ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Bắc Hướng Hoá, huyện Hướng Hoá, tỉnh
Quảng Trị đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập số 479/QĐ –
UBND ngày 14/03/2007 với tổng diện tích rừng và đất rừng vùng lõi là 25.200 ha,
gồm 5 xã: Hướng Lập, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Linh và Hướng Việt.
Diện tích vùng đệm bao gồm diện tích còn lại của 5 xã trên là 41.447 ha. Nhiệm vụ
của khu BTTN Bắc Hướng Hóa là bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh
học (ĐDSH), bao gồm quần thể các loài động, thực vật quý hiếm, trong đó có nhiều
loài động, thực vật đang bị đe dọa tuyệt chủng. Khu BTTN Bắc Hướng Hóa cũng
thực hiện nhiệm vụ duy trì giá trị sinh thái và chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn
cho các con sông Bến Hải, Rào Quán, sông Hiếu và sông Sê Phăng Hiêng; giữ nguồn
nước cho lưu vực hồ Rào Quán của công trình thủy lợi, thủy điện Quảng Trị.
Vùng rừng Bắc Hướng Hoá là một vùng rừng còn tương đối nguyên sinh, là
khu vực rừng còn sót lại trong vùng do sự tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đặc biệt
là chất độc hoá học. Rừng trong khu vực đã và đang đóng vai trò phòng hộ đầu
nguồn quan trọng của 4 hệ thuỷ lớn là sông Bến Hải, sông Cam Lộ (Sông Hiếu),
sông Rào Quán (sông Quảng Trị) và sông Xê Păng Hiêng (chảy vào sông Mê kông
bên Lào). Đặc biệt quan trọng là hệ thuỷ Rào Quán nơi có công trình thuỷ điện Rào
Quán. Theo kết quả tính toán độ che phủ rừng tự nhiên trong BTTN lên tới 83,5%.
Những nghiên cứu, đánh giá về đa dạng sinh học, tài nguyên sinh vật nói
chung và tài nguyên thực vật nói riêng ở đây mới chỉ bắt đầu. Các thông tin về tài
nguyên sinh vật ở nơi đây còn rất thiếu, nhất là các loài quý hiếm cần được bảo vệ.
Do đó, đề tài nghiên cứu “Điều tra, đánh giá tiềm năng nguồn tài nguyên thực
vật tại khu vực Bắc Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị); đề xuất phương án sử dụng
hợp lý, bảo vệ và phát triển bền vững” là vấn đề cần thiết nhằm góp phần làm cơ
sở hoàn thiện chiến lược và biện pháp quản lý - bảo tồn tài nguyên thực vật ngắn hạn
và dài hạn tại đây.
1
I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học
(ĐDSH) cao nhất thế giới, và được công nhận là quốc gia có tỉ lệ các loài động, thực
vật quí hiếm và đặc hữu có ý nghĩa toàn cầu (Regalado và các cộng sự, 2005).
Những đánh giá ban đầu (Tolmachev, 1974; Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997; Phan Kế
Lộc, 1998) cho biết rằng có khoảng 9600 loài thực vật bậc cao có mạch bản địa đã
thống kê được ở Việt Nam. Thêm vào đó, có khoảng 750 loài cây trồng được nhập
nội và tự nhiên hoá. Theo đánh giá gần đây nhất, ở Việt Nam đã biết khoảng 10.350
loài thực vật, thuộc 2.256 chi và 305 họ (Phan Kế Lộc, 1998). Các nghiên cứu đó
cũng dự đoán có khoảng 240 loài sẽ được phát hiện và bổ sung cho hệ thực vật Việt
Nam (Phan Kế Lộc, 1998). Hệ thực vật Việt Nam không chỉ phong phú về thành
phần loài mà còn giầu các loài đặc hữu, bổ sung thêm vào ý nghĩa về sinh học và bảo
tồn. Tỷ lệ của các loài đặc hữu của Việt Nam được ước đoán có khoảng 20% (Pocs
Tamas, 1965) đến 50% (Thái Văn Trừng, 1978). Một đánh giá khiêm tốn hơn (Võ
Quý, 1995) cho rằng ở Việt Nam chỉ có khoảng 10% số loài và 3% số chi là đặc hữu.
Nguồn tài nguyên thực vật Việt Nam rất đa dạng và phong phú, bao gồm:
Nhóm cây cho gỗ khoảng 700 loài; nhóm cây làm thuốc gần 4000 loài; nhóm cây
cho dầu nhựa (khoảng 600 loài cho tinh dầu; khoảng 600 loài cho dầu béo và nhiều
loài cho nhựa và nhựa dầu,..); nhóm cây ăn được; nhóm cây cho tanin và làm thuốc
nhuộm; nhóm cây cảnh và cây bóng mát,...
Kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học tại Bắc Hướng Hoá các năm 2004
và 2005 của tổ chức Birdlife Quốc tế Chương trình Việt Nam phối hợp với Chi cục
kiểm lâm Quảng Trị do tổ chức MacArthur tài trợ đã đánh giá rằng rừng và tài
nguyên rừng của Bắc Hướng Hoá có tính đa dạng sinh học cao mang tầm vóc quốc
gia và quốc tế. Khu vực hiện có quần thể của nhiều loài quý hiếm có liên quan đến
bảo tồn như: Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Bò tót (Bos gaurus), Voọc hà tĩnh
(Semnopithecus laotum hatinhensis), Voọc vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Vượn
đen má trắng (Nomascus leucogenys) và Thỏ vằn. Rừng Bắc Hướng Hoá là một phần
của khu vực chim đặc hữu của vùng đất thấp miền Trung Việt Nam, là điểm nóng về
đa dạng sinh học, tại đây đã phát hiện nhiều loài chim đặc hữu và quý hiếm như Gà
lôi lam mào trắng, Gà So trung bộ, Trĩ sao, Hồng hoàng, Niệc nâu và nhiều loài chim
có vùng phân bố hẹp. Về thực vật, kết quả điều tra ban đầu đã ghi nhận được 920
loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ; trong đó có 17 loài quý hiếm
được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) và 23 loài được ghi trong Danh lục Đỏ
Thế giới (IUCN, 1994). Trong tổng số những loài thống kê được có 125 loài cây
cung cấp gỗ, 161 loài cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm thực
phẩm (ăn được).
2
II. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Lịch sử hình thành
Ngày 8/12/2005 Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Trị đã có công văn số
2036/TT-UB đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành lập hai khu
rừng đặc dụng của tỉnh Quảng Trị là Bắc Hướng Hoá và khu cảnh quan Đường Hồ
Chí Minh huyền thoại. Gần 1 năm sau đó, ngày 13/07/2005, Bộ NN&PTNT nêu rõ
hai khu rừng nói trên đã được Bộ đưa vào danh mục các khu rừng đặc dụng Việt
Nam quy hoạch đến 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Đồng
thời, Bộ cũng yêu cầu tỉnh Quảng Trị phải xây dựng những luận chứng kinh tế kỹ
thuật trong việc thành lập khu rừng đặc dụng để trình Bộ NN&PTNT thẩm định để
có cơ sở vững chắc và chiến lược nhằm bảo vệ đa dạng sinh học tiêu biểu của vùng,
duy trì và phát triển chức năng phòng hộ quan trọng của rừng Bắc Hướng Hoá đối
với phát triển kinh tế địa phương.
Thực hiện công văn của Bộ NN&PTNT, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Trị đã
chỉ định Chi cục Kiểm lâm chịu trách nhiệm thực hiện công văn trên của Bộ. Với sự
hỗ trợ của tổ chức BirdLife Quốc Tế Chương trình Việt Nam cả về tài chính và
chuyên gia quy hoạch bảo tồn, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị đã tiến hành dự án
“Xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị”. Các hoạt động
thực địa được triển khai, bao gồm thu thập số liệu đa dạng sinh học, đánh giá tình
trạng rừng, xác định ranh giới quy hoạch ngoài thực địa, thu thập kinh tế xã hội ở 5
xã vùng đệm của huyện Hướng Hoá và 1 xã của Đakrông nhằm xây dựng dự án đầu
tư thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, giai đoạn 2006 – 2010.
Ngày 05/12/2006 Bộ NN&PTNT đã có văn bản số 3251/BNN-LN gửi UBND
tỉnh về việc thẩm định kết quả quy hoạch rà soát ba loại rừng của tỉnh Quảng Trị,
trong đó diện tích quy hoạch cho khu bảo tồn Bắc Hướng Hoá là 25.200 ha.
Ngày 14/03/2007, UBND tỉnh đã ra quyết định số 479/QĐ-UBND về việc
phê duyệt Dự án quy hoạch và đầu tư Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá.
2.1.2. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa cách trung tâm huyện Hướng Hóa
khoảng 50 km về phía Bắc của tỉnh Quảng Trị, nằm trên trục đường Hồ Chí Minh
nhánh Tây. Phía Bắc giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp với nước Cộng hoà
Dân chủ nhân dân Lào, phía Đông và phía Nam giáp với 6 xã của huyện Hướng Hoá
và Vĩnh Linh. Toàn bộ khu vực bảo tồn được giới hạn ở toạ độ địa lý:
- Từ 16o43’22’’ đến 16o59’55’’ vĩ độ Bắc.
- Từ 106o33’00’’ đến 106o47’03’’ kinh độ Đông.
2.1.3. Địa hình
Khu bảo tồn có địa hình là vùng núi thấp ở phía Nam của dải Trường Sơn Bắc
với dãy núi cao trên 1000 m chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam dọc ranh giới
hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Địa hình nâng cao hơn về phía tỉnh Quảng Trị,
3
chia cắt mạnh, độ dốc cao từ 15 – 25o, nhiều nơi còn có dốc đứng. Các đỉnh cao tiêu
biểu của khu vực bao gồm: Động Sa Mù (1550 m) gần đèo Sa Mù và Động Voi Mẹp
hay còn gọi là Voi nằm có độ cao 1771 m ở phía Đông Nam khu bảo tồn. Ngoài địa
hình đồi và núi đất còn có hai dãy núi đá vôi, một dãy ở gần trung tâm và chạy dọc
theo hướng Đông – Tây, thuộc ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt, một dãy
khác chạy theo hướng Bắc – Nam và nằm giữa trung tâm của xã Hướng Việt.
