Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

bài tập lớn tư tưởng về xây dựng đảng của hồ chí minh trong bản di chúc và ý nghĩa, giá trị của tư tưởng đó trong công tác xây dựng đảng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.56 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị cha già của dân tộc ta, vị lãnh tụ thiên tài của cách
mạng Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Không lúc
nào là Người không lo lắng cho công việc của đất nước, của Đảng và Người đã
có rất nhiều lời dạy rất sâu sắc chí lý, chí tình với cán bộ đảng viên, nhân dân ta.
Là người cả cuộc đời vì nước vì dân, ngay cả trong những phút giây cuối đời
mình, trước khi Bác trở về với thế giới người hiền thì Bác Hồ kính yêu của
chúng ta cũng không ngừng quan tâm, lo lắng cho công việc của đất nước, của
Đảng. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn đảng, toàn dân ta một bản Di
chúc vô cùng quý báu. Bản Di chúc thiêng liêng của Người đã trở thành di sản
tinh thần vô cùng quý giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp,
những nội dung tư tuờng cốt yếu có giá trị định hướng phát triển lâu dài cho sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Đó là những tình cảm thắm thiết, niềm tin sắc son
của Người và cũng là những lời căn dặn ân tình của một người cha,người thầy,
người đồng chí vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng với Đảng ta, với nhân dân ta
và thế hệ mai sau. Đã hơn 40 năm trôi qua, song những giá trị của bản Di chúc
bất hủ ấy vẫn còn nguyên giá trị. Qua Di chúc chúng ta thấy được tập trung nhất
tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người, thấy được tinh thần trách nhiệm lớn
lao,lo lắng mọi bề cho tương lai của, đảng, của dân tộc, của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Trong Di chúc, Người cũng khái quát những nhiệm vụ chiến lược và
những vấn đề then chốt mà Đảng, nhân dân ta phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn
từ đó nắm vững để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, trong đó, nội dung bao
trùm quan trọng nhất làm nên giá trị cách mạng, giá trị khoa học và ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc của Di chúc là tư tưởng Xây dựng Đảng. Đặc biệt là Người luôn
luôn đề cao công tác Xây dựng Đảng ta một cách cơ bản, toàn diện, phong phú
mà rất thiết thực không khó hiểu như : Giáo dục, rèn luyện đảng viên, nâng cao
1



trình độ lí luận, nhận thức, năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên.Chống
giáo điều, chủ nghĩa cá nhân trong đảng; tuân thủ triệt để và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng cộng sản ViỆT Nam do Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo, trải qua
bao khó khăn và đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Song để có được
những thành công đó, Đảng ta không ngừng tự nâng cao năng lực lãnh đạo và
luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng lên hàng đầu.
Trong thực tiễn về công tác xây dựng Đảng hiện nay còn nhiều khó khăn phức
tạp nên em chọn đề tài: “tư tưởng về xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh trong
bản Di Chúc và ý nghĩa, giá trị của tư tưởng đó trong công tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn hiện nay”, với vốn kiến thức của bản thân cùng với sự
tìm hiểu các tài liệu khác một cách cụ thể, rõ ràng, chính xác mong sẽ là nguồn
tài liệu quý cho các đề tài thuộc ngành khoa học xã hội và khoa học chuyên
ngành.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong bản Di Chúc, vận
dụng lời dạy của Người trong công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn
hiện nay
- Làm rõ giá trị và vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nói trên cần phải nghiên cứu về Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng trong bản Di Chúc một cách toàn diện và cụ thể
nhằm hiểu rõ nhận thức sâu sắc thêm Tư tưởng của Người đặc biệt là trong bản
Di chúc, vận dụng Tư tưởng ấy trong giai đoạn mới.


2


3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Bài tiểu luận đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong bản Di
chúc, kết hợp với bài giảng và một số tài liệu khác như sách, báo, trang thông
tin điện tử... nhằm làm sáng tỏ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
Bản Di chúc và vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

+ Đề tài tập trung nghiên cứu giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
xây dựng Đảng trong Bản Di chúc làm đối tượng nghiên cứu chính
+ Đề tài phân tích ý nghĩa và giá trị của tư tưởng đó trong công tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn hiện nay...

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp nghiên cứu chính, ngoài ra còn có một số phương pháp khác như,
phân tích, tổng hợp, loogic, nghiên cứu tài liệu và một số tài liệu có liên quan.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
+ Đề tài góp phần làm rõ thêm Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng trong
Bản Di chúc trong công tác xây dựng đảng ở giai đoạn hiện nay
+ Đề tài làm rõ ý nghĩa, giá trị của tư tưởng đó và vận dụng vào thực tiễn xây

dựng đảng trong thời kỳ hội nhập
+ Bên cạnh đó đề tài còn góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu
của ngành xã hội và nhân văn nói chung và ngành Chính trị học nói riêng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục đề
tài có 3 chương, 7 tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
1.1.

Xây dựng đảng là gì?

