiện lớn lao
của lịch sử dân tộc đã được làm sống dậy chân thực, hào hùng trong tác phẩm
của ông. Chất sử thi đã nảy nở trong cảm hứng sâu sắc về đất nước trong
những giờ phút trọng đại, với những trang sử nhiều khói lửa của một dân tộc
anh hùng. Tư liệu lịch sử khô khan đã được đốt cháy bằng niềm say mê và
lòng tự hào của nhà văn đã trở nên lung linh, sống động, góp phần đánh thức
hồn dân tộc” [14, 75] .
Tác giả Vân Thanh, Nguyễn Thị Huế dành nhiều tâm huyết cho những
bài viết nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn. Khi phân tích các
sáng tác viết cho trẻ nhỏ, tác giả Vân Thanh có những đối chiếu há ý nhị:
“Khác hẳn với truyện lịch sử viết cho người lớn, các nhân vật như Vũ Như Tô,
Đan Thiềm, An Tư, Quỳnh Hoa đầy ưu tư và bi kịch thì ở truyện viết cho các
em, nhân vật lại đầy chất anh hùng…. Vai trò của nhân vật quần chúng trong
truyện lịch sử viết cho người lớn không phải lúc nào cũng có tác dụng tích
cực, đôi khi còn là chướng ngại cho sự phát triển của lịch sử…” [61, 210]. Vài
dòng đối sánh trên cũng đủ tóm lược những nét chung nhất về nhân vật chính
cũng như nhân vật qu n chúng trong tiểu thuyết lịch sử của nhà văn.
Tác giả Tr n Đăng Suyền, trong bài viết “Nguyễn Huy Tưởng- c m bút
chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm” hi hai thác giá trị nội dung và

7


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

nghệ thuật của vở ịch Vũ Như Tô đã có mối liên hệ sâu sắc với toàn bộ sáng

tác của nhà văn: “Cảm hứng lịch sử là cảm hứng chủ đạo, bao trùm, xuyên
suốt toàn bộ quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, cả thời kỳ trước và
sau Cách mạng tháng Tám 1945… Không một thể loại nào, qua ngòi bút của
ông , không bị chi phối bởi cảm hứng lịch sử, từ kịch, tiểu thuyết đến truyện
ngắn… Lịch sử bi tráng của dân tộc chính là vùng hiện thực- thẩm mỹ của
ông. Chỉ ở đó, ngòi bút của ông mới thật tự nhiên, thoải mái, mới trở nên tự
do, khoáng đạt và cất lên cái giọng điệu của riêng mình: trầm tĩnh, trong
sáng, đôn hậu và sâu xa. Ông khai thác lịch sử nhưng không lệ thuộc vào lịch
sử mà phát huy cao độ trí tưởng tượng, dùng nhiều hư cấu, tìm kiếm những
nét tương đồng của lịch sử với những vấn đề nóng bỏng của xã hội Việt Nam
đương thời… Sự thực thì lịch sử chỉ là cái cớ để Nguyễn Huy Tưởng nói lên
những suy nghĩ sâu xa về con người, thời đại và nghệ thuật. Ông đã rọi vào
những sự kiện lịch sử luồng ánh sáng của tư tưởng, của tinh thần dân tộc, của
tầm nhìn văn hóa sâu rộng, bắt lịch sử cất lên tiếng nói đầy ý nghĩa. Ở
Nguyễn Huy Tưởng, cảm hứng lịch sử hòa quyện với cảm hứng dân tộc, thấm
nhuần chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng nhân dân”. [47, 30-31] Ngoài ra, tác
giả cũng chỉ rõ rằng bên cạnh cảm hứng lịch sử, cảm hứng lãng mạn cũng rất
n i bật và uyên suốt trong các tác phẩm của nhà văn. Cảm hứng này thể hiện
“ở khuynh hướng chung, âm hưởng chung bao trùm trong nhiều tác phẩm, ở
những hình tượng nhân vật mang đậm cốt cách lãng mạn… Cảm hứng lãng
mạn còn bộc lộ trong thủ pháp nghệ thuật tương phản, trong bút pháp thi vị
hóa tình yêu của những đôi trai tài gái sắc cùng với những cảnh sinh hoạt tinh
thần thanh cao, đầy thơ mộng của xã hội cũ… [47, 32]. Những nhận ét này
có tác dụng định hướng cho đề tài của chúng tôi trong việc hai thác cảm hứng
chủ đạo và hai thác đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn.
Nhìn chung, các tác phẩm của Nguyễn Huy tưởng có một sức hút há
mạnh mẽ đối với giới nghiên cứu. Các công trình tiêu biểu nêu trên hai thác
sáng tác của nhà văn ở t m hái quát, song ít nhiều đề cập đến những vấn đề

8



Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

liên quan đến tiểu thuyết lịch sử của ông như cảm hứng lịch sử, cảm hứng lãng
mạn, tính bi ịch, tính sử thi… Đây là những gợi ý quý báu cho chúng tôi hi
th c hiện luận văn này.
2.2. Về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng
Bàn về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng ở thời điểm này hông phải
vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Ngay từ những năm 1966, các tác giả Hà Minh Đức
và Phan C Đệ, trong cuốn “Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960)” đã dành cả
một chương (chương 2) để nghiên cứu về tiểu thuyết và ịch lịch sử của
Nguyễn Huy Tưởng. Các tác giả đã hái quát hình ảnh thời đại và lý giải
ngu n gốc và tâm lý của một số nhân vật lịch sử (g m cả những nhân vật có
thật được ây d ng lại và những nhân vật được sáng tạo hoàn toàn) ở một
chừng m c nhất định; đã chỉ ra tinh th n dân tộc uyên suốt các tác phẩm; đã
đề cập đến vai trò của qu n chúng và của cá nhân trong lịch sử; đã chỉ ra ý
nghĩa hiện đại của những tiểu thuyết và ịch lịch sử; đã phác thảo vài nét nghệ
thuật tiểu thuyết và ịch của nhà văn. Các tác giả hẳng định rằng Nguyễn Huy
Tưởng là nhà văn viết tiểu thuyết và ịch lịch sử tiêu biểu trước Cách mạng. Bài
viết nhấn mạnh: “Nguyễn Huy Tưởng đã khai thác những chủ đề lịch sử theo
khuynh hướng của những nhà văn lãng mạn tiến bộ…Nguyễn Huy Tưởng đã
thể hiện trong tác phẩm của mình một quan điểm lịch sử tiến bộ. Anh đã ca
ngợi lực lượng quần chúng, vạch ra con đường tất thắng của nhân dân trong
lịch sử. Một mặt khác, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng cũng đậm đà một chủ
nghĩa ái quốc chân chính và một tinh thần nhân đạo cao cả.” [8, 77-78].
Trong cuốn “Nguyễn Huy Tưởng, về tác gia và tác phẩm”, các tác giả
Hà Minh Đức, Nguyễn Tuân, Phong Lê, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Phương
Chi… đã có những bài viết bàn về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng hi
phân tích một tác phẩm cụ thể: Sống mãi với thủ đô. Các bài viết này đã nhấn

mạnh tài năng của Nguyễn Huy Tưởng hi hai thác chủ đề từ những s

iện

lịch sử của dân tộc để làm bật lên tình yêu nước và tinh th n chiến đấu quật
cường của quân dân Hà Nội; hi ây d ng và điều hiển các tuyến nhân vật

9


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

một cách chủ động và nhu n nhuyễn để gây ấn tượng đậm nét trong độc giả;
hi truyền đến cho người đọc tình yêu đối với một Hà Nội lam lũ mà anh
dũng, hào hoa, hác hẳn với hình ảnh cố đô Thăng Long hoa lệ trong các tiểu
thuyết lịch sử trước đó… Những nhận ét về một tiểu thuyết cụ thể sau Cách
mạng tháng Tám hứa hẹn sẽ có một s

ết hợp nhu n nhuyễn và thống nhất

với những đặc điểm tiểu thuyết trước Cách mạng của nhà văn mà chúng tôi sẽ
th c hiện trong đề tài này.
G n đây nhất, luận văn “Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn
Huy Tưởng” của tác giả Đỗ Thị Thanh Nga cũng đã đề cập đến tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng. Tác giả đã phân tích ỹ lưỡng đề tài, s

iện, nhân vật

trong ba tác phẩm Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1944) và Sống mãi với
thủ đô (1966) để hẳng định rằng đó chính là những chất liệu làm nên cảm

hứng chủ đạo uyên suốt các tác phẩm. Việc hai thác ết cấu, điểm nhìn
nghệ thuật, hông gian, thời gian nghệ thuật… đã làm bật lên nghệ thuật thể
hiện cảm hứng lịch sử trong ba tiểu thuyết này. Có thể nói, đây là công trình
hết sức g n gũi và hữu ích với đề tài này.
Nhìn chung, các bài nghiên cứu, phê bình đều tiếp cận tác phẩm của
Nguyễn Huy Tưởng theo hai hướng: hoặc là hái quát toàn bộ giá trị nội dung
và nghệ thuật các sáng tác theo một trình t nhất định về thời gian hay thể
loại; hoặc là hai thác riêng một vài hía cạnh n i bật về nội dung hay nghệ
thuật của các tiểu thuyết hay của một tiểu thuyết cụ thể. Đặc biệt, giới nghiên
cứu thường tập trung hai thác tác phẩm Sống mãi với thủ đô mà chưa em
ét ỹ càng những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của các tiểu thuyết ra
đời trước Cách mạng. Chính vì vậy, luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn
sâu sắc và hoàn chỉnh hơn về các giá trị tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng.
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Luận văn được th c hiện nhằm nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
thống tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, từ đó tiến tới ác định và phân tích,
làm rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà

10


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

văn.
Với các ết quả trên, hy vọng luận văn sẽ góp ph n nhất định vào việc
nghiên cứu Nguyễn Huy Tưởng, nhất là tiểu thuyết. Ngoài ra, chúng tôi cũng
hy vọng rằng luận văn sẽ đóng góp ít nhiều trong việc phục vụ công tác giảng
dạy của các giáo viên ở trường ph thông.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi có hạn, luận văn tập trung nghiên cứu ba tiểu thuyết

Đêm hội Long Trì, An Tư và Sống mãi với thủ đô. Đây là những tiểu thuyết
đ u tiên và cuối cùng của nhà văn, được sáng tác ở cả hai giai đoạn trước và
sau Cách mạng tháng Tám. Giới nghiên cứu đánh giá rằng trong s nghiệp văn
học, đây là những tiểu thuyết tiêu biểu, hội tụ đ y đủ các đặc trưng về nội
dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi vận dụng linh hoạt các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn học sử
-Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
-Phương pháp thống ê, phân loại
-Phương pháp liên ngành (văn hóa học, tâm lí học sáng tạo, thi pháp học)
6.Cấu trúc luận văn
Ngoài ph n Mở đ u và Kết luận, nội dung của luận văn g m 3 chương:
Chương 1. Tiểu thuyết trong hành trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng
Chương 2. Cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

11


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

12



Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

CHƢƠNG I
TIỂU THUYẾT TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG
1.1. Nhà văn và những nhân tố tác động đến nghiệp văn
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) uất thân trong gia đình nhà nho tại
làng Dục Tú, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện
Đông Anh, Hà Nội ). Như một quy luật, con đường văn chương của ông chịu
s chi phối hông nhỏ của các yếu tố như thời cuộc, môi trường sống … và
đặc biệt là yếu tố con người của chính nhà văn.
1.1.1.Nhà văn
Con người Nguyễn Huy Tưởng là một tấm gương về bản lĩnh t học.
Sinh ra trong một gia đình nho học, Nguyễn Huy Tưởng ngay từ nhỏ đã được
thừa hưởng nền giáo dục nho giáo. Vốn Hán văn mà cha và bác ruột truyền
cho dường như hông đủ để ông sáng tác thơ theo lối Đường thi, nên cậu bé
Tưởng lúc bấy giờ luôn t m y mò để học hỏi thêm chữ nho. Vì thế, ở ông có
cái điềm đạm, trung th c, iên nhẫn tột b c của một nhà nho. Chính sức ảnh
hưởng từ nền văn hóa phương Đông thiên về chiều sâu nội tâm đã tạo nên một
Nguyễn Huy Tưởng hết sức sâu sắc và uyên bác. Bên cạnh đó, Nguyễn Huy
Tưởng có cái mạnh mẽ, phóng hoáng và lãng mạn của một nhà trí thức trẻ
sớm được tiếp úc với những tiến bộ của văn hóa phương Tây. Sau hi cha
mất ít lâu, nhà văn được mẹ gửi lên nhà chị gái ở Hải Phòng để học thành
chung. Không bằng lòng với vốn iến thức có được, vả lại, cũng do s đòi hỏi
của thời thế và công việc, nhà văn tìm mọi cách để trang bị thêm cho mình về
chuyên môn. Người trí thức ấy hối hả đọc các tác phẩm các phóng s n i
tiếng, các tác phẩm văn học, triết học của Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Hy
Lạp, La Mã, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Mỹ… Ông “đọc đủ các tác giả cổ điển,
siêu thực, tượng trưng… Đọc không do một sự thôi thúc ý thức hệ nào và cũng
chẳng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm hay trường phái phản động


13


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

nào.” [40, 118]. S gặp gỡ, giao thoa giữa văn hóa Đông - Tây tạo nên một
phong cách văn chương rất riêng, vừa uyên bác vừa lãng mạn, táo bạo - phong
cách Nguyễn Huy Tưởng. Cho nên, ngay hi đọc những sáng tác của ông, nhà
văn Như Phong đã nhận ét hết sức ác đáng: “Ở anh hình thành một tài năng
văn học lớn mà sau này, cách mạng thành công đã làm tung đôi cánh rộng
bay lên cao. Anh không những có một trí tưởng tượng sáng tạo mạnh, mà còn
có một vốn kiến thức uyên bác”. Dẫn theo [61, 32]
Lúc nhỏ, tuy học l c hông th c uất sắc, nhưng Nguyễn Huy Tưởng
đã sớm có một tình yêu văn chương há mãnh liệt. Thuở học chữ nho thì tập
tành sáng tác Đường thi. Lớn thêm một chút thì sưu t m sách Hán văn với
tham vọng có thể đọc thông mọi sách c mà cha ông để lại. Đến tu i trưởng
thành thì dành dụm tiền để mua sách của các nhà văn n i tiếng mẫu m c của
thế giới như Sha espeare, Dante, Homère, Virgile, Rabelas, Schiller … và say
sưa đọc, say sưa suy ngẫm. Tình yêu ấy được nhà văn ý thức giữ gìn và vun
vén một cách ỹ lưỡng. Ngay hi 18 - 19 tu i, ông đã bắt đ u ghi chép các suy
nghĩ của bản thân về đạo đức, văn chương. Tròn 20 tu i, chàng thanh niên ấy
đã ôm mộng viết những tập thơ trường thiên về các vị anh hùng dân tộc. Điều
đáng nói là tình yêu văn chương của nhà văn gắn liền với ý thức trách nhiệm
đối với nghề văn. Ông luôn t nghiêm hắc với chính mình hi c m bút. Mỗi
một tác phẩm ra đời, Nguyễn Huy Tưởng hiếm hi bằng lòng với đứa con tinh
th n của chính mình. Ông thường đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm thật ỹ, đánh
dấu những điểm yếu và cố gắng chỉnh sửa. Ông t nhìn nhận một cách hắt
he ngay cả với những tác phẩm mà công chúng lúc bấy giờ đón nhận và đánh
giá rất cao bằng những dòng giống như lời sám hối “mình đã lăn lộn trong

nghề văn hơn 10 năm, đã có ít nhiều tiếng tăm, cũng có ít nhiều địa vị. Than
ôi! Nhưng mà sao mờ mờ nhân ảnh. Tất cả những tác phẩm của mình đều vội
vàng hấp tấp, nhất thời. Chẳng xây dựng được chút tâm hồn… Mà chính ta
cũng không muốn nhìn lại nữa” [Nguyễn Huy Tưởng toàn tập, tập 5; 501].
Tinh th n trách nhiệm đó đã hình thành ở ông một đức tính, một phẩm chất

14


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

đáng quý: luôn ý thức góp nhặt để làm giàu thêm vốn văn của bản thân, luôn
biết chắt lọc các s việc, s

iện để hơi sâu thêm ngu n cảm hứng c m bút,

luôn trăn trở để từng chi tiết trong sáng tác của mình được hoàn thiện hơn. Vì
thế, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng được coi là hiện thân của s nỗ l c t
hoàn thiện.
Tình yêu văn học của ông hông đơn thu n là s say mê bột phát, mà
uất phát từ tâm nguyện và trách nhiệm của một trí thức trẻ sớm có ý thức
công dân và tinh th n dân tộc. Ngay từ những năm 30, chàng thanh niên
Nguyễn Huy Tưởng đã ác định được thiên chức của mình: “Phận sự của một
người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc
ngữ thôi”. [61, 19]. Cho nên, bên cạnh việc tham gia rất sớm vào nhóm học
sinh Việt Nam quốc dân đảng trường Bonnal, tham gia rải truyền đơn của
Đảng Cộng sản, treo cờ búa liềm lên cột đèn chợ Sắt…, ông cùng bạn bè cùng
say mê thảo luận và nghiền ngẫm các vấn đề dân tộc qua những tác phẩm văn
học sử như Chiêu hồn nước (Phạm Tất Đắc)… Cho nên, ngay cả hi làm việc
trong sở thuế, ông vẫn cùng bạn thân trao đ i, bàn luận về văn học nghệ thuật;

và giữa bộn bề các vụ iện vi phạm luật lệ nhà Đoan toàn miền Bắc, dưới con
mắt oi mói của gã chủ Tây, ông vẫn âm th m viết từng trang của Đêm hội
Long Trì. Sau này, vừa nhiệt tình tham gia các phong trào Hướng đạo sinh,
phong trào Truyền bá chữ quốc ngữ, tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương…, ông vừa hăng hái viết ịch, tiểu thuyết, tùy
bút, ý s … phục vụ nhân dân trên mặt trận văn hóa, văn nghệ. Cảm hứng
lịch sử uyên suốt các tác phẩm của nhà văn có thể coi là s

ết tinh của lòng

yêu nước, của tinh th n t hào dân tộc với tình yêu văn chương.
Có thể nói tinh th n ham học, tình yêu văn chương đi liền với trách
nhiệm nghề văn, đi liền với tinh th n dân tộc đã hình thành nên một phong
cách riêng trên văn đàn, đã tạo nên một s nghiệp văn học thành công của một
nhà văn lớn.
1.1.2 Nhân tố gia đình

15


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Môi trường sống có ảnh hưởng hông nhỏ đến phong cách và s nghiệp
của một nhà văn. Những ấn tượng để lại sâu sắc nhất, dài lâu nhất ,có sức vang
dội nhất trong tâm hảm của mỗi người đó chính là gia đình. Gia đình nhỏ của
Nguyễn Huy Tưởng được hình thành hi nhà văn 27 tu i. Vợ nhà văn- bà
Trịnh Thị Uyên, vốn uất thân trong gia đình quan lại, nhưng hông hưởng
thụ lối sống a hoa nhung lụa mà biết đ ng cam cộng h với ch ng, lại hết
sức tận tụy, dốc lòng vì s nghiệp của ch ng. Gia đình ấy cũng có lúc tưởng
như chia lìa bởi chiến tranh, bởi hoảng cách giữa trong thành và ngoài chiến

hu... Tuy nhiên, vượt lên tất cả, gia đình nhà văn vẫn là điểm t a tinh th n
vững vàng để ông có thể yên tâm sáng tác và hoạt động Cách mạng.
Yếu tố có ảnh hưởng lớn lao đối với nhân cách và sáng tác của Nguyễn
Huy Tưởng hơn cả chính là gia đình lớn của nhà văn. Cha ông, cụ Nguyễn
Huy Liễn, là một nhà nho n i tiếng thanh bạch ở làng Dục Tú. Cụ n i tiếng
hay chữ, từng đi thi và đỗ tú tài nhưng hông màng danh lợi, hông ra làm
quan cho triều Nguyễn. Sau này, cụ cũng hông tham gia chính quyền th c
dân, mà ở ẩn tại quê nhà. Dù mất sớm ( hi nhà văn mới bảy tu i), nhưng s
giỏi giang, đặc biệt là phong cách sống của người cha đã ăn sâu vào tâm h n
thơ bé của Nguyễn Huy Tưởng, góp ph n hình thành nên bản lĩnh, tính cách
của nhà văn.
Nhân cách và phong cách của Nguyễn Huy Tưởng còn chịu s ảnh
hưởng lớn từ mẹ. Mẹ nhà văn tảo t n ngược uôi, vất vả buôn bán nuôi gia
đình, nhưng bà vẫn giữ được những nét thanh lịch rất riêng của người phụ nữ
Kinh Bắc. Dưới tay bà, nếp nhà tuy nghèo nhưng hông có dấu hiệu của s b n
cùng, mà luôn quy củ, nền nếp, giản dị như vốn có và tràn đ y yêu thương. Tình
thương của người mẹ tảo t n nhưng thanh lịch và giản dị ấy như một mạch
nước ng m thấm vào nhân cách, vào lối sống, vào sáng tác của ông.
Ngoài ra, nhân cách và tài năng của Nguyễn Huy Tưởng còn được rèn
giũa và b i đắp từ những thành viên trong dòng họ. Trong họ Nguyễn trứ danh
của làng Dục Tú ngày ấy, nhiều người theo con đường hoa bảng, nhưng

16


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

hông ra làm quan mà sống cuộc sống ẩn dật, thanh tao. Sau hi cha mất,
Nguyễn Huy Tưởng được ông bác ruột rèn cặp Hán văn, và cậu bé luôn say
mê văn chương ấy đã tập sáng tác những bài thơ Đường luật đ u tiên. Thêm

nữa, chính ông bác n i tiếng hay chữ, từng tham gia phong trào Đông Kinh
nghĩa thục ấy đã ít nhiều truyền cho ông ngọn lửa yêu nước từ những ngày
ấu thơ.
Có thể nói, gia phong nền nếp, truyền thống trọng nghĩa, cách giáo dục
tinh tế mà hiệu quả của gia đình và dòng họ đã góp ph n hình thành nên cốt
cách của nhà văn: trung th c, giản dị, hiêm nhường, nhẫn nại và giàu tình
yêu thương.
1.1.3. Nhân tố quê hương
Quê hương là miền sâu thẳm nhất trong tâm thức của mỗi người. Đó
hông chỉ là nơi gắn bó thời ấu thơ, mà còn là nơi truyền cho con người những
bài học nhân cách. Những phong tục tập quán của quê hương từng ngày từng
tháng thấm đượm vào tâm h n, trở thành những nét đặc sắc riêng trong tính
cách, trong thói quen, nếp nghĩ, lối sống của mỗi người. Cho nên, hông ít
người coi quê hương như một điểm t a yên bình. Chính nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng từng có l n th lộ về quê hương của mình “Nó có mãnh lực kéo tôi về
tận chỗ mạnh nhất của nó, là cái chỗ mà chúng tôi thấy nắng thì ẩn, thấy mưa
thì núp, là cái chỗ tối đến chúng tôi cùng lăn lóc ngủ say, bên cạnh sẽ có thày
mẹ tôi săn sóc suốt đêm, rét thì đắp chăn cho, nực thì quạt mát cho, có muỗi
thì buông màn, giật mình thì ôm ấp. Chỗ đó chẳng phải là cái nhà gianh vách
đất ở ngay giữa làng Dục Tú quý báu kia ư? Nó không có tôi thì nó là vật
không hồn, tôi không có nó thì tôi như con chim không tổ, con thú không
hang” [55, 84]
Nguyễn Huy Tưởng may mắn được sinh ra và lớn lên vùng đất văn hiến
Kinh Bắc, nơi mà “tất cả mọi cái đều là lịch sử”. Quê hương chính là nơi
truyền cho ông ngu n cảm hứng bất tận đối với lịch sử và văn hóa, cũng là
mạch ngu n bất tận trong các sáng tác văn học của ông. Làng Dục Tú từ a

17



Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

ưa đã giàu truyền thống hiếu học. Nơi đây rạng danh hai dòng họ lớn (họ
Chu, họ Nguyễn) n i tiếng với những nhà nho học rộng tài cao, dù có làm
quan cho triều đình hay ở ẩn thì cũng luôn gìn giữ gia phong, an hưởng cuộc
sống thanh bạch, được người đời ngợi ca về nhân cách cao đẹp. Dục Tú còn là
mảnh đất giàu truyền thống lịch sử. Làng nằm cạnh thành C Loa, đất đế đô
của nhà Thục với những chứng tích còn lưu. Kế đó hông a là làng Đình
Bảng, nơi phát tích của triều đình nhà Lý- triều đại lừng lẫy trong lịch sử mà
ngày nay vẫn lưu dấu ở đền Đô. Cách đó hông a là làng Phù Đ ng gắn liền
với tên tu i Thánh Gióng trong trận chiến đánh đu i giặc Ân. Làng ông nằm
trong hu v c mà ưa ia, Lý Thường Kiệt đã cho quân bày binh bố trận , ây
d ng phòng tuyến sông Như Nguyệt (1075-1077) nhằm tiêu diệt tướng Quách
Quỳ, Triệu Tiết... của nhà Tống. Đây cũng là nơi mà bài hịch “Nam quốc sơn
hà” – bản tuyên ngôn đ u tiên của nước Đại Việt ta - t tin và iêu hãnh vang
lên huấy động trời nước. Những mốc son lịch sử của cả dân tộc ấy trở thành
niềm t hào của người dân Kinh Bắc trở thành cảm hứng sáng tác lâu bền và
uyên suốt trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng.
Đất Đông Ngàn n i tiếng là vùng đất văn hiến của Kinh Bắc. Đây là quê
hương của nhiều ông Cống, ông Nghè, Trạng Me, Trạng Ngọt, cũng là nơi
chôn rau cắt rốn của nhiều nhà văn, nhà thơ n i tiếng. Đây cũng là nơi lưu giữ
những giá trị văn hóa vật thể như iến trúc chùa Dâu, chùa Tháp Bút, như các
sản phẩm tài hoa của làng nghề thủ công Kiêu Kị, Đ ng Kị... Đây còn là nơi
bảo t n được các giá trị văn hóa phi vật thể như dân ca quan họ, hát chèo hay
những lễ hội truyền thống thu hút nhân dân hắp nơi mỗi độ uân về: “Mồng
bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu về xem hội Gióng”.
Chính những nét đẹp văn hóa ấy đã thấm d n vào mạch máu của người dân
nơi đây, tạo cho họ chất tài hoa, nghệ sĩ và chất men nhiệt huyết.
Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất mà mỗi cái tên, mỗi s vật, mỗi câu chuyện
đều nhuốm màu lịch sử và huyền thoại, Nguyễn Huy Tưởng như được “tắm mình

trong b u hông hí của lịch sử, văn hóa truyền thống”. Cho nên, đối với nhà

18


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

văn, “quê hương là niềm an ủi, niềm tin tưởng mỗi khi thất bại, là liều thuốc kích
thích khi trù trừ, là nguồn cảm hứng trong sáng tác văn học” [40, 112]. Chính
“môi trường trong sạch của một gia đình Nho giáo, những tấm gương đạo đức
của các bậc tiền bối trong làng sẽ giữ vững hướng đi của Tưởng trên con đường
trưởng thành và phát triển sau này, như con quay hồi chuyển giữ trục quay của
một vệ tinh nhân tạo bất chấp mọi ngả nghiêng ”[40, 110].
1.1.4. Nhân tố thời đại
Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống ã hội, và nhà văn là người
thư ý trung thành của thời đại. Bằng cách này hay cách hác, mỗi nhà văn,
mỗi thế hệ nhà văn sẽ phản ánh hiện th c cuộc sống trong những trang viết
của mình. Giai đoạn đ u thế ỷ XX ghi dấu những biến đ i lớn lao của nhân
loại. Những biến cố đó được phản ánh ít nhiều trong sáng tác của người c m
bút trên hắp thế giới thời ỳ này.
Như một quy luật, những biến cố thăng tr m của lịch sử thế giới đã tác
động hông nhỏ đến nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và các tác phẩm của ông.
Hệ thống thuộc địa thế giới hình thành từ những năm đ u thế ỷ éo theo s
bành trướng của chủ nghĩa th c dân, chủ nghĩa phát ít hiến cho cục diện thế
giới có nhiều thay đ i. Đại chiến thế giới l n thứ nhất (1914-1918) và l n thứ
hai (1939-1945) bùng n , gây bao nhiêu đau thương mất mát cho các nước
tham chiến và làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống nhân loại toàn c u. Tuy
nhiên, đây cũng chính là thời ỳ hoa học ỹ thuật và công nghệ của nhân loại
phát triển mạnh như vũ bão. Điều đó dẫn đến những thay đ i về đời sống tinh
th n của con người: hàng loạt hệ tư tưởng triết học mới, hàng loạt trường phái

văn học nghệ thuật mới ra đời và phát triển. Trong số đó, hông ít trường phái
văn học mang cảm quan bế tắc trước th c tại, chán ghét hiện th c, muốn quay
về hoài niệm trong quá hứ hoặc n i loạn để tìm cách giải thoát cho mình.
Những biến động về đời sống tinh th n nêu trên theo con đường hai thác
thuộc địa âm nhập vào ã hội Việt Nam - một ã hội vốn mang nặng ý thức
hệ phong iến t ngàn năm - tạo ra một s thay đ i mạnh mẽ: một lu ng gió

19


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

cách tân Âu hóa làm mới mẻ cho diện mạo văn học Á Đông, một thế hệ trí
thức Tây học thay thế những nhà nho truyền thống; một đời sống văn hóa văn
nghệ mới với nhiều trào lưu, trường phái d n thay thế cho những

huôn vàng

thước ngọc của văn hóa nghệ thuật phong iến. S thay đ i này hiến cho đời
sống văn học trở nên sôi động hơn nhưng cũng phức tạp hơn. Đối diện với
những thay đ i mạnh mẽ đó, các nhà văn phải t tìm cho mình một cách viết,
một lối thoát tư tưởng riêng. Quay về với quá hứ, với lịch sử dân tộc là một
trong những lối thoát hiệu quả nhất lúc bấy giờ.
Nguyễn Huy Tưởng sống chưa đ y nửa thế ỷ, nhưng ông là người
được chứng iến những s

iện đau thương mà hào hùng nhất của đất nước.

Ông và gia đình là cùng hòa vào nỗi đau trong những tháng năm cả dân tộc
l m than dưới ách nô lệ của th c dân, phong iến, phát ít đ u thế ỷ. Ông

cũng là người nhập cuộc trong thời ỳ quyết liệt đấu tranh giành t do của dân
tộc ta. Ngay từ những năm nhà văn đang theo học ở Hải Phòng, các phong trào
yêu nước của học sinh, sinh viên và của nhân dân nói chung đã sục sôi như vũ
bão. Phong trào đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, lễ truy điệu để tưởng
nhớ Phan Chu Trinh ... là những s

iện đ u tiên tác động đến tâm h n thơ trẻ

của Nguyễn Huy Tưởng. Ông tham gia hoạt động một cách ín đáo nhưng hết
sức nhiệt tình trong các t chức yêu nước như Việt Nam Quốc dân đảng, t
chức học sinh đoàn... Ông cùng biết bao người trí thức và thanh niên yêu nước
đương thời hân hoan cùng s ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930),
cùng hòa mình vào hông hí sục sôi của các phong trào yêu nước như phong
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, hởi nghĩa Bắc Sơn, hởi nghĩa Nam Kỳ... Khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, thời hắc hào hùng và thiêng liêng nhất được
ghi dấu hi H Chủ tịch thay mặt nhân dân Việt Nam dõng dạc tuyên bố nền
độc lập của mình trước nhân dân thế giới, iêu hãnh ác lập vị trí của quốc gia
trên bản đ thế giới. Kể từ đây, Nguyễn Huy Tưởng cũng như rất nhiều nhà
văn như được Cách mạng “chắp thêm đôi cánh rộng” cho ngu n cảm hứng
sáng tác.

20


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Những năm tháng hó hăn sau ngày Cách mạng thành công tác động
hông nhỏ đến đời sống của giới văn nghệ sĩ nói chung, của Nguyễn Huy
Tưởng nói riêng. Lúc bấy giờ, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa
được ác lập đã lập tức phải đối mặt với nguy cơ ngoại âm (quân đội các

nước đế quốc lũ lượt éo vào Việt Nam, phía Bắc đối đ u với g n 20 vạn quân
Trung Hoa dân quốc, phía Nam đối phó với th c dân Anh, theo sau là th c
dân Pháp...) và nội phản (Việt quốc, Việt cách nương bóng Trung Hoa dân
quốc để âm mưu lật đ chính quyền)... Thêm nữa, cuộc háng chiến chống
th c dân Pháp (1946-1954) vừa gian h , vừa hào hùng của dân tộc đã tác
động hông nhỏ đến đời sống văn học. Nguyễn Huy Tưởng hông là trường
hợp ngoại lệ. Tinh th n chiến đấu quật cường của nhân dân được thể hiện
trong một loạt sáng tác của nhà văn ra đời trong thời điểm này. Ngay cả sau
ngày hòa bình lập lại (1954), Nguyễn Huy Tưởng cũng hòa mình trong b u
hông hí đ y biến động, với những cuộc cải cách có sức tác động hết sức lớn
lao đến đời sống vật chất và tinh th n của ã hội.
Thời đại mà Nguyễn Huy Tưởng sống ghi dấu nhiều biến cố lớn lao và
rất đỗi hào hùng trong s nghiệp giải phóng dân tộc. Thời đại ấy hun đúc vốn
sống, vốn inh nghiệm, đ ng thời hơi dậy niềm say mê mãnh liệt của nhà văn
đối với lịch sử nước nhà. Niềm say mê ấy trở thành cảm hứng chủ đạo trong
các sáng tác, đặc biệt là trong tiểu thuyết của ông.
1.2 Hành tr nh văn học và vị trí tiểu thuyết trong sự nghiệp của
Nguyễn Huy Tƣởng
1.2.1 Sơ lược về sự nghiệp
Nếu căn cứ vào thời gian ra đời, có thể nhận thấy các sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng có s

hác biệt há rõ về đề tài: trước Cách mạng, ông

tập trung chủ yếu vào đề tài lịch sử, với tinh th n chủ đạo là hơi dậy truyền
thống yêu nước và lòng t hào dân tộc giữa bối cảnh tối tăm của nước nhà; sau
Cách mạng, ông chuyển hướng sang những đề tài có tính thời s , nhằm phản
ánh hông hí sục sôi và tinh th n chiến đấu quyết liệt của nhân dân. Tuy

21



Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

nhiên, căn cứ để phân chia này hông th c s hữu dụng, bởi lượng tác phẩm
của nhà văn tập trung chủ yếu ở giai đoạn sau Cách mạng. Do vậy, s nghiệp
văn học của nhà văn nên được hai thác ở tiêu chí thể loại, bởi lẽ ở mỗi thể
loại, Nguyễn Huy Tưởng đều thể hiện được những dấu ấn riêng và đều có
được những thành công nhất định.
1.2.1.1. Tác phẩm kịch
Trong s nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Huy Tưởng, những tác
phẩm ịch chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức hẳng định: “Từ vở Vũ Như Tô cho đến Những
người ở lại, trong khoảng bảy tám năm trời, vào những năm trước và sau
Cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng đã có công thúc đẩy và xây dựng nền kịch
nói của nước nhà phát triển trên một chặng đường mới” [61, 341] Ngoài
những vở ịch ngắn hay những ịch bản phim, có thể điểm lại ở đây các tác
phẩm tiêu biểu mà ngay hi ra đời hay công diễn, dư luận đã có một s chú
ý đặc biệt.
Vũ Như Tô là vở ịch đ u tay của Nguyễn Huy Tưởng hi bước vào
đời văn (1942). Ra đời vào những ngày chiến tranh thế giới thứ hai ở giai đoạn
hốc liệt, hi cuộc sống của nhân dân ta l m than cùng c c dưới ách phát ít,
th c dân, hi đời sống văn nghệ của dân ta bị ìm ẹp gắt gao, hi tư tưởng
của người trí thức đứng trước những ngả rẽ của cuộc đời. Với Vũ Như Tô, nhà
văn hẳng định nhiệm vụ của người nghệ sĩ chân chính giữa thời đại: sáng tác
gắn liền và phục vụ nhân dân, qu n chúng. Tác phẩm “ tố cáo chế độ hôn
quân bạo chúa, khẳng định nghệ thuật chân chính không thể phục vụ và dung
hòa với bạo lực cường quyền. Dù với một ý thức và một động cơ nào, nếu
nghệ thuật đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng là sa vào sự đổ vỡ tuyệt
vọng. Bài học lịch sử ấy có một tiếng vang và tác dụng nhất định đến đương

thời. Vũ Như Tô đã chỉ ra không có nghệ thuật thuần túy, chỉ có nghệ thuật
phục vụ cho giai cấp thống trị và nền nghệ thuật gắn bó với quần chúng. Hai
con đường ấy, người nghệ sĩ phải tỉnh táo mà chọn lấy một.” [61, 342-343].

22


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Nhân vật trong vở ịch là nơi nhà văn ý thác tâm tình của mình về trách
nhiệm và hoài bão của người nghệ sĩ. Chính vì vậy, Vũ Như Tô được đánh giá
là tác phẩm ịch lớn nhất của Nguyễn Huy Tưởng, cũng là sáng tác mà ông
tâm đắc nhất trong toàn bộ văn nghiệp của mình.
Tiếp nối đề tài lịch sử truyền thống, Nguyễn Huy Tưởng viết Cột đồng
Mã Viện. Tác phẩm tái hiện cuộc chiến đấu iên cường, bất huất của dân tộc
ta từ rất đỗi a ưa. Từ việc người Giao Chỉ đập phá cột đ ng Mã Viện với
dòng chữ đ y thách thức “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”, tác phẩm nêu bật
một nội dung tư tưởng sâu sắc: phải phá tan iềng ích, áp đặt của các thế l c
ngoại âm thì mới rửa nhục được cho dân tộc. Tác phẩm còn đặt ra một vấn đề
há tiến bộ: hông nên đ ng nhất người dân Trung Hoa bị áp bức với t ng lớp
thống trị phương Bắc đ y mưu mô chính trị và quyền l c. Bọn phong iến
Trung Quốc âm lược nước Nam, nhưng nhân dân hai nước vẫn luôn yêu
thương, che chở cho nhau. Chính vì vậy, tác phẩm này vừa đề cao tinh th n
dân tộc chân chính, nêu cao ý chí bất huất của dân tộc, lại vừa gợi giá trị
nhân văn sâu sắc.
Sau Cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng viết Bắc Sơn. Thông qua câu
chuyện của một gia đình yêu nước, vở ịch đã phản ánh chân th c và sâu sắc
cuộc hởi nghĩa iên cường của quân dân Bắc Sơn giữa những tháng ngày tăm
tối h đau trong cuộc chiến chống chế độ Nhật- Pháp. Xung đột chủ đạo của vở
ịch chính là ung đột giữa nhân dân Bắc Sơn với th c dân âm lược. Khéo léo

tái hiện hông hí cách mạng sôi n i sau ngày quân dân ta chiếm được Vũ Lăng,
căng thẳng sau ngày bị giặc trở tay hủng bố, bắt bớ, vở ịch hẳng định rằng
tinh th n Bắc Sơn vẫn bất diệt, ngọn lửa yêu nước vẫn được nhen nhóm và gìn
giữ, làm bùng lên những phong trào mới, những cuộc chiến đấu mới. Thành công
nhất của Bắc Sơn là đã nhấn mạnh và hẳng định được vai trò và sứ mệnh lịch
sử của qu n chúng trong đấu tranh cách mạng - điều mà bấy lâu nay các tác giả
vẫn thường né tránh. Trong tác phẩm, những con người mới hết sức giản dị những đại diện tiêu biểu của qu n chúng với tinh th n yêu nước cháy bỏng, với

23


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

lòng căm thù giặc sâu sắc và với tình thương vô biên đối với đ ng bào đĩnh đạc
uất hiện ở vị thế người làm chủ. Cho nên, ngay hi ra đời, vở ịch đã đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng, là “vở diễn mở màn cho sân khấu cách mạng Việt
Nam” (Phan Kế Hoành), là “vở kịch đặt nền móng cho một nền kịch mới... Bắc
Sơn đã cảnh tỉnh cho những người còn nghi ngờ cách mạng và xứng đáng là vở
kịch cách mạng thành công nhất từ trước tới nay” [61, 344- 345]
So với Bắc Sơn, vở Những người ở lại ít tiếng vang hơn, nhưng lại mở
ra một cuộc thảo luận hết sức phức tạp trong dư luận về ịch. Lấy đề tài Hà
Nội háng chiến, tác phẩm phản ánh quá trình chuyển biến của người trí thức
đi theo cách mạng. Dù còn nhiều điểm gây tranh cãi, nhưng có thể hẳng định
rằng: với Những người ở lại, Nguyễn Huy Tưởng đã “tiếp tục những thử
nghiệm, tìm tòi mà Bắc Sơn trước đó đã mở ra, ấy là việc đem vào đời sống
sân khấu kịch nói kháng chiến xu hướng kết hợp giữa yếu tố tâm lý với yếu tố
sử thi, anh hùng ca nhằm mở rộng dung lượng phản ánh của kịch nói trong
việc đi vào thể hiện đề tài xã hội chính trị” [61, 359]
Sau Những người ở lại, nhà văn viết tập ịch ngắn Anh Sơ đầu quân
và ịch bản phim Lũy hoa. Mặc dù Nguyễn Huy Tưởng t đánh giá về tác

phẩm này chưa cao, nhưng giới nghiên cứu có những đánh giá há thiện cảm
về tác phẩm này. Nguyễn Tuân cho rằng “Lũy hoa không diễn tả tâm tính
nhân vật, không dựng tâm trạng. Mà nó chỉ là một bài ca chiến đấu của thủ
đô”. Ông cho rằng Lũy hoa là một thành công của Nguyễn Huy Tưởng, là cơ
sở “ chắc và đẹp”, là “đồ án rõ nét , để trên cốt đó, ta hình thành được một
phim hay”. [61, 55]
Nhìn chung, với thể loại ịch, Nguyễn Huy Tưởng gặt hái được nhiều
thành công hơn cả. Trong số đó, có thể coi Vũ Như Tô là một iệt tác, là tác
phẩm thể hiện rõ quan điểm của ông đối với trách nhiệm phục vụ nghệ thuật
gắn liền với quyền lợi nhân dân của người nghệ sĩ.
1.2.1.2. Tác phẩm tự sự
Trong các tác phẩm ở thể loại t s , nhà văn gây được nhiều ấn tượng ở

24


Đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

cả tiểu thuyết và truyện - đặc biệt là truyện viết cho thiếu nhi. Nhà văn viết
truyện cho thiếu nhi từ trước Cách mạng tháng Tám, tuy số lượng hông
nhiều, nhưng các tác phẩm đã giữ một vị trí ứng đáng trong nền văn học dành
cho tu i thơ. Theo nhà nghiên cứu Vân Thanh, các tác phẩm của ông có thể
được chia thành ba loại: truyện viết về người th c việc th c, truyện c tích và
truyện lịch sử. Điểm gặp gỡ giữa truyện người th c việc th c và truyện lịch sử
là cảm hứng ngợi ca những tấm gương anh hùng của dân tộc trong quá hứ và
trong hiện tại. Còn với truyện c tích, ẩn sâu trong các yếu tố ỳ ảo là những
bài học sâu sắc về lòng nhân ái và tinh th n đoàn ết. Cho nên, với truyện viết
cho thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng được vinh danh là người ể chuyện tài hoa
: “Trong văn học thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây
giờ, chưa ai chuyên và đã thành công như Nguyễn Huy Tưởng” (Tô Hoài). Có

thể điểm lại vài tác phẩm tiêu biểu của nhà văn, cụ thể như sau:
Truyện c tích Tìm mẹ mang hơi hướng truyện c tích Tây Nguyên,
nhưng ỳ th c, dấu ấn sáng tạo của nhà văn thể hiện rất rõ. Qua hành trình tìm
mẹ đ y gian truân của thằng Nhà, con Gạo, cả một thế giới c tích đã hiện ra,
huyền ảo diệu ỳ nhưng cũng chân th c đến lạ ỳ. Trong thế giới ấy, tình mẹ
con, tình đ ng loại trở thành sợi dây gắn ết tất cả các s

iện với nhau.

Trong thế giới ấy, niềm tin vào chân lý cái thiện thắng cái ác, cái tốt thắng
cái ấu và bản lĩnh tuyệt vời của con người thật s tỏa sáng. Trong thế giới
ấy, niềm hát hao giản dị của người nông dân về một cuộc sống an lành, ấm
no làm úc động biết bao người đọc. Và trên tất cả, người đọc nhận thấy tấm
lòng đôn hậu của nhà văn thể hiện ở từng mạch văn, ở từng lời ể giàu cảm
úc. Tính nhân văn thấm đượm trong toàn bộ tác phẩm, chi phối rất nhiều
tình huống: con rận chuyên hút máu người đã được tình mẫu tử cảm hóa
thành nhân vật giàu lòng thương; con h hung ác đã bị cô gái inh đẹp, dịu
hiền giết chết. Được s giúp đỡ của các nhân vật giàu lòng nhân ái này, hành
trình tìm mẹ của hai anh em đã ết thúc có hậu. Truyện ết thúc trong cuộc
sum v y của một gia đình, với tiếng hát ru bình an và đ y yêu thương của

25


×