2.1.4. Địa chất
Khu vực nghiên cứu nằm trên hệ địa máng - uốn nếp Caledon Việt – Lào ở
Bắc Trung Bộ, giới hạn bởi đứt gãy sâu sông Mã ở phía Bắc và đứt gãy sâu Tam Kỳ
- Hiệp Đức ở phía Nam. Các địa máng được cho là phát triển từ kỷ Cambri hoặc có
thể từ Sini cho đến cuối Silur hoặc đầu Đevon. Trên chúng đã hình thành các lớp phủ
nền trẻ Epicaledon Paleozoi giữa-muộn. Hầu hết các núi trung bình được cấu tạo bởi
đá granit phân bố khá phổ biến trong vùng. Các núi thấp được cấu tạo bởi đá trầm
tích lục nguyên tuổi Ordovic-Silur gồm có cát kết Mica, cát kết phân phiến, bột kết
và sắt kết phân phiến bị biến chất yếu ở dạng Xirixit. Ngoài đá granit nêu trên là các
đá biến chất yếu tuổi Cambri-Ordovic hạ, bao gồm phiến thạch kết tinh, phiến thạch
Xirixit, Pyrit, cát kết bị quarzit hoá.
2.1.5. Đất và tình hình sử dụng đất
Cho đến nay, các loại đất đã được nghiên cứu tại khu bảo tồn bao gồm:
- Đất feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp phát triển trên đá trầm tích và biến
chất có kết cấu hạt mịn.
- Đất feralit vùng đồi phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt thô.
- Đất feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá trầm tích và biến
chất có kết cấu hạt thô.
- Đất feralit vàng nhạt núi thấp phát triển trên đá hỗn hợp.
- Đất feralit vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính chua.
- Đất phù sa sông suối.
Các loại đất nông lâm nghiệp bao gồm :
- Đất sản xuất nông nghiệp: Toàn khu vực có 25.929,96 ha đất sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp, chiếm 3,91% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, bình quân khoảng
2.700m2/người, gấp đôi bình quân chung của tỉnh (1.200m2/người).
- Đất lâm nghiệp: Đất lâm nghiệp có rừng khoảng 23.271,8 ha tương đương
34,92% diện tích tự nhiên của tỉnh.
- Đất phi nông nghiệp: Diện tích 559,76 ha, chiếm khoảng 0,84% tổng diện tích
đất tự nhiên của tỉnh.
- Đất chưa sử dụng: Theo thống kê đất chưa sử dụng, sông suối, núi đá toàn
tỉnh có khoảng 40.157,05 ha, chiếm 60,25% tổng diện tích đất tự nhiên.
2.1.6. Khí hậu
Khu BTTN Bắc Hướng Hóa có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh,
mưa hè thu đông, thời kỳ khô từ tháng 1 đến tháng 5 (Biểu đồ khí hậu Việt Nam).
Các tháng có lượng mưa nhiều nhất là 8, 9 và 10. Từ tháng 3 đến tháng 6 thường có
gió Lào khô và nóng.
4
Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm là 24 – 25 oC tương đương với tổng nhiệt năm
khoảng 8.300 – 8.500oC. Mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm ướt do ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng này ở vùng đồng bằng xuống
dưới 20oC, còn trong các vùng có độ cao từ 400-500 m trở lên thường xuống dưới
20oC và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 15 oC ở khe Sanh vào tháng
12 và tháng 1. Ngược lại, vào mùa hè, do có sự hoạt động của gió Tây nên rất khô và
nóng, có tới 3 đến 4 tháng (từ tháng 3 đến tháng 7) nhiệt độ trung bình lớn hơn 25 oC,
tháng nóng nhất thường là tháng 6 hoặc tháng 7, nhiệt độ trung bình lên đến 29 oC.
Nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 39 – 40 oC, độ ẩm trong các tháng này cũng xuống rất
thấp, dưới 30%.
Chế độ mưa ẩm
Vùng nghiên cứu có lượng mưa rất lớn, lượng mưa trung bình năm đạt tới
2400 – 2800 mm hoặc lớn hơn và tập trung chủ yếu vào mùa mưa. Hai tháng có
lượng mưa lớn nhất là tháng 9 và tháng 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa cả năm.
Lượng mưa bắt đầu giảm vào tháng 2 và thấp nhất vào tháng 5. Tuy vậy, lượng mưa
trung bình của tháng 5 ở Khe Sanh cũng đạt tới 157,4 mm. Độ ẩm không khí trong
vùng đạt tới 85 – 90%, trong mùa mưa độ ẩm lên tới 91%. Mặc dù vậy những giá trị
cực đoan thấp vẫn đo được trong thời kỳ khô nóng kéo dài.
2.1.7. Thuỷ văn
Do địa hình có độ dốc lớn nên sông suối xuất phát từ đây thường ngắn, dốc đổ
ra biển theo hướng Đông hoặc Đông Bắc. Các hệ thống sông trong khu vực nghiên
cứu bao gồm:
- Phía Đông Bắc là sông Bến Hải, là nơi đổ vào tất cả các con suối bắt nguồn từ
sườn Đông, đổ ra biển ở Cửa Tùng.
- Phía Tây Bắc và Nam của khu bảo tồn là thượng nguồn của sông Xê Păng
Hiêng chảy qua Lào vào sông Mê Kông.
- Phía Đông Nam, bao gồm Bắc động Sa Mù và Đông động Voi Mẹp là thượng
nguồn của sông Cam Lộ và đổ ra biển Đông ở biển Cửa Việt.