Công tác xây dựng đảng, được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đặt ra
từ rất sớm song vẫn không đưa ra một định nghĩa về công tác xây dựng đảng.
Trong điều kiện Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền và trong
tình hình hội nhập kinh tế thì vấn đề xây dựng đảng ngày càng được đặt ra và
quan tâm. Đảng ta luôn quan tâm là coi vấn đề xây dựng đảng là then chốt. Có
nhiều cách hiểu khác nhau về Xây dựng Đảng như:
Xây dựng Đảng là khoa học về những nguyên tắc và phương pháp lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, về
nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng, phát
triển kinh tế, xã hội tư tưởng, văn hóa, giáo dục, khoa học kĩ thuật, an ninh,
quốc phòng và đối ngoại. Đối với việc xây dựng nội bộ Đảng tthì đó là những
nguyên tắc, tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng.
Chúng ta có thể hiểu ngắn gọn Xây dựng Đảng là khoa học nghiên cứu

những qui luật về sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, về nâng cao vai trò
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và về qui luật xây dựng nội bộ Đảng, cơ
chế xây dựng và hoạt động của Đảng cộng sản.
1.2 Các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của Lênin
Lênin đã đưa ra các nguyên lí xây dựng Đảng vô sản kiểu mới đó là :
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Đảng là đội tiên phong, và trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp
công nhân. Đảng đại diện cho lợi ích của của giai cấp công nhân và lợi ích
của nhân dân. Tiên phong, đi đầu trong chiến đấu, không ngại hy sinh gian
khổ để bảo vệ lợi ích của giai cấp,của dân tộc.
4


- Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân
Đảng là bộ phận tiên phong, là bộ phận có tổ chức là một chính thể cố kết vững
chắc có kỉ luật nghiêm minh chặt chẽ quy định rõ ràng do họ được sinh ra trong
nền đại công nghiệp. Và chỉ có tổ chức lại với nhau, đoàn kết lại với nhau thì họ
mới có thể chiến đấu và chiến thắng giai cấp Tư sản, và thành công trong công
cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội không áp bức bóc lột xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Đảng là hình thức cao nhất của giai cấp công nhân
Đàng là tổ chức của những người công nhân giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân nhất và được vũ trang lí luận khoa học và có tổ chức và kỉ luật
chặt chẽ nên họ là những người có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo dẫn dắt
giai cấp công nhân đấu tranh giải phóng giai cấp mình, xoá bỏ ách áp bức bóc
lột, xây dựng một xã hội không có áp bức bóc lột. Xây dựng xã hội Xã hội chủ
nghĩa.
- Đảng được tổ chức và hoạt động theo chế độ tập trung dân chủ
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có kỉ luật và tổ chức chặt chẽ thì
Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung. Tổ chức theo chế đô tập trung
đòi hỏi Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan lãnh đạo, một kỉ luật

thống nhất. Từ đó thực hiện số ít phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên,
toàn Đảng phục tùng Đại hội Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương.
Chỉ như vậy thì sẽ đảm bảo được tính thống nhất và thực sự tập trung tạo ra sức
mạnh.
- Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong của giai cấp công
nhân và đông dảo quần chúng lao động.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp, là những người giác ngộ nhất về sư
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân song Đảng không phải là toàn thể giai cấp,
nhân dân lao động. Để có thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp, xây dựng xã hội mới không có chế độ người áp bức bóc lột người thì
Đảng phải liên hệ mật thiết với toàn thể giai cấp công nhân và quần chúng nhân
5


dân lao động nhằm tăng sức mạnh và lực lượng để giành chiến thắng cuối cùng
trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, xây dựng xã hội mới.
Lênin viết: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ xã hôi, thì cần phải được
sự ủng hộ của chính giai cấp….”[3] (Lênin Toàn tập Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1979 tập 8
trang 293)

- Phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Theo Lênin, Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm
khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tim cách sửa chữa những sai lầm
khuyết điểm ấy thì Đảng đó mới là một đảng Mácxít chân chính. Theo Người
thì trong quá trình hoạt động cách mạng của Đảng thì Đảng khó tránh khỏi mắc
phải những sai lầm khuyết điểm
song Đảng phải nhìn nhận nhũng sai lầm khuyết điểm ấy và có thái độ đúng đắn
đối với sai lầm của minh hay không mới là điều quan trọng. Lênin đòi hỏi rằng,
trước những sai lầm của mình Đảng phải : Công khai thừa nhận sai lầm khuyết
điểm, phân tích chỉ rõ nhũng nguyên nhân gây ra những sai lầm khuyết điểm ấy

rôi từ đó đề ra những biện pháp sửa chữa sai lầm khuyết điểm. Đó chính là phê
bình và tự phê bình. Phê bình và tự phê bình giúp cho Đảng cách mạng hơn,
được quần chúng nhân dân tin yêu

6


CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG VỀ XÂY
DỰNG ĐẢNG CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG DI CHÚC
2.1. Hoàn cảnh ra đời và vài nét bản Di chúc
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của
Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người
thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần vẫn sáng suốt, thân
thể vẫn khỏe mạnh”. “ Tuy Người vẫn còn muốn phục vụ nhân dân, phục vụ
Đảng lâu hơn nữa”, nhưng Người dự báo “Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm tháng nữa”. Rõ ràng Bác đã dự
cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. Từ
dự cảm đó, Người viết: “Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc
thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn
anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột
ngột”.
Di chúc, như một người cha, người anh, người thầy để lại những lời căn dặn cho
con, cho em và cho các thế hệ học trò của mình. Người để lại tình thương yêu
và những lời căn dặn tâm huyết cho toàn Đảng, toàn dân và bạn bè quốc tế. Tuy
sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu
lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách
mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới.
2.1.2. Vài nét về bản Di chúc
Ngày 2 tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cùng với những hình

ảnh ghi lại tình cảm của toàn dân khắp bốn phương, và bản Di chúc của Bác Hồ
kính yêu cũng được công bố.
Theo đó, năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Bản Di chúc đầu tiên gồm
4 trang,

do tự tay Người đánh máy ở cuối trang đề ngày 15-5-1965. Bản Di

chúc Người viết năm 1965 là bản duy nhất hoàn chỉnh, dưới có chữ ký của
7


Người và bên cạnh có chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ.
Năm 1968 Người viết bổ sung thêm một số đoạn gồm 6 trang viết tay.
Ngày 10-5-1969 Người viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc gồm một trang
viết tay (những năm 1966, 1967 không có bản viết riêng).
Bản Di chúc công bố năm 1969 chủ yếu dựa vào bản Người viết năm 1965
(trong đó đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là phần đầu bản
viết năm 1968).
Đến năm 1989, Bộ Chính trị cho phép công bố các Bản thảo Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Căn cứ theo tài liệu công bố của Bộ Chính trị (trong tác
phẩm Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 12) các Bản thảo Di chúc được sắp xếp theo
thứ tự thời gian Người viết, các bản bút tích được in trước, sau đó các bản đánh
máy và bản in được in tiếp sau đó. Cuối cùng là bản Di chúc công bố chính thức
năm 1969.
2.2. Nội dung của tư tưởng về xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh trong Di
chúc
Trong Di chúc vấn đề đầu tiên khi Người đề cập đó là về Đảng : “Trước
hết nói về Đảng” qua đó chúng ta thấy rằng mối quan tâm và lo lắng của Người
đó là Đảng. Người sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức ra một

Đảng vô sản để lãnh đạo cách mạng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố chủ yếu quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Do đó Người luôn luôn quan
tâm tới công tác Xây dựng Đảng và coi đó là một công việc then chốt hết sức
quan trọng và là việc làm thường xuyên. Ngay trong Di chúc Người đã đề ra các
vấn đề về Xây dựng Đảng đó là:
- Tư tưởng về xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công đại thành công”. Đó là lời dạy của Người với toàn Đảng, toàn

8


dân tộc ta cần phải đoàn kết, một lòng thì mọi khó khắn và mọi kẻ thù nào cũng
sẽ đành thắng.
Không chỉ chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân mà Người rất
quan tâm tới xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Trong Di chúc Người nói “ Trước hết nói về Đảng: Nhờ đoàn kết chặt
chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho
nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân
dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.
Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Bác thì do có sự đoàn
kết, nhất trí một lòng của toàn thể cán bộ, đảng viên để phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành nhiều thắng
lợi vể vàng.
Bác nói : “ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Như vậy đoàn kết là
một truyền thống, một truyền thống quý báu, và việc gìn giữ truyền thống quý

báu ấy không phải là nhiệm vụ của một cán bộ, cá nhân nào mà là của “Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” . Công việc ấy là công việc vô cùng
quan trọng và cẩn thận vì Bác ví công việc giữ gìn đoàn kết thống nhất: “như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đó là công việc không thể nôn nóng, vội
vàng mà đó là công việc cẩn thận, chu đáo tỉ mỉ và đồng bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh việc giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Với Người, sự đoàn kết, thống nhất
của Đảng cần phải được thể hiện trên các mặt chính trị, tổ chức, tư tưởng. Tình
hình cách mạng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề thì sự đoàn kết thống nhất
9


trong tư tưởng và hành động của Đảng càng quan trọng nhất là đối với cán bộ,
đảng viên giữ những trọng trách quan trọng trong Đảng và trong Chính quyền.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết, nên trong
quá trình cách mạng, tư khi sáng lập đến lúc Người về cõi vĩnh hằng, Người rất
coi trọng xây dựng vun đắp cho khối đại đoàn kết thống nhất, luôn đề cao tính
tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng, và luôn quan tâm đặc biệt đến vấn đề
Xây dựng Đảng, để Đảng ta là một đảng cách mạng, trong sạch, đoàn kết, một
lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc.
- Tư tưởng về chỉnh đốn Đảng
Trong Di chúc viết tháng 5-1968, Người nhắc nhở: “Việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, bởi theo Người xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa là
vấn đề thường xuyên, vừa hết sức cấp bách. Trước lúc đi xa, điều Người quan
tâm trước hết cũng là “nói về Đảng”.
Chỉnh đốn Đảng theo Người là : “Làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi
chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý
phục vụ nhân dân”.
Về chỉnh đốn Đảng, Người không coi đó là công việc, biện pháp tình thế và

nhất thời mà Người cho rằng đó là một công việc, nhiệm vụ thường xuyên để
Đảng phù hợp với tình hình mới và đủ năng lực lãnh đạo cách mạng và cũng là
thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự tự làm mới mình, tự sửa chữa bệnh cho
mình, và cũng chính là cách phòng bệnh tốt nhất tránh được những căn bệnh
nặng hơn. Chỉnh đốn Đảng khi cách mạng khó khăn là để xây dựng thái độ bình
tĩnh, niềm tin sự sáng suốt, kiên định lập trường kiên định lập trường, không để
rơi vào tình trạng dao động, bi quan. Khi cách mạng có những thuận lợi thì
chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa những căn bệnh như :bệnh kiêu ngạo, chủ quan,
tự mãn, lạc quan tếu. Hay trong điều kiện Đảng cầm quyền, cuộc sống đã bớt đi
những khó khăn thì cán bộ, đảng viên lại rất dễ bị tha hoá, biến chất.

10


Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến
công tác xây dựng Đảng; là “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng…”
- Tư tưởng về thực hành dân chủ trong Đảng
Trong Di chúc Người nói rất ngắn về dân chủ trong Đảng : “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi và thường xuyên”.
Tuy Người nói rất ngắn gọn về thực hành dân chủ trong Đảng song lại rất đầy
đủ và ý nghĩa. Về thực hành dân chủ trong Đảng, thực hành dân chủ trong đảng
đòi hỏi phải thực sự, trành hình thức và phải được thường xuyên như vậy sẽ
phát huy sức mạnh của toàn thể Đảng viên để mỗi đảng viên sẽ là một người
chiến sĩ cộng sản đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng và sẽ quy tụ được quần
chúng nhân dân một lòng đi theo đảng, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân lạo khỏi áp bức bất công, xây dựng xã hội mới tốt đẹp
không có người áp bức bóc lột người.
- Tư tưởng về tự phê bình và phê bình trong Đảng
Để giữ vững kỷ luật của Đảng Người căn dặn: cán bộ, đảng viên phải thường

xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc tự phê bình và phê
bình được Người đặc biệt quan tâm.
Tự phê bình và phê bình được Người đề cập ở rất nhiều bài nói bài viết của
mình. Ngay trong Di chúc cuối đời của mình Người cũng đề cập tới vấn đề Phê
bình và tự phê bình : “ Nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất
để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau..”
Người coi “Tự phê bình và phê bình” cũng như cơm ăn, nước uống, như không
khí để thở của người cách mạng. “Ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt
cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê bình cho khỏi sai lầm”

11


Nghĩa là tự phê bình phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện, chứ
không phải chờ khi khai hội mới tự phê bình, không phải khi làm khi không,
phê bình thực sự chứ không phải là hình thức, chiếu lệ chung chung.
Bác Hồ cặn dặn mỗi Đảng viên là :“Mục đích phê bình cốt để giúp nhau
sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng
hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”
Do vậy phê bình và tự phê bình tốt thì sẽ là điều kiện, là quy luật phát
triển của Đảng, là biện pháp để củng cố và phát triển sự đoàn kết nhất trí trong
Đảng, giữ vững và phát huy sức mạnh của Đảng ta.
- Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cán bộ, đảng viên
Giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên là vấn đề
cơ bản của công tác xây dựng đảng. Đặc biệt trong điều kiện : “Đảng ta là đảng
cầm quyền” . Thì được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thuờng xuyên quan
tâm, và trực tiếp chỉ đạo.
Ngay trong những phút giây cuối cùng của cuộc đời mình Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn không ngừng quan tâm, lo lắng, căn dặn công tác giáo dục, rèn luyện,

nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong Di chúc cuối đời
Người viết : “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Theo Người khi cán bô, đảng viên phải luôn ý thức, nhận rõ vai tró của Đảng,
đó là Đảng ta là đảng cầm quyền, hay có thể hiểu là Đảng ta là đảng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa do
vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nâng cao đạo đức cách
mạng.
- Tư tưởng về Xây dựng Đảng phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau.

12


Cả cuộc đời Bác Hồ luôn sống thân ái, giàu tình thương yêu con người, Người
luôn dặn dò mọi người phải sống với nhau có tình có nghĩa, yêu thương đồng
bào, đồng chí, đồng loại. Đối với Người mỗi con người sống trên đời này phải
có tình thương yêu lẫn nhau, sống với nhau có tình có nghĩa. Người từng nói: “
Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng
ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa
đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa
Mác Lênin là sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình vó nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được.”
Cán bộ, Đảng viên trong Đảng càng cần phải có tình đồng chí, tình
thương yêu lẫn nhau. Trong Đảng nếu mọi người sống với nhau không có tình
có nghĩa, luôn kèn cựa, mưu hại lẫn nhau thì Đảng đó không có sức chiến đấu,
không có sức mạnh và không thể đoàn kết, tập hợp, cảm hoá nhân dân. Do vậy
trong Đảng càng cần phải có tình yêu thương lẫn nhau. Trong Di chúc Người
nói rất ngắn gọn. Trong Đảng : “ Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”

- Tư tưởng về bồi dưõng thế hệ sau cho cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp : “Trồng người”. Người từng
nói: “ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”
Trong Di chúc, phần viết về đoàn viên, thanh niên ta. Người viết: “Đoàn viên
và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng”, vừa “chuyên”
Đó là công việc vô cùng quan trọng đối với Đảng và Nhà nước và cả hệ
thống chính trị, không lúc nào được lơ là, buông lõng. Nguời nhấn mạnh : “ Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”.

13


Bồi dưỡng thế hệ trẻ là công việc vô cùng quan trọng, vì trong cuộc đấu
tranh giai cấp, xây dựng xã hội chủ nghĩa để có thể giành thắnh lợi thì chỉ có
nắm được thế hệ trẻ, giành được thế hệ trẻ thì cuộc đấu đó sẽ nhất định thắng lợi
và thành công
2.3. Ý nghĩa của Tư tưởng về Xây dựng Đảng trong Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rời xa chúng ta hơn 40 năm qua, song những lời căn
dặn của Người như còn mới ngày hôm qua. Những lời căn dăn của Người trong
bản Di chúc có giá trị trong nhiều lĩnh vực đời sống đặc biệt là trong công tác
Xây dựng Đảng.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một công trình lí luận về Xây dựng
và củng cố Đảng ta trong điều kiện một đảng cầm quyền.
Trong Di chúc, ngay sau phần mở đầu vấn đề mà Người đề cập tới đầu tiên đó
là Đảng, Người khẳng định : “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Để có thể

lãnh đạo Đảng, lãnh đạo chính quyền, nhân dân, dân tộc ta, Đảng phải luôn
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân,
không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy Chủ nghĩa Mác – Lê nin
làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc
nêu nên vấn đề vô cùng quan trọng để đảm bảo và giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng đó là vấn đề Xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng đó là gìn giữ, phát huy khối
đại doàn kết thống nhất trong Đảng, thực hành, mở rộng dân chủ trong Đảng,
nghiêm chỉnh tự phê và phê bình, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ đảng viên, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ Đảng, phục
vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ chiến
lược và là công việc phải được là thường xuyên và nghiêm túc để giữ vững vai
trò lãnh đạo của Đảng.

14


Để Đảng ta xứng đáng là người lãnh đạo của nhân dân, lãnh đạo dân tộc
ta đến bến bờ ấm no hạnh phúc. Để Đảng ta thật sự là văn minh, là đạo đức, là
lương tri, trí tuệ của dân tộc

Chương 3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG DI
CHÚC CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Thực trạng của công tác xây dựng đảng trong giai đoạn hiên nay
3.1.1. thành tựu của công tác xây dựng đảng trong thời gian qua
Công tác xây dựng Đảng trong nhũng năm qua có nhiều bước phát triển đáng kể
như công tác phát triển đảng viên trong Đảng.
Số lượng đảng viên hàng năm tăng, và tiếp tục tăng tính đến Đai hội
Đảng toàn quốc năm 2006 Đảng ta có số lượng Đảng viện gần 3,1 triệu Đảng
viên. Đến năm 2009 Đảng ta có gần 3,6 triệu đảng viên, năm 2009 kết nạp được
179.000 đảng viên.

Bên cạnh lượng Đảng viên của toàn đảng được kết nạp mới tăng đều qua các
năm, năm sau luôn cao hơn năm trước. Số lượng đảng viên bị khai trừ, xoá tên,
xin ra đều giảm.
Số lượng đảng viên hàng năm tăng bên cạnh đó chất lượng đảng viên cũng
không ngừng tăng lên.
Phẩm chất chính trị của đội ngũ Đảng viên không ngừng tăng lên. Bản
lĩnh chíng trị vững vàng, trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên trì với đương lối đổi mới. Và đại đa số đảng viên đều hăng hái đi
đầu trong công cuộc đổi mới, kiên định mục tiêu lí tưởng, đấu tranh chống lại
những gì làm băng hoại phẩm chất cách mạng, tư tưởng cơ hội…
Không chỉ phẩm chất chính trị của đảng viên được tăng lên mà năng lực
chuyên môn cũng không ngừng được nâng cao. Trình độ chuyên môn, nghiệp

15


vụ của đôi ngũ đảng viên ngày càng được nâng cao để phù hợp với yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng, của đất nược của công cuộc đổi mới đặt ra.
Phẩm chất lối sống đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật . Hiện nay cán
bộ, đảng viên có điều kiện học tập, nâng cao trình độ học vấn. Do vậy phẩn chất
đạo đức của đội ngũ cán bôn đang viên được nâng cao. Họ luôn nêu cao tinh
thần học tập và là những tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức lối sống. Không
chỉ là tấm gương sáng trong thực hiện chấp hành chính sách pháp luật của đảng
và nhà nước.
Tình đoàn kết trong đảng không ngừng được củng cố phát huy Đảng là
nhân tố của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện để tập hợp lực lượng trong
công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.
Quan hê với quần chúng của Đảng, đảng viên không ngừng do Đảng và
đảng viên của Đảng luôn nêu cao tình thần gương mẫu tiên phong trong các
phong trào cách mạng. Đây cũng chính là biện pháp để tập hợp quần chúng đi

theo đảng và thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.
Bên cạnh đó công tác xây dựng Đảng về chính trị cũng không ngừng
được nâng nên,
3.1.2. những hạn chế trong công tác xây dựng đảng
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác xây dựng đảng vẫn còn
tồn tại những hạn chế cần được khắc phục
Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tổ chức, tư tưỏng còn nhiều bị động,
rập khuôn chưa có những hình thức mới sáng tạo và thu hút được quần chúng
nhân dân.
Phẩm chất chính trị của Đảng viên nhìn chung là tốt song còn có một bộ
phận không nhỏ do thiếu bản lĩnh chính trị, do cơ chế thị trường mà đã phai
nhạt lý tưởng cộng sản, hoang mang, dao động, giảm sút lòng tin vào con đường
lên chủ nghĩa xã hội, không chấp hành kỉ luật, kỉ cuông của đảng. t

16


Dẫn đến lối sống đạo đức của một bộ phận cán bộ, đang viên bị tha hoá
biến chất, mất ý chí chiến đấu, tham nhũng, thụ động trong công tác…tính riêng
năm 2000 số đảng viên bị thi hành kỉ luật đảng chiếm 0.8% tổng số đảng viên
theo số liệu thống kê của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Hay cũng theo Uỷ ban Kiểm tra trung ương Đảng thì từ năm 2001 đến
tháng 6 năm 2003 thì có tới 10.041 đảng viên tham nhũng, tiêu cực bị thi hành
kỉ luật Đảng từ khiển trách đến khai trừ ra khỏi Đảng chiếm 22,28 % tổng số
đảng viên bị thi hành kỉ luật.
Không chỉ yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống bản lĩnh chính trị mà
nhiều cán bộ, đảng viên năng lực, trình độ chuyên môn còn hạn chế yếu kém,
không đồng đều nhau giữ đảng viên thành thị và đảng viên nông thôn. Hay năng
lực tổ chức thực tiễn của nhiều đảng viên con hạn chế, năng lực trí tuệu còn
khoảng cách khá xa, và rất nhiều đảng viên không có ý chí học tập suốt đời khi

đã có một địa vị thì có thái độ ỉ lại..
Trong quan hệ với quần chúng, và ý thức chấp hành chính sách và pháp
luật của Đảng và nhà nước một số đảng viên không hoà đồng với quần chúng
nhân dân và không thể hiện vai trò nêu gương trong thực hiện đường lối chính
sách của đảng và nhà nước.
Cùng với đó do thự hiện các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và
phê bình còn hình thức chiếu lệ, không nghiêm túc, không đảm bảo mục tiêu và
nhận thúc chư đúng, đủ về tập trung dân chủ, tự phê bình trong đảng, vai trog
tiên phong của cán bộ đảng viên dẫn đến tình trạng mất đoàn kết thống nhất ở
một số nơi, đại phương. Trong Đảng đã và đang diễn ra tình trạng “ Trên bảo
dưới không nghe”, “ biểu quyết một đằng làm một nẻo” hay các hiện tượng như
“ sợ đụng chạm”, “ ô dù , vây cánh” hay “chi bộ họ ta”đã gây tổn hại đến sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguyên nhân chủ yếu là cho đảng giảm khả
năng chiến đấu. Mất tình tiên phong của một số đảng viên, chi bộ đảng trong
Đảng, trong công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội.
17


3.2. Vận dụng Tư tưởng về Xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay:
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn chăm lo tới công tác xây dựng Đảng,
đặc biệt trong Di Chúc của Người. Theo Người công tác xây dựng Đảng là một
trong quy luật tất yếu, quyết định đến sự tồn vong của Đảng cộng sản. Xây
dựng Đảng là làm cho đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, đoàn kết trên cơ sở
tự phê bình và phê bình để trở thành một đảng “ Vừa đạo đức, vừa văn minh”,
xứng đáng là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay cần
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Đảng đặc biệt là trong Di chúc về
các mặt sau:
 Nâng cao tầm trí tuệ cho Đảng.
Năng cao tầm trí tuệ cho Đảng chính là tăng cường công tác nghiên cứu và đưa

lí luận Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Đảng, Nhân dân.
Do đó cần phải tăng cường công tác nghiên cứu, tổng kết lí luận, đưa lí luận vao
trong thực tiễn để kiểm nghiệm lí luận, Đảng ta phải luôn trong “ Công cuộc đổi
mới tư duy lí luận”, và phải luôn luôn ghi nhớ Chủ nghĩa Mác Lênin không
phải là chủ nghĩa khép kín, mà đây là một chủ nghĩa mở, chủ nghĩa Mác Lênin
trang bị cho chúng ta phương pháp luận, thế giới quan và làm cho chúng ta
“Sống có tình có nghĩa với nhau hơn”. Từng bước hoàn thiện quan điểm lí luận
về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và làm cho chủ nghĩa Mác Lênin
ngày càng cách mạng, ngày càng khoa học và chân chính hơn, phù hợp với sự
biến đổi của lịch sử.
Cùng với nghiên cứu và phát triển Chủ nghĩa Mác Lênin mà Đảng ta còn cần
phải tăng cường hơn nữa công tác truyền bá Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong Đảng, để mỗi cán bộ, đảng viên phải thầm nhuần chủ nghĩa
Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, và cũng chính họ sẽ là những người
tuyên truyền viên góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong quần chúng nhân dân.
18


Không chỉ nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bằng các
phương pháp truyêng thống mà còn cần phải tăng cường áp dụng các phương
tiên khoa học công nghệ trong nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh mà cần phải tăng cường áp dụng các tiến bộ của khoa
học công nghệ trong truyền bá, giáo dục Đảng viên, nhân dân.
 Nâng cao tầm trí tuệ cho cán bộ, Đảng viên.
Cán bộ, Đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường ngày hôm nay, phải đối
mặt với nhiều cám dỗ, điều kiện làm cho họ dễ bị tha hoá, biến chất, phai nhạt lí
tưởng cộng sản, hoang mang, dao động trước những khó khăn gian khổ hay
bước thụt lùi của lịch sử, dễ bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng. Do vậy cần
phải nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường

giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh đó cần phải
trực tiếp đưa họ vào phong trào thực tiễn. Lấy phong trào thực tiễn làm thước
đó cho phẩm chất chính trị của họ.
Cùng với nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị thì cũng phải đi đôi với nâng
cao năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên. Bằng cách nâng cao trình độ văn
hoá,hiểu biết về các lĩnh vực mà cán bộ đảng viên phụ trách, và đời sống xã hội.
Không chỉ giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cũng đồng nghĩa với nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên có đức và tài để đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Khi người cán bộ đảng viên đã rèn luyện được bản lĩnh chính trị và năng lực
trình độ văn hóa thì vấn đề chấp hành đường lối chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước. Song vẫn cần phải giáo dục ý thức chấp hành đường lối, pháp luật
của đảng và nhà nước và cần phải đưa yêu cầu đó vào trong Điều lệ Đảng, trở
thành pháp chế để bắt buộc toàn thể Đảng viên, cán bộ phải chấp hành. Khi
Đảng viên, cán bộ chấp hành đường lối, chính sách chủ trương , pháp luật của
Đảng và pháp luật của nhà nước sẽ góp phần tuyên truyền vận động nhân dân

19


cùng với cán bộ, đảng viên chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước.
 Nâng cao tinh thần Tự phê bình và Phê bình trong Đảng.
Tự phê bình và Phê bình là một trong những quy luật phát triển của Đảng cộng
sản, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi tự
phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt đảng, quy luật phát triển của Đảng
ta. Trong điều kiện kinh tế thị trường thì tự phê bình và phê bình càng có ý
nghĩa, giá trị to lớn trong công tác xây dựng Đảng.
Để công tác Tự phê bình và phê bình có hiệu quả cần phải:
Cần phải giáo dục cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về

mục đích, bản chất của phê bình và tự phê bình trong Đảng. Bản chất, mục đích
của phê bình và tự phê bình là xây dựng Đảng, khắc phục, loại bỏ những hạn
chế, tiêu cực trong tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; chỉ ra những thành tựu,
ưu điểm cũng như những hạn chế, khuyết điểm của Đảng và những nguyên
nhân để từ đó tìm biện pháp khắc phục, sửa chữa.
Tự phê bình và phê bình phải gắn kết với việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị được giao.
Cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ đảng viên giữ chức vụ chủ chốt phải
gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ động động cơ trong sáng và
tình thương yêu đồng chí trong phê bình. Mọi sự tự phê bình và phê bình đều
phải xuất phát từ cái tâm, cái lý, cái tình trong sáng, tuyệt đối không được lợi
dụng tự phê bình và phê bình để đả kích, nói xấu nhằm loại bỏ, hạ bệ nhau.
Có thái độ thành khẩn, trung thực, tôn trọng sự thật, lẽ phải, không giấu
giếm, bao che, thổi phồng hoặc bóp méo sự thật.
 Nâng cao, mở rộng Dân chủ trong Đảng
Dân chủ là điều kiên để Đảng phát triển và tồn tại nên trong Đảng cần phải mở
rộng dân chủ. Trong Đảng mọi công việc của đảng phải được thảo luận bàn bạc
20


từ đó sẽ phát huy sức mạng của Đảng do vậy phải làm cho mỗi cán bộ, đảng
viên hiểu và thực hiện dân chủ trong đảng. Để nâng cao dân chủ trong Đảng cấn
phải thực hiện như sau:
Nâng cao nhận thức đúng đắn về Dân chủ đối với mỗi Đảng viên, để mỗi đảng
viên hiểu được dân chủ và thực hiện dân chủ một cách đầy đủ trong công tác
cán bộ và trong sinh hoạt
Phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ cảu mọi tổ chức đảng và đảng viên trong
lãnh đao thực hiện đường lối.
Dân chủ trong xây dựng đường lối, chủ trương của đảng.

Kiên quyết đấu tranh đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng
trong đảng.
Thực hiện những biện pháp trên sẽ đẩy mạnh dân chủ trong Đảng, nêu cao tinh
thần trách nhiệm của Đảng viên với công tác, nhiệm vụ của Đảng. Phát huy trí
tuệ của toàn Đảng thự hiện nhiệm vụ cách mạng, thành công trong công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
 Nâng cao, tăng cường Đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những yếu tố cần để Đảng tồn tại
và phát triển. Đoàn kết dựa trên tự phê bình và phê bình, đàon kết trên cơ sở
tình đồng chí thân thiết thương yêu lẫn nhau giữa những người cùng chung lí
tưởng. Đoàn kết trên cở sở tôn trọng tập thể và chấp hành nghiêm chỉnh đường
lối của Đảng, của mỗi đảng viên. Đoàn kết nhất trí trong Đảng sẽ góp phần thực
hiện tốt mọi nhiệm vụ của cách mạng. Và khi trong Đảng có sự đoàn kết nhất trí
trong đảng sẽ tạo cho đảng sức mạnh. Và đoàn kết nhất trí trong đảng sẽ tập hợp
được quần chúng nhân dân, đi theo đảng, đoàn kết nhất trí trong Đảng sẽ tạo
được đoàn kết thống nhất trong nhân dân.
 Tăng cường bản chất cách mạng và khoa học của Đảng.
Cần phải tăng cường bản chất cách mạng cảu Đảng hiện nay là giữ vững bản
chất gai cấp công nhân, kiên định lập trường của giai cấp, luôn đứng trên lập
21


trường của giai cấp và lợi ích của nhân dân để đưa ra mọi chủ trương chính sách
của Đảng . Đòi hỏi Đảng phải đổi mới, đảm bảo sự thống nhất và trí tuệ, nâng
cao năng lực lãnh đạo, để đưa đất nước phát triển lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng xã hội mới tốt đẹp.
Tăng cường bản chất khoa học, cách mạng cảu Đảng đòi hỏi Đảng ta phải kiên
định đi theo chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng HỒ Chí Minh. Không ngừng bổ
xung, phát triển lí luận, tổng kết thực tiễn đặc biệt là lí luận xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó là tăng cường thực hiện tập trung dân chủ trong
Đảng, tự phê bình và phê bình, xây dụng khối đại đàon kết trong Đảng. Nhằm
Xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu mới, yêu cầu của công cuộc xây xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
 Nâng cao sức dân.
Sức dân chính nâng cao chất lượng đời sống hay kinh tế , chất lượng giáo
dục , tư tưởng cách mạng cho nhân dân.
Đảng phải chăm lo cho dân có đời sống kinh tế ổn định và ngày càng
được nâng cao. Nhân dân có ấm no thì sẽ là điều kiện để Đảng ta phát triển và
có điều kiện phát triển, làm cho dân tin vào đảng, yêu đảng.
Không chỉ làm cho dân giàu mà còn phải từng bước nâng cao trình độ
văn hóa cho người dân, dân sẽ hiểu mọi công việc của Đảng, khó khăn của đảng
sẽ cùng đảng tháo gỡ những khó khăn. Đã có người náo đó nói rằng : “Dân trí
tới đâu dân chủ tới đó” cũng chính là khi dân trí được nâng nên thì dân chủ sẽ
được nâng nên và Đảng sẽ phát triển tốt lên khi Đảng phát triển trong một môi
trường Dân chủ. Làm cho người dân có trình độ thì nhân dân sẽ tích cực phát
triển Đảng, là biện pháp xây dựng Đảng lâu dài. Đặc biệt khi Tư tưởng cách
mạng được mỗi người dân hiểu , thấm nhần thì họ sẽ tin và đi theo Đảng.

22


Khi dân tin vào đảng và theo Đảng thì họ sẽ coi Đảng là của họ và ra sức
bảo vệ đảng. Công tác xây dựng Đảng thì họ cũng sẽ coi đó là công việ của
nhân dân. Và Công việc Xây dựng Đảng sẽ trở thành công việc của toàn dân.
Bảo vệ Đảng lúc đó sẽ không phải là công việc của riêng ddangr mà đó sẽ
là công việc của toàn dân. Khi đó không một thế lực nào có thể phá hoại đảng
được. Đảng sẽ mãi vững bền và phát triển. Cùng với đó nhân dân sẽ giúp Đảng
phát hiện những người cán bộ, dảng viên tốt và nhũng người đảng viên thái hoá
biến chất.

Do vậy chăm lo sức dân cũng chính là chăm lo và phát triển, bảo vệ
Đảng một cách có hiệu quả nhất.
 Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo thông qua đường lối chính sách do vậy trước tiên càn phải đổi
mới quá trình đề ra đường lối, chủ trương chính sách của đảng, Quá trình xây
dựng đường lối chính sách của Đảng luôn luôn trên lập trường giai cập công
nhân và đăt lợi ích của giai cấp và nhân dân, dân tộc lên hàng đâu.
Cùng với đó là đối mới lãnh đạo nhà nước, Đảng không là thay việc cảu nàh
nước, song phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của nhà nước.

23


KẾT LUẬN
Đã 40 năm Người đi xa chúng ta. Song những giá trị Người dể lại cho
chúng ta mãi mãi là một kho di sản quy giá. Đó là Tư tưởng, đạo đức của
Người. Đặc biệt là tư tưởng của Người về công tác Xây dựng Đảng đặc biệt
là trong Di chúc.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đang đứng trước
những thời cớ, thách thức, vận hội mới nhưng cũng không ít khó khăn thách
thức. Do vậy Đảng ta cần phải xứng tầm với yêu cầu của điều kiẹn mới. và
cần phải nằm vững tinh thần , tư tưỏng Hồ Chí Minh vè Xây dựng Đảng và
vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của Người trong công tác xây dựng
Đảng và công cuộc xây dựng đát nước.
Thời gian trôi qua song những lời trong Di chúc của Người đã và đang
góp phần giải quyết những yêu cầu của Cách mạng trongn tình hình hiện nay
và sẽ còn giá trị cho mãi mái các thế hệ sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2000,Tập 4
2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000,Tập 5
3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000,Tập 6
4. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000,Tập 8
5. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000,Tập 9
6. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
24


2000,Tập 10
7. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000,Tập 12
8. Học thuyết Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và
Xây dựng
9. Đảng cộng sản, TS. Nguyễn Đức Ái chủ biên, NXB Chính trị Hành Chính, Hà Nôi 2010.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................2
2.1. Mục đích nghiên cứu....................................................................................2
3.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu......................................................................3
3.2.Phạm vi nghiên cứu........................................................................................3
3.2.Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................3
25



×