MỞ ĐẦU
Tỷ giá là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng có tác động tới nhiều mặt
hoạt động của nền kinh tế. Tỷ giá là quan hệ tỷ lệ so sánh giá trị giữa 2 đồng
tiền. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quy trở lại tác động lên hoạt động
xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của mỗi quốc gia. Xây dựng thành công
một chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn và
phức tạp. Vì vậy Biến động của tỷ giá và những tác động của tỷ giá đến nền kinh
tế Việt Nam là một vấn đề cÇn nghiên cứu, do độ dài của bài tiểu luận có hạn
nên chỉ đề cập đến tác động của sự thay đổi tỷ giá giữa USD và VNĐ
1
BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm tỷ giá:
Tỷ giá hồi đoái ( thường gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa
hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Đó là giá cả chuyển đổi một đơn vị tiền tệ
của nước này thành những đơn vị tiền tệ của nước khác.Như vậy bản chất của tỷ
giá hối đoái là một loại giá cả của hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ..
Chế độ tỷ giá hồi đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của
mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hồi đoái ở mỗi nước ở mỗi thời ký có thể khác nhau, song về cơ
bản gồm chế độ tỷ giá “thả nổi” theo đó thị trường quy định những biến động
cuả tỷ giá hối đoái, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái “cố định”
theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước mình
với đồng tiền nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp
góc đó (thả nổi có điều tiết)
2. Thực trạng về vấn đề tỷ giá ở Việt Nam
Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến nay, Ngân hàng nhà nước đã
6 lần điều chỉnh tỷ giá bình quân lên ngân hàng, song mức độ điều chỉnh không
lớn như năm 2011, cụ thể các lần điều chỉnh như sau:
Ngày 11/6/2008 điều chỉnh lên 16.461VNĐ/USD (+1,99%)
Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VNĐ/USD (+3%)
Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VNĐ/USD (+5,44%)
Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VNĐ/USD (+3,36%)
Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VNĐ/USD (+2.09%)
Ngày 11/1/2011, điều chỉnh lên 20.693 VNĐ/USD (+9.3%)
Việc điều chỉnh tỷ giá trong năm 2011 có nhiều tác động tích cực đến nền
kinh tế, cụ thể có thể đưa tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường, tổ chức kinh
tế và cá nhân sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng nhiều hơn, giao dịch ngoại tệ sẽ dễ
dáng hơn, tính minh bạch của thị trường cao hơn, sẽ không còn cảnh tổ chức
2
kinh tế và ngân hàng mua bán chui ngoại tÖ, gây ra nhiều hệ quả xấu cho cả các
ngân hàng và khách hàng.
Mặc dù động thái của ngân hàng nhà nước được nhiều chuyên gia đánh giá
cao. Tuy nhiên, việc duy trì và giữ tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường là
vấn đề rất khó cho cơ quan quản lý, khi mà tỷ giá biến động do nhiều nguyên
nhân như lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn, lãi suất thay đổi liên
tục và đặc biệt là việc các tổ chức kinh tế, cá nhân đầu cơ nắm giữ ngoại tệ, làm
cho cân đối cung cầu ngoại tệ bị mất cân đối nghiêm trọng, gây áp lực lớn lên tỷ
giá.
3. Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế:
3.1. Tỷ giá lạm phát:
Trên lý thuyết, khi một nước lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, tỷ giá hồi
đoái không đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài.
Theo quy luật cung cầu, người dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại
nhiều hơn vì giá rẻ hơn. Điều tất yếu xảy ra là nhập khẩu sẽ tăng, kéo theo cầu
ngoại tệ tăng, làm cho tỷ giá hồi đoái cũng tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân
nước ngoài sẽ ít dùng hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, làm
cho cung ngoại tệ trên thị trường giảm, đây cũng là nguyên nhân làm cho tỷ giá
hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo
hướng tăng giá ngoại tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển
sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng, tỷ giá hồi
đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động
trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào
có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối
và tỷ gia hối đoái tăng. Đối với nước ta hiện nay, lạm phát đang ở mức cao nên
việc tăng tỷ giá là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên áp lực lạm phát ở Việt
Nam năm 2011 chủ yếu đến từ các nguồn khác chứ không phải từ việc điều
chỉnh tỷ giá vừa rồi:
Thứ nhất: Việc điều chính giá điện (tăng 15.28% so với mức giá năm 2010)
bắt đầu từ tháng 1.3.2011 và việc cho phép các hàng hóa năng lượng quan trọng
3
như xăng, dầu, than “ vận hành theo cơ chế thị trường” chắc chắn sẽ là một cú
hích đáng kể đối với lạm phát.
Thứ hai: Xu hướng giá thế giới của các hàng hóa cơ bản (đặc biệt là năng
lượng, thực phẩm, vật tư nông nghiệp và kim loại) tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến mặt bằng giá trong nước vì nền kinh tế của chúng ta đã trở nên rất mở.
Không những thế, như một hiện tượng có tính quy luật, giá hàng hóa cơ bản ở
các nước đang phát triển trong đó có Việt nam một khi đã tăng thì thường cao
hơn nhiều so với các nước đang phát triển. Chẳng hạn như năm 2010, chỉ số giá
hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển là 31% trong khi trên thế giới chỉ là
19%.
Thứ ba: Năm 2010, với tốc độ tăng cung tiền và tín dụng đều ở mức trên
25% và tỷ lệ đầu tư trên 40% trong khi tốc độ tăng trường GDP thực chỉ là 6,8%
thì lạm phát tiền tệ sau một độ trễ nhất định sẽ được thể hiện trong chỉ số giá.
Điều chỉnh tỷ giá và tăng giá điện đều là những việc không thể không làm để
làm giảm sự méo mó trong giá thị trường, vốn là một điều kiện cần để nền kinh
tế có thể giảm chi phí giao dịch và phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Tuy
nhiên, nếu không thay đổi phương thức điều hành mang tính đối phó và thiếu
phối hợp như hiện nay thì doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ tiếp tục phải chịu
trận trước một loạt các cú sốc và dồn dập. Rõ ràng để đạt được mục tiêu ổn định
vĩ mô thì cách tư duy và điều hành vĩ mô của chính phủ phải được thay đổi một
cách cơ bản.
3.2. Tỷ giá với cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệc giữa kim ngạch xuất khẩu
và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ
thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán
ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hóa dịch vụ xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị
trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hồi đoái giảm. Ngược lại khi nhập khẩu
hàng hóa dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi
mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cho cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá
hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình
4
thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào
mức độ thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hồi đoái
giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng
nội tệ giảm giá và đây là trường hợp của nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết
với kết quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng đến
sự cnạh tranh của hàng hóa ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh
tế. Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề
cơ bản và quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai vấn đề cho vấn đề
này đó là: những nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đén việc ở mức độ
nào thì cán cân thương mại là tối ưu cho một nước; sự biến động của cán cân
thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy
nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho hoạch
định mục tiêu của thu nhập quốc dân.
Về lý thuyết việc tăng tỷ giá USD/VNĐ sẽ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu,
làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng việt xuất đi nước ngoài. Chẳng hạn hàng
thủ công mỹ nghệ, hàng nông lâm thủy sản. Trong tháng 1/2011, Việt Nam xuất
khẩu gạo thu về được 194 triệu USD. Với tỷ giá mới số tiền VNĐ tăng lên là
269,5 tỷ đồng. Tương tự cao su xuất được 337 triệu USD, số tiền tăng thêm từ tỷ
giá mới là 468,3 tỷ đồng. Thủy sản xuất được 400 triệu USD, số tiền tăng thêm
nhờ tỷ giá mới là 586 tỷ đồng. Nhờ vậy doanh nghiệp có thể nâng giá mua cho
nông dân hoặc điều chỉnh linh hoạt giá bán ra trên thị trường nước ngoài. Tất
nhiên tỷ giá tăng có hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nhưng để tăng xuất khẩu
doanh nghiệp còn phải tìm kiếm bạn hàng, quảng bá sản phẩm và đảm bảo chất
lượng sản phẩm chứ không chỉ dựa vào chỉ số và lợi thế do tỷ giá tăng mang lại.
Vì vậy việc tăng tỷ giá USD/VNĐ có tác động làm cải thiện cán cân thương
mại. Thâm hụt thương mại hàng hóa năm 2010 lên tới 12.4 tỷ USD (chiếm
12%GDP), bằng 17.3% kim ngạch xuất khẩu. Cán cân thương mại của Việt
Nam có mối quan hệ chặt chẽ cới tỷ giá và việc điều chỉnh tỷ giá lần này sẽ có
tác động tích cực trong việc cải thiện thâm hụt thương mại. Đông nội tệ giảm giá
5
sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp nhiều thuận lợi hơn khi hàng hóa
sản xuất có sức cạnh tranh hơn, trong khi đó nhập khẩu sẽ giảm đi và cán cân
thương mại được cải thiện.
Việc tăng giá với tỷ lệ khá cao vào tháng 2/2011 có thể là một biện pháp
đau đớn, song cần thiết và bất khả kháng trong tình hình hiện nay nhằm làm cho
nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, xuất khẩu có thể thuận lợi hơn và qua đó, có thể
giảm nhập siêu ở mức nhất định. Xuất khẩu có lợi nếu tỷ lệ gái trị gia tăng của
sản phẩm cao (như gạo, hải sản) trong khi tác động thúc đẩy hạn chế hơn đối với
các sản phẩm lắp ráp điện tử vì tỷ lệ hàng nhập lên đến 90% giá thành. Tuy
nhiên những hệ lụy đối với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô thì cần phải bàn
thêm.
Trước hết mức nhập khẩu lên đến 84 tỷ USD trên GDP 102 tỷ năm 2010
chiếm 82%GDP, trong đó chỉ có 10% hàng tiêu dùng, 20% là trang thiết bị, máy
móc, còn lại 70% là đầu vào cho các hoạt động kinh tế như xăng dầu, sắt thép,
bông sợi,…, nền kinh tế nước ta quá phụ thuộc vào nhập khẩu và việc điều
chỉnh tỷ giá mạnh như lần này sẽ dẫn đến tăng giá đáng kể các mặt hàng nhập
khẩu thiết yếu trên và qua đó tác động tới giá thành sản phẩm và giá mua của
người tiêu dùng. Những mặt hàng không thuộc loại thiết yếu như mỹ phẩm, ô tô
sang trọng có thể giảm nhập khẩu ở mức độ nhất định, song tỷ lệ các mặt hàng
này không quá lớn, trong khi các nguyên vật liệu cơ bản của nền kinh tế vẫn
phải tiếp tục nhập với mức giá nhập khẩu cao hơn. Người tiêu dùng sẽ phải gánh
chịu mức tăng giá, ước tính khoảng 3% từ sự điều chỉnh tỷ giá này. Giá một số
mặt hàng đã tăng lập tức như ga, ô tô, và khó tránh khỏi việc tăng giá các mặt
hàng khác trong thời gian tới do giá đầu vào nhập khẩu tăng lên đến khoảng
10%. Cho nên, tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại không đến mức như
nhiều người kỳ vọng.
Ngoài ra việc tăng tỷ giá cũng có những tác động không tốt như: Tạo ra sự
đắt đỏ hơn cho những hàng hóa nhập khẩu và những mặt hàng nhập khẩu này
sản xuất và bán trong nước, nếu sản xuất và bán trong nước nhiều. Về nguyên
tắc, các doanh nghiệp hay cộng tăng tỷ giá vào giá bán như vậy sẽ tạo ra một cái
6
giá mới của mặt hàng nhập khẩu. Nếu mặt hàng nhập khẩu mà tỷ trọng lớn trong
mặt bằng giá xã hội thì sẽ tạo ra mặt bằng giá mới. Điều này thì chưa ai dám
chắc chắn nhưng nó tác động là điều đương nhiên. Nhưng nó cũng có những tác
động tích cực nếu như mặt hàng đó có giá trị cao, người tiêu dùng sẽ từ chối
mua. Lúc đó các doanh nghiệp sẽ phải chuyển sang sản xuất các mặt hàng khác,
các mặt hàng tiêu dùng trong nước, ví dụ như ô tô nhập khẩu, các doanh nghiệp
nhập khẩu cộng dồn đẩy giá lên cao, khách hàng sẽ từ chối và sử dụng ô tô sản
xuất trong nước. Điều này tác động đến việc giảm nhập siêu, thực tế đã chứng
minh khi giá xăng dầu tăng cao và thiếu ngoại tệ nhập khẩu, nhà náy lọc đầu
Dung Quất là lựa chọn của khách hàng trong nước và đến giờ không có hàng để
bán. Đợt điều chỉnh lần này hướng đến kích cầu sản xuất trong nước như một
mục tiêu, đây là điểm mới. trong bất kỳ doanh nghiệp nhập khẩu nào cũng có
những dự phòng rủi ro về tỷ giá. Doanh nghiệp nào lơ là cũng phải dự phòng
đến 50% thì mức tăng 9,3% nằm trong mức đó.
3.3. Tỷ giá đối với đầu tư nước ngoài:
Theo thống đốc ngân hàng nhà nước, tháng 2/2011 là thời điểm thích hợp
và thuận lợi để điều chỉnh tỷ giá do nguồn ngoại hối dồi dào, các khoản vốn đầu
tư trực tiếp, gián tiếp, ODA cũng đang giải ngân tốt,… qua đó, sẽ giúp thị
trường ngoại hối ổn định, không bị xáo trộn.
Thế nhưng, cũng tồn tại một thực tế khác. Đó là từ hơn nửa năm nay, tỷ giá
trên thị trường phi chính thức luôn luôn vượt trần, có khi lên đến 10%. Bên cạnh
đó dòng vốn nước ngoài (FDI,ODA và kiểu hối) tuy lớn nhưng không đủ bù đắp
thâm hụt thương mại cũng như khoản sai số và thiếu sót mà nguyên nhân là do
người dân và doanh nghiệp chuyển danh mục tiền tệ sang vàng và đô la. Kết quả
là cán cân thanh toán luôn bị thâm hụt và dự trữ ngoại hối tụt xuống mức thấp
nhất kể từ năm 2005 dù tính theo con số tuyệt đối hay tính theo số tuần nhập
khẩu. Như vậy, áp lực giảm giá đồng tiền tích tụ suốt nhiều tháng qua đã buộc
ngân hàng nhà nước phải buông tỷ giá.
Phá giá là liểu thuốc đắng mà Việt Nam phải uống vì đang bị bệnh. Giúp
giảm gánh nặng chi tiêu cho người nghèo trong cơn bão này, đầu tư thêm vào
7
các cơ sở giáo dục, y tế công cộng, dịch vụ công,.. là cần thiết song song với cắt
giảm chi tiêu công không hiệu quả.
Mối liên hệ này khá phức tạp. Về nguyên tắc nếu phá giá để đưa tỷ giá về
mức bền vững thì nền kinh tế sẽ ổn định hơn dù trong ngắn hạn hoặc tốc độ tăng
trưởng có thể bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này thì đầu tư nước ngoài sẽ tăng
vì các nhà đầu tư được giải tỏa rủi ro tỷ giá trong tương lai. Tuy nhiên nếu phá
giá không đủ mạnh và uy tín của ngân hàng trung ương không cao thì các nhà
đầu tư vẫn ngần ngại.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn số liệu và các nghiên cứu nghiêm túc như ở
Việt Nam, việc phá giá chỉ có ý nghĩa đánh tiếng với các nhà đầu tư. Trong lần
phá giá vừa rồi, ngân hàng nhà nước đã đưa ra hai tín hiệu rõ ràng: Phá giá khá
mạnh (9,3%) và chuyển sang chính sách điều hành tỷ giá mèm dẻo hơn. Cả hai
tín hiệu này đánh tiếng cho các nhà đầu tư rằng ổn định vĩ mô sẽ được coi trọng.
Một đợt thắt chặt tiền tệ mới bằng chính sách lãi suất hoặc phi lãi suất sẽ càng
củng cố tín hiệu này.
Cần lưu ý rằng tỷ giá chỉ là một trong những nhân tố gây thiếu hụt thương
mại cao ở Việt Nam. Yếu tố chính vẫn là các dòng tiền từ bên ngoài đổ vào Việt
Nam như FDI,FPI, ODA, kiểu hối và các chính sách thương mại khác. Đợt điều
chỉnh tỷ giá này sẽ thúc đẩy thu hút thêm các dòng vốn đầu tư gián tiếp và giúp
khối các nhà đầu tư nước ngoài tự tin hơn trong việc giải ngân, nhờ sự ổn định
tỷ giá và có thể tiên đoán được trong thời gian tới.
Đối với đầu tư ra nước ngoài, người dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở
nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doanh
nghiệp) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu,…) Những nhà đầu tư này
muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại
tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng.
Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, nguồn vốn ngoại tệ chảy vào
trong nước làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước
ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước.
Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn
8
dòng vốn chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong
trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hóa,
luồng vốn sẽ chảy tới nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một
nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi
trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ,
nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và
sự thông thoáng trong chính sách thu hít đầu tư nước ngoài của Chính Phủ.
Điều chỉnh tỷ giá lần này là một bước nhằm lành mạnh hóa thị trường ngoại
tệ, giúp tăng tính thanh toán, cân bằng cung cầu ngoại tệ từ đó hỗ trợ việc thực
thi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, kèm theo đó phải là một biện pháp mạnh mẽ,
kiên quyết hạn chế đầ tư công, cơ cấu lại kinh tế theo hướng hiệu quả hơn từ đó
tăng năng suất, giảm chỉ số ICOR hơn nữa,… Những biện pháp như vậy mới
làm tăng giá trị nội tệ nhờ tăng trưởng kinh tế một cách chắc chắn, thực chất. Đó
là cách lâu dài ổn định tỷ giá, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
3.4. Lãi suất:
Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của
quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử
dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số
tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải
trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay
có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản
chất của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay
nhận được ở người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi suất được
biểu hiện bằng quan hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay trong một
thời gian nhất định.
Trên tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô rất có hiệu quả của
chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất
định, làm ảnh hướng đến nền kinh tế của 1 quốc gia
9
Lãi suất và tỷ giá hồi đoái là 2 trong số những công cụ quan trọng để Chính phủ
điều hành nền kinh tế vĩ mô của một nước. Tuy là 2 công cụ khác nhau những
giữa chúng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
Xét trường hợp VNĐ và USD (các yếu tố khác không đổi):
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và ngoại tệ, người ta sẽ xem xét mức
lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này:
Khi lãi suất của VNĐ cao hơn lãi suất USD người ta sẽ có xu hướng
chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VNĐ. Điều này làm cho nhu cầu VNĐ
tăng lên, cầu về USD giảm đi, từ đó đồng USD sẽ giảm đi so với VNĐ, hay tỷ
giá giảm tới một mức mà cung cầu USD-VNĐ trở nên cân bằng. Khi đó lãi suất
thực tế của VNĐ và USD tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi suất và
không tính tới lạm phát)
Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi
suất thực tế giảm, lúc này ngược lại, VNĐ sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới tỷ
giá tăng. Ngược lại khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường
ngoại hối, ngân hàng trung ương sẽ chủ động tăng lãi suất VNĐ thông qua đẩy
mạnh lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời rút bớt đồng nội tệ về. Điều
này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
Ở nước ta hiện nay, lãi suất huy động bằng VNĐ khó có thể giảm xuống do
tác động của việc tăng giá VNĐ/USD và lãi suất tiền gửi USD do tác động của
các hành vi và lực đẩy đưa đến ngang bằng lãi suất giữa lãi suất VNĐ và lãi suất
USD trong nền kinh tế Việt Nam đang bị đo la hóa trầm trọng:
Lãi suất VNĐ = lãi suất USD + độ điều chỉnh kỳ vọng (%) của tỷ giá
VNĐ/USD.
Lấy ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá 9.3% của NHNN ngày 11/2/2011 (thay đổi
tỷ giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đô la lên 20.693 đồng) ta có thể
thấy công thức trên dự đoán khá chính xác mức thay đổi của tỷ giá từ vài tháng
qua:
Lãi suất huy động VNĐ (14%) = lãi suất USD (4-5%)+ điều chỉnh tỷ giá
xảy ra (9.3%).
10
Một cách gián tiếp ta cũng có thể hiểu rằng lãi suất VNĐ phụ thuộc lãi suất
USD và kỳ vọng về mức lạm phát vì khi lạm phát cao hơn có nghĩa là VNĐ sẽ
phải mất giá và USD tăng giá. Lạm phát ở mức 11.75% ở Việt Nam năm 2010
cao hơn lạm phát ở Mỹ khoảng 10% và điều chỉnh tỷ giá 9.3% là suýt soát mức
khác nhau về lạm phát.
Lãi suất đang được ngân hàng nhà nước định hướng giảm, nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp vay với mức lãi suất thấp hơn để đảm bảo tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên lãi suất huy động VNĐ khó có thể giảm xuống do tác động
của việc tăng tỷ giá VNĐ/USD và lãi suất tiền gửi USD, do luật ngang bằng lãi
suất giữa lãi suất cho VNĐ và lãi suất cho USD. Khi NHNN muốn tăng cung
tiền và tín dụng nhanh chóng như mấy tháng vừa qua để làm giảm lãi suất VNĐ,
tác dụng thực tế lại ngược lại, vì tăng tiền lại làm tăng kỳ vọng lạm phát cũng
như gây thêm áp lực lên tỷ giá trên thị trường tự do. Ngoài ra, lãi suất huy động
trên USD lại tăng trong những tháng đầu năm 2011 do nhu cầu ngoại tệ của nền
kinh tế, đo la hóa đang rất cao, kết quả là lãi suất huy động trên VNĐ vẫn khó
giảm xuống ở hiện tại.
Ngoài ra, việc sử dụng vốn không hiệu quả và các khó khăn tài chính của
các tập đoàn lớn trong thời gian qua làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư trong
nước và ngoài nước. Điều này cũng làm cho lãi suất trái phiếu khó điểu chỉnh
giảm.
Nói chung nếu áp lực lên tỷ giá không được ngăn chặn bởi sự giảm bớt tăng
cung tiền và tín dụng sẽ khó lòng giải quyết được các bế tắc hiện tại của thị
trường tín dụng và hệ thống lãi suất để khai thông cho các thị trường chứng
khoán và nhà đất cũng như của cả nền kinh tế năm 2011. Chưa kể là tỷ giá của
VNĐ nếu lại vượt quá xa mức tâm lý 21.000 đồng/USD có thể làm niềm tin của
dân cư, nhất là giới đầu tư, sa sút và có thể tạo ra các thiệt hại tài chính lớn hơn
nhiều do dòng xoáy lạm phát tỷ giá gây ra.
Việc thay đổi tỷ giá cũng có tác động tới lãi suất USD. Nhìn lại lần tăng giá
ngày 18/8/2010. sau khi tỷ giá USD/VNĐ liên ngân hàng tăng thêm 2.09%, tỷ
giá ngoại tệ các NH tăng hết biên độ cho phép 3% cán mức 19.500 đồng/USD,
11
lập tức lãi suất USD của một số NH bắt đầu tăng theo tỷ giá. Tình hình tương tự
khi tỷ giá mới được công bố (2/2011), tuy nhiên điều này làm cho thị trường sẽ
dần ổn định, nguồn cung USD sẽ thông thoáng hơn. Thực tế khi tăng lãi suất đã
là hỗ trợ giá trị tiền đồng, trong khi lượng ngoại tệ đang được nắm giữ trong
người dân và doanh nghiệp được cho là khá lớn, việc thu hút ngoại tệ này đưa
vào lưu thông trên thị trường sẽ giải tỏa lớn căng thẳng ngoại tệ như hiện nay.
Chính vì vậy, khi giá trị tiền đồng được ổn định, lãi suất tiền gửi hấp dẫn thì
lượng lớn ngoại tệ trên sẽ được cung ra thị trường để nắm giữ tiền đồng, mục
tiêu ổn định tỷ giá, thỏa mãn nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế. Doanh
nghiệp sẽ mạnh tay bán USD rồi gửi tiết kiệm bởi lãi suất tiền gửi VNĐ lên đến
14%/năm, cao hơn lãi suất USD 8% năm (hiện tại lãi suất tiết kiệm USD cao
nhất 6% năm). Từ đó nguồn cung USD lẫn huy động vốn bằng VNĐ của các
NH sẽ tăng lên. Mặt khác tỷ giá được điều chỉnh phù hợp với diễn biến thị
trường kích thích vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam, tăng thêm nguồn vốn
USD.
Có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp nhà quản trị tài chính dự đoán và
xác định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro và
chiến lược kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trên thị trường
hối đoái bởi vì các khoản tiền gửi lớn được buôn bán tại đó đều được trả lãi, mỗi
khoản có một lãi suất, tùy theo đồng tiền mà nó được định danh.
Lợi tức của các khoản tiền gửi được mua bán trên thị trường hối đoái phụ
thuộc vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối đoái. Sự cân bằng thị
trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về về tiền lãi, điều kiện mà theo đó lợi
tức dự kiến của các khoản tiền gửi của hai loại tiền bất kỳ là tương đương thì
được đo bằng một loại tiền (nghĩa là đo bằng các đơn vị có thể so sánh với nhau
được). Chỉ khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến đều bằng nhau, tức là khi đó điều
kiện ngang bằng tiền lãi, thì sẽ không có tính trạng dư cung về một số dạng tiền
gửi nào đó và cũng không có tính trạng dư cầu về một số loại tiền gởi khác. Thị
trường hối đoái sẽ cân bằng khi một loại tiền gửi nào đó ở trong tình trạng dư
12
cầu hoặc dư cung. Do vậy, có thể nói rằng thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi có
điều kiện ngang bằng về tiền lãi.
3.5. Tỷ giá với tâm lý số đông:
Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá
hối đoái là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ
chức kinh doanh ngoại tệ là các nhân tố trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại
hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các
hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng
về tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ
vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi người kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái
sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay
trong hiện tại. Mặt khác giá ngoại tệ rất nhạy cảm với những thông tin cũng như
các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng chính phủ sẽ hỗ trợ xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại mọi người sẽ đồng loạt
bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. (Khi thâm hụt thương mại
giảm, thì cầu về USD giảm, giá USD sẽ giảm trong tương lai).
Việc điều chỉnh giá vào tháng 2/2011 về sát với thị trường tự do sẽ khiến
người dân và doanh nghiệp có ngoại tệ sẽ mạnh tay bán ngoại tệ cho ngân hàng.
Trước đây bán 100USD cho ngân hàng thiệt hơn vì tỷ giá thấp hơn thị trường tự
do, nay chênh lệch chỉ còn vài chục ngàn đồng nên người có ngoại tệ đỡ thiệt
hơn. Nếu có thể hi vọng ngân hàng sẽ mua được nhiều ngoại tệ hơn. Bằng việc
kéo tỷ giá sát với thị trường, tâm lý kỳ vọng đồng nội tệ mất giá sẽ được giải
quyết, từ đó nhu cầu ảo mua để găm giữ ngoại tệ sẽ giảm bớt làm giảm sức ép
lên quan hệ cung cầu ngoại tệ. Cung cầu cân bằng hơn, tính thanh khoản ngoại
tệ tăng lên, thị trường ngoại hối sẽ ổn định hơn. Trong quý 4/2010, do chênh
lệch tỷ giá chính thức và thị trường tự do tới 10% đã phát sinh tình trạng 2 tỷ giá
trong các ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp có nhu cầu mau ngoại tệ đã
không thể mua được theo tỷ giá chính thức mà phải nhận thêm chi phí để có
được ngoại tệ. Tính ra cũng sát với thị trường tự do nhưng khoản chi phí phát
sinh lại không được hạch toán vào đâu. Việc kéo tỷ giá chính thức sát với thị
13
trường lần này đã giúp cho việc mua bán ngoại tệ ở ngân hàng minh bạch hơn,
lành mạnh hơn. Với việc điều chỉnh lần này, ít nhất tỷ giá USD/VNĐ sẽ ổn định
trong một thời gian.
Hơn nữa, việc thay đổi tỷ giá theo hướng giá trị đồng nội tệ hạ thấp sẽ
khuyến khích dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt
Nam, giúp cải thiện trước mắt cán cân thanh toán quốc gia. Khi cán cân thương
mại được cải thiện do tỷ giá ngoại tệ cao hơn hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập
khẩu, cùng với cán cân thanh toán vững lên sẽ củng cố dự trữ ngoại tệ quốc gia,
từ đó tạo nên yếu tố tâm lý cũng như kỹ thuật ổn định giá trị đồng nội tệ của
Việt Nam.
3.6. Tỷ giá với tính trạng đô la hóa:
Việc biến động tỷ giá hối đoái có nhiều nguyên nhân, một trong những
nguyên nhân ấy gắn với tính trạng đô la hóa ở nước ta hiện nay. Mặc dù chính
phủ theo đuổi chính sách quản lý ngoại hối theo định hướng nhất quán: Trên thị
trường Việt Nam chỉ giao dịch bằng đồng Việt Nam. Nhưng thực tế, ngoại tệ và
vàng được sử dụng khá phổ biến như các phương tiện thanh toán trong giao dịch
mua bất động sản, hàng háo đắt tiền, va, trở nợ, cất trữ. Những hàng hóa này
thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ
hoặc nhập khẩu từng linh kiện nên giá của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào USD,
để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, các doanh nghiệp buộc phải niêm yết bằng USD.
Mỗi khi có biến động về tỷ giá thì các ngoại tệ, nhất là USD gia tăng vai trò trên
thị trường.
Ngày 11/2/2011 vừa qua, ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng lên mức 20.693VNĐ/USD và thu hẹp biên độ giao dịch
giao động 3% xuống 1%. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước đang điều hành tỷ giá
bình quân liên ngân hàng tương đối trong thời gian gần đây.
Việc điều chỉnh tỷ giá này lập tức có hiệu ứng với thị trường tự do, nâng
giá bán USD lên mức 21.350 – 21.500VNĐ/USD (11/2/2011). Sự điều chỉnh tỷ
giá cũng ít nhiều tạo xung lực tăng giá vàng trong nước.. Cùng với sự biến động
USD, giá vàng tăng gần 200.000 đồng mỗi lượng, tuy vậy thời gian sau đó giá
vàng trong nước giảm nhẹ theo xu hướng giá vàng thế giới.
14
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng để ổn định tỷ giá, điều then chốt
là ngân hàng nhà nước phải làm tăng sự hấp dẫn của đồng tiền một cách tương
đối so với vàng và đô la. Điều này chỉ có thể thực hiện nếu chênh lệch lãi suất
giữa tiền đồng và đô la đủ lớn. Cụ thể là mức chênh lệch này trong ngắn hạn
phải lớn hơn mức kỳ vọng giảm giá với tiền đồng, còn trung và dài hạn phải lớn
hơn mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng phải cung cấp cho thị trường những thông
điệp chính sách kịp thời, rõ ràng và nhất quán. Tuyên bố hành động và chính
sách phải đi đôi với nhau.
Cần phải duy trì chính sách tỷ giá co để bình ổn giá cả thị trường và ngăn
chặn tình trạng ban ra VNĐ. Từ đó mới điểu chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt và
đối phó với tình trạng nhập siêu thay vì áp dụng chính sách tỷ giá cố định trong
thời gian dài.
15