- Phía Nam là hệ thống suối của sông Rào Quán, một chi lưu của sông Quảng
Trị (Thạch Hãn). Công trình thuỷ điện Rào Quán xây dựng trên dòng sông này.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.2.1. Dân số
Các thông tin về kinh tế - xã hội được thu thập ở 5 xã nằm trong quy hoạch
khu BTTN Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, bao gồm: Hướng Lập, Hướng Phùng,
Hướng Sơn, Hướng Linh, Hướng Việt, trong đó Hướng Lập là xã mới thành lập theo
Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 02/01/2004 của Chính phủ.
Tổng dân số của 5 xã là 10.353 người, số hộ là 2.084, trong đó có 1.448 hộ là
người Vân Kiều (chiếm 69,4% tổng số hộ của 5 xã).
Tổng số hộ nghèo của 5 xã là 967 hộ, chiếm 46,4% tổng số hộ. Xã Hướng
Phùng là xã có tổng số hộ đói nghèo cao nhất (371 hộ), chiếm 39,3% tổng số hộ. Xã
có tỷ lệ đói nghèo cao nhất là Hướng Sơn, 65,5% tổng số hộ trong xã.
5
2.2.2. Giáo dục y tế
Đa số các xã trong vùng đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, nhưng
không có trường trung học, công tác phổ cập học sinh trong độ tuổi đến trường vẫn
chưa huy động hết. Đội ngũ giáo viên còn thiếu, chất lượng giảng dạy chưa cao. Do
vậy, trình độ văn hoá nói chung còn thấp. Nguyên nhân có thể do điều kiện kinh tế
của người dân trong vùng còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa.
2.2.3. Cơ sở hạ tầng
Hệ thống đường giao thông: các xã trong vùng đều có đường ô tô đi đến trụ
sở UBND xã. Tuy nhiên, khi có mùa mưa giao thông đi lại liên xã rất khó khăn.
Hệ thống điện: có đến các trung tâm xã nhưng các thôn bản ở vùng xa vẫn
chưa có.
Hệ thống thông tin liên lạc: Còn nhiều khó khăn, chỉ có một số điểm trung
tâm, còn lại chưa có đường dây hữu tuyến cũng như vô tuyến.
2.2.4. Sản xuất Nông nghiệp
Tổng diện tích đất trồng lúa trong vùng là 1.106,8 ha (trồng lúa nước và lúa
nương), phần lớn là ruộng một vụ, còn lại là 1.061,5 ha đất nông nghiệp để trồng cây
hàng năm và cây lâu năm, chủ yếu là các loại cây hoa mầu như ngô, khoai lang, sắn,
lạc, thuốc lá. Năng suất lúa bình quân của 5 xã thuộc huyện Hướng Hoá là 25,1
tạ/ha/năm, trong đó vụ Đông Xuân là 31,8 tạ/ha/năm, lúa nước: 30,8 tạ/ha/năm, lúa
rẫy: 12,7 tạ/ha/năm, ngô: 13,6 tạ/ha/năm, khoai lang: 55,7 tạ/ha/năm, sắn: 171
tạ/ha/năm.
Trồng cây công nghiệp lâu năm đang là định hướng phát triển kinh tế của 5 xã
vùng đệm. Cây được trồng chủ lực là cây cà phê với năng suất hiện nay trung bình là
10 tấn cà phê tươi/ha. Cây cà phê mang lại nguồn thu đáng kể cho người dân. Tuy
nhiên, diện tích trồng cây cà phê chủ yếu tập trung tại xã Hướng Phùng.
2.2.5. Lâm nghiệp
Dự án sản xuất lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng do bộ
Quốc phòng thực hiện theo chương trình 661. Phạm vi dự án trên địa bàn 5 xã:
Hướng Lập, Hướng Việt, Hướng Phùng, Hướng Sơn và Hướng Linh có quy mô như
sau:
- Trồng mới và chăm sóc ba năm tiếp theo: 4.000 ha.
- Bảo vệ rừng hiện có: 700 ha.
- Khoanh nuôi có trồng bổ sung cây lâm nghiệp: 2.000 ha.
- Xây dựng đường ranh cản lửa: 50 km.
- Biển báo bảo vệ rừng: 15 bảng.
- Làm đường nội vùng: 40 km.
Đoàn KTQP 337 đã phối hợp với sở NN&PTNT tỉnh Quảng Trị tổ chức thực
hiện dự án. Hiện tại, đoàn đang quản lý, bảo vệ một số diện tích rừng khu vực đèo Sa
Mù. Diện tích này cũng nằm trong phương án quy hoạch của khu BTTN Bắc Hướng
Hoá. Trong khu vực dự án có 1.800 ha rừng tự nhiên thuộc tiểu khu 641, 657 và 670
nằm trong quy hoạch khu bảo tồn Bắc Hướng Hoá. Dự án tổ chức giao khoán bảo vệ
rừng và kết thúc hợp đồng vào năm 2009. Như vậy, diện tích trên cũng sẽ không ảnh
hưởng đến quy hoạch lâu dài cho khu vực BTTN Bắc Hướng Hoá.
6
2.2.6. Chăn nuôi gia súc
Tình hình chăn nuôi gia súc trong vùng tương đối phát triển, đặc biệt là chăn
nuôi đại gia súc. Theo thông tin của niên giám thống kê tỉnh, kể từ năm 2000 đến
nay, số lượng các đàn gia súc của tất cả các xã đều tăng, đóng góp đáng kể cho thu
nhập của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên, chăn thả chủ yếu là thả rông nên chất lượng
đàn gia súc ở đây không cao.
Gia súc chính được chăn, thả ở huyện Hướng Hóa là: Trâu, Bò, Lợn, Dê,
Ngựa; trong đó, Trâu, Bò, Lợn là các gia súc được tập trung nuôi và có số đàn nhiều
nhất. Cả năm huyện có 1.934 đàn Trâu, 2.073 đàn Bò và 1.637 đàn Lợn. Dê và Ngựa
ít hơn, có 175 đàn Dê và 8 đàn Ngựa. Huyện Hướng Linh có số đàn gia súc các loại
nhiều nhất, hơn 2.000 đàn. Các huyện khác có số lượng thấp hơn giao động trên dưới
1.000 đàn.
2.2.7. Công nghiệp và dịch vụ
Sự phát triển các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ ngoài quốc
doanh trong vùng vẫn còn kém phát triển và số lượng ít. Tổng số cơ sở công nghiệp
ngoài quốc doanh trong vùng là 32 cơ sở, tổng số cơ sở thương mại và dịch vụ ngoài
quốc doanh là 68 cơ sở.
2.3. Thảm thực vật rừng
Thảm thực vật rừng là các kiểu rừng kín thường xanh. Ở độ cao dưới 600 m là
rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600 m trở lên là kiểu rừng kín thường
xanh á nhiệt đới. Tuy nhiên, diện mạo của rừng kín thường xanh khu vực Bắc Hướng
Hoá đã bị thay đổi bởi các hoạt động của con người như: đốt nương làm rẫy, khai
thác lâm sản và chiến tranh.
2.3.1. Thảm thực vật nguyên sinh
2.3.1.1. Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (phân bố dưới 600 m)
Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất
Kiểu rừng này chiếm chủ yếu diện tích của rừng, thành phần thực vật có tính
đa dạng cao, đặc biệt là họ thực vật nhiệt đới ẩm, cây lá rộng xanh quanh năm, cây
to, tán lớn, tròn. Những họ thường gặp là: Xoan (Meliaceae), Bồ hòn (Sapindaceae),
Trám (Burseraceae), Côm (Eleocarpaceae), Sim (Myrtaceae), Thị (Ebenaceae), Na
(Annonaceae), Đậu (Fabaceae), Dẻ (Fagaceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae), Long não
(Lauraceae), Dung (Simplocaceae), Trôm (Sterculiaceae), Trúc đào (Apocynaceae),
Mùng quân (Flacourtiaceae), Nhân sâm (Araliaceae), Cà phê (Rubiaceae), Dâu tằm
(Moraceae). Nhóm dây leo gỗ thường to và dài, có thể dài đến 20 – 30 m, đường
kính có thể đạt tới 10 cm. Thường gặp các loài thuộc các họ: Trúc đào
(Apocynaceae), Na (Annonaceae), Đậu (Fabaceae), Nho (Vitaceae), Thiên lý
(Asclepiadaceae), Cau (Arecaceae). Cây gỗ nhỏ, cây bụi dưới tán thường gặp các
loài trong họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ôrô (Acanthaceae), họ Mua
(Melastomataceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Cau (Arecaceae), Dương xỉ mộc
(Cyatheaceae). Trong tầng có cỏ quyết: phổ biến là gặp các loài thuộc ngành Dương
xỉ (Polypodiophyta); nhiều loài thuộc họ Ráy (Araceae), họ Gừng (Zingiberaceae),
họ Thài lài (Commelinaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ở những khoảng trống
nhiều ánh sáng có thể có mặt nhiều loài của chi Hedyotis thuộc họ Cà phê
7
(Rubiaceae), nhiều loài cỏ thuộc họ Hoà thảo (Poaceae), một số loài thuộc họ Cúc
(Asteraceae). Trên các khe, vách nơi ẩm gặp một số loài thuộc họ Thu hải đường
(Begoniaceae).
Về đặc trưng tầng tán, sự phân tầng được thể hiện rất rõ thành năm tầng. Tầng
1 là tầng vượt tán (tầng nhỏ), có chiều cao 20–25 m. Các loài thường gặp trong tầng
này là cây gỗ cao to, đường kính dao động từ 40–80 cm, đôi chỗ có thể có cây đạt
đường kính 1-1,2 m như: Cà ná mũi nhọn (Canarium subulatum) và Trám trắng
(Canarium album) thuộc họ Trám (Burseraceae). Tầng 2 (tầng ưu thế sinh thái) có
cây gỗ với chiều cao tương đối đồng đều (10-15 m), tán tròn tạo ra một màn có độ
che phủ cao đạt tới 50-60%. Cây gỗ có đường kính trung bình đạt 30-40 cm, thể hiện
tính đa dạng cao của các họ thực vật nhiệt đới ẩm và lá rộng thường xanh. Những họ
có số lượng cá thể lớn bao gồm: Dẻ (Fagaceae), Đậu (Fabaceae), Xoan (Meliaceae),
Bồ hòn (Sapindaceae). Tầng 3 (Tầng dưới tán/tầng cây bụi và gỗ nhỏ) có chiều cao
7-10 m. Thường gặp các cây tái sinh của hai tầng trên và những loài cây gỗ nhỏ
thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Long não (Lauraceae),
họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ
Dâu tằm (Moraceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Dẻ
(Fagaceae), họ Mùng Quân (Flacourtiaceae), họ Na (Annonaceae), họ Xoan
(Meliaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dung
(Simplocaceae), họ Máu chó (Myristicaceae). Những nơi ẩm thung lũng có Dương xỉ
gỗ (chi Cyathea), nhiều loài thuộc chi Ficus (họ Dâu tằm – Moraceae), một số loài
thuộc chi Sarauja (họ Dương đào – Actinidiaceae), một hai loài Sổ (Dellenia, họ Sổ
Delleniaceae) và cùng những khu ven suối thung lũng có sự tham gia của Nứa (họ
Poaceae). Tầng 4 (tầng cây bụi) có chiều cao 3-5 m, thường là các cây bụi chịu rợp
sống dưới tán. Phổ biến hơn cả là họ Mua (Melastomataceae), họ Ô rô
(Acanthaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cau (Arecaceae) với những cây tái sinh
của tầng 1, 2, 3 do bị che rợp sống còi cọc. Tầng 5 (tầng thảm tươi/tầng cỏ quyết)
phát triển yếu, thưa thớt. Chỉ ở những khu vực ven suối thung lũng thấp, nơi có ánh
sáng, tầng này mới thể hiện rõ, ưu thế của tầng này thuộc các loài trong ngành
Dương xỉ (Polypodiophyta), nhiều loài thuộc họ Ráy (Araceae), họ Gừng
(Zingiberaceae), họ Hoàng tinh (Maranthaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Thài lài
(Commelinaceae), họ Hoà thảo (Poaceae).
Kiểu phụ thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới
trên núi đá vôi
Rừng trên núi đá vôi có độ che phủ thấp, không tạo được một màn khép tán
liên tục như kiểu rừng trên núi đất. Tuy vẫn thể hiện 5 tầng về mặt cấu trúc tầng tán
nhưng ưu thế thực vật của vùng này lại là những loài thực vật chịu khô và phát triển
trên núi đá vôi với nhũng loài không gặp trên núi đất. Những họ có số lượng loài
phong phú là Trôm (Sterculiaceae), Sim (Myrtaceae), Thị (Ebenaceae), Hoa tán
(Apiaceae). Nhiều loài thuộc chi Cóc rừng (Spondias), Dâu gia xoan (chi
Allospondias), Xuyên cóc (chi Choerospondias), Sưng đào (chi Semecarpus) thuộc
họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Nhiều loài Bình linh (chi Vitex) họ Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae). Một số loài thuộc họ Du (Ulmaceae), chi Sếu (Celtis). Nhiều loài họ
Đay (Tiliaceae). Đặc biệt phải kể đến cây Phay rất thường gặp ở các thung lũng ven
8
suối núi đá vôi (Duabanga grandiflora) và một số loài thuộc chi Đùng đình
(Caryota). Nhiều loài thuộc chi Lụi (Rhapis), loài Đùng đình (Caryota bacsonensis)
cây to đường kính tới 50 cm, cao 10-15 m rất đặc trưng cho vùng núi đá vôi. Đặc
biệt ở kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi thảm thực vật bò
leo trên đá rất nhiều loài thuộc họ Ráy (Araceae) và họ Hồ tiêu (Piperaceae), cũng
trong tầng thảm tươi là sự có mặt của các loài Lá han: Han trâu (Dendrocnide
urentissima), Han tím (Laportea interrupta), Han bò (Laportea thorelli) khi cọ sát
vào da rất ngứa và nhiều loài khác thuộc họ Gai (Urticaceae). Trên những thành vách
đá có nhiều loài trong chi Ficus nhóm cây nhựa mủ chịu khô hạn. Những nơi ẩm
thường gặp một số loài Ngũ gia bì (Schefflera) chịu khô hạn tốt, rế nổi bám vào các
khối hay thành vách đá phát triển mạnh.
2.3.1.2. Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (phân bố từ độ cao trên 600
m)
Kiểu thảm thực vật thường xanh á nhiệt đới núi thấp phân bố từ độ cao 600 m
trở lên chỉ gặp trên núi đất (khu vực núi đá vôi ít, không có các đỉnh cao). Cấu trúc
phân tầng không đồng nhất ở các khu vực khác nhau. Ở vùng thung lũng, nơi bằng
có dạng điển hình 5 tầng gần giống với kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt
đới trên núi đất (Tầng 1: Tầng vượt tán; Tầng 2: Tầng ưu thế sinh thái; Tầng 3: Tầng
cây gỗ nhỏ và bụi; Tầng 4: Tầng dưới tán - Tầng cây bụi; Tầng 5: Tầng cỏ quyết thảm tươi). Nhưng ở những triền núi dốc hay đỉnh núi, do bị bào mòn tầng đất mặt
mỏng (có nhiều đá lộ đầu), yếu tố ánh sáng mạnh cộng với tác động của gió đã ảnh
hưởng mạnh tới hệ thực vật: không có cây to cao, ít thấy cây vượt tán, rừng chỉ có 4
tầng. Các đỉnh cao, các chóp núi thường có gió liên tục, cường độ, mật độ ánh sáng
phân bố đều, cộng với tầng đất mặt rất mỏng chỉ thích hợp cho một số loài ưa lạnh,
chịu gió, phát triển được trên tầng đất nghèo dinh dưỡng, nên thành phần thực vật
nghèo nàn; Tầng tán đơn giản, chỉ thấy rõ 3 tầng.
Tầng đất mặt rất mỏng, gió thường xuyên, lại có mù luôn xuất hiện nên chỉ
thấy rải rác có cây bụi và ưu thế là những loài thuộc họ Hoà thảo (Poaceae), Chè vè
(Miscanthus floridulus), Chít (Thysanoloena maxima) hay Trúc gai (Sinarundinaria
grifithiana) phát triển mạnh.
Những khác biệt lớn phân biệt kiểu thảm này với kiểu thảm thực vật thường
xanh mưa mùa nhiệt đới là sự có mặt của các loài Hạt trần. Rất phổ biến trong khu
vực này là loài Thông tre lá dài (Podocarpus neriifolius), Thông nàng – Thông lông
gà (Dacrycarpus imbricatus), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri). Trong kiểu
thảm này ưu thế tuyệt đối thuộc về các loài Dẻ ở một số vị trí Dẻ ưu thế chiếm 5060% cá thể trong quần xã. Trong kiểu thảm này còn có sự có mặt của một số loài
thuộc họ Thích (Aceraceae), một số loài Chẹo (Engelhartia); loài Chắp tay
(Symingtonia populnea) thuộc họ Hồng quang (Hamamelidaceae). Nhiều loài thuộc
chi Eurya, Adinandra, Camellia, Godonia; Vối thuốc – Chò sót (Shima wallchii)
thuộc họ Chè (Theaceae); Dưới tán rừng thuộc đai này ta còn gặp loài Trúc gai
(Sinarundinaria grifithiana) có nhiều cá thể, những nơi sáng chiếm ưu thế tuyệt đối.
Cũng trong kiểu thảm này gặp nhiều loài cây gỗ có giá trị: Giổi lá láng (Michelia
foveolata), Giổi găng (Paramichella baillonii), Sến (Madhuca pasquieri).
9
2.3.2. Thảm thực vật thứ sinh
Những hoạt động của con người như canh tác nương rẫy, khai thác gỗ và lâm
sản đã ảnh hưởng không nhỏ đến thảm thực vật nguyên sinh của rừng. Một số nơi,
thảm thực vật còn bị phá huỷ bởi chất độc hoá học trong chiến tranh. Sự mất đi của
thảm thực vật nguyên sinh đã dẫn đến sự tái sinh của cây gỗ, cây bụi và cây cỏ, tạo
nên các thảm thứ sinh. Tuỳ thuộc vào mức độ tác động và thời gian phục hồi, thảm
thực vật thứ sinh sẽ có nét đặc trưng khác nhau về diện mạo, cấu trúc, thành phần hệ
thực vật. Tuy nhiên, tính đa dạng sinh học của thảm thứ sinh sẽ thấp hơn thảm
nguyên sinh.
Rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy
Tại khu vực Bắc Hướng Hoá chủ yếu có dân tộc Vân Kiều sinh sống ở các
khu vực thấp ven suối và canh tác nương rẫy không xa bản. Cây Ngô và Lúa được
trồng chủ yếu, rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy không nhiều. Những vùng sau
canh tác được bỏ hoang từ 8-10 năm, rừng thứ sinh hình thành nhiều. Nét đặc trưng
của rừng thứ sinh sau nương rẫy là hệ dây leo nói chung. Dây leo gỗ nói riêng rất ít.
Tầng Cỏ quyết đơn điệu, nghèo nàn, độ phủ tầng này rất thấp. Tầng bì sinh (Phong
lan, Dương xỉ sống bám) hầu như không có; có lẽ do độ ẩm thấp và chưa đủ thời
gian cho những loài bì sinh, dưong xỉ hay Phong lan phát triển trở lại. Mặc dù có sự
phân tầng nhưng tầng tán chưa thể hiện rõ rệt. Tầng 1 (Tầng ưu thế sinh thái), tầng
này với các cây gỗ ưa sáng phát triển trở lại từ chồi hay hạt, cùng tuổi có chiều cao
dao động từ 8-10 m, đường kính dao động từ 10-15 cm. Phổ biến ở tầng này là loài
Bời lời (Litsea), Kháo (Machilus), Nang trứng (Lindera) thuộc họ Long não
(Lauraceae), một số loài chi Ba soi (Macaranga spp.), chi Ba bét (Mallotus spp.), chi
Sòi tía (Sapium spp.), chi Bi điền (Bridelia spp.), loài Vạng trứng (Endospermum
sinensis) thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Một vài loài Trám (Canarium); Ba gạc
lá xoan (Euolia melifolia), Bưởi bung (Acronychia pedunculata) thuộc họ Cam
(Rutaceae), Ngát lông (Gironniera subaequalis), Hu đay (Trema orientalis), Sếu
(Celtis sinensis) thuộc họ Du (Ulmaceae). Một số loài họ Đậu (Fabaceae); họ Bồ hòn
(Sapindaceae), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Những khu vực ẩm là các loài thuộc
chi Ficus. Tầng 2 (Tầng gỗ nhỏ cây bụi), có chiều cao 5-7 m. Thường gặp các loài
thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), chi Chè (Camellia), chi Súm (Eugenia) họ Chè
(Theaceae). Một số loài chi Cò ke (Grewia) họ Đay (Tilliaceae). Tầng 3 (tầng cây
bụi dưới tán), tầng này không dày rậm, thường gặp một số loài thuộc họ Mua
(Melastomataceae), họ Cà phê (Rubiaceae), chi Lồng đèn (Clerodendron) họ Cỏ roi
ngựa (Verbenaceae); cây Lụi (Rapis excelsa) họ Cau (Arecaceae), có nơi có số lượng
cá thể nhiều. Tầng 4 (Tầng cỏ quyết), trong tầng này của rừng thứ sinh gặp rất ít các
loài dương xỉ. Phổ biến hơn là các loài họ Gừng (Zingiberaceae); các loài trong họ
Ráy (Araceae). Những nơi có ánh sáng nhiều, gặp một số loài cỏ (họ Hoà thảo Poaceae). Nơi ẩm có thể có một số loài họ Cà phê (Rubiaceae), chi Cỏ vừng
(Hedyotis); một số loài thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), chi Staurogyne và chi
Strobilanthes.
Trảng cây bụi, cỏ cao
10
Kiểu thảm này chiếm phần lớn diện tích của rừng, được đặc trưng bởi các loài
cỏ cao thuộc họ Hoà thảo (Poaceae): Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít
(Thysanolaena maxima), Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata
cylindrica), Cỏ lau (Imperata conferta). Cấu trúc đơn điệu, những loài cỏ cao có
chiều cao 1-2 m, độ phủ đạt 70-80%, rất ít những khoảng trống, rải rác có những
cụm cây bụi, cây gỗ nhỏ, những loài ưa sáng cao 5-8 m. Thành phần cây bụi có sự
khác biệt ít nhiều phụ thuộc vào nguyên nhân làm mất rừng nguyên sinh và kiểu
thảm nguyên sinh vốn có tại đó.
Ở những khu vực thấp dưới 600 m, đất sau nương rẫy bỏ hoang, trảng cây bụi
cỏ cao là trạng thái bắt đầu của diễn thế thứ sinh. Cây bụi cỏ cao phát triển nhanh, ưu
thế là những cây ưa sáng phát triển nhanh: Hu đay (Trema orientalis; Trema
cannabina), Ba soi (Macaranga spp.), Ba bét (Mallotus spp.). Một số loài Bời lời,
chi Bời lời (Litsea), Vối thuốc (Schima wallichii), Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia),
Bưởi bung (Acronychia pedunculata), Trám (Canarium spp.), Vạng trứng
(Endospermum sinensis), một số loài họ Dẻ (Fagaceae) và do đất ẩm xốp, các loài
cây như Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ lau
(Imperata conferta) phát triển mạnh tạo nên các bụi, cụm lớn phủ cao. Có nơi độ phủ
cao đạt tới 70-80%. Những diện tích rừng nguyên sinh bị rải chất độc hoá học trước
đây và sau đó cháy đi cháy lại nhiều lần: ưu thế tuyệt đối thuộc những loài cỏ cao
(Poaceae), Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ tranh
(Imperata cylindrica), Lau (Imperata conferta) phát triển kém hơn, cằn cỗi, cao 11,5 m, rải rác có cây bụi gỗ nhỏ. Thường là những loài chịu khô, chịu cháy, sống trên
đất thoái hoá nghèo mùn. Phổ biến là các loài họ Dẻ (Fagaceae), họ Óc chó
(Juglandaceae), họ Chè (Theaceae), họ Trâm bùi (Aquifoliaceae), một số loài họ
Long não (Lauraceae), họ Côm (Eleocarpaceae).
11
Trảng thứ sinh tre nứa (Trúc sặt) phân bố ở độ cao 600 m trở lên
Ở độ cao 700-1200 m, ưu thế thuộc về trảng thứ sinh Trúc sặt (Arundinaria
peteloti). Cây cao từ 3-5 m có mật độ khá dày, mọc tản, ưu thế tuyệt đối 60-70% độ
phủ. Rải rác có cây gỗ thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Bồ đề
(Styraceae), họ Trâm bùi (Aquifoliaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), một vài loài họ
Mộc lan (Magnoliaceae), họ Thích (Aceraceae). Tuy nhiên cây gỗ trong kiểu trảng
này thưa thớt. Kiểu trảng thứ sinh này rất đặc trưng, thường phân bố ở độ cao từ
800-1500 m, gặp ở Ba vì, Tam Đảo, Phan Xi Păng. Có lẽ do một tác động nào đó
(cháy rừng, chất độc hoá học) làm cho loài Trúc sặt (Arundinaria petelotii) - Một
loaì thuộc họ Hoà thảo (Poaceae) ưa sáng thân ngầm lan nhanh, phát triển mạnh, ưu
thế tuyệt đối nhờ sức cạnh tranh đã chiếm lĩnh nhanh chóng diện tích rừng nguyên
sinh á nhiệt đới núi thấp bị mất. Cây gỗ, cây bụi thứ sinh phát triển chậm, sức cạnh
tranh kém cũng bị loại, tạo nên kiểu trảng thứ sinh Trúc sặt gần như thuần loài, dầy
đặc và ổn định.
Trảng cỏ cây bụi thấp
Trên những vùng đất bằng chân núi ở gần khu vực bản làng, đất canh tác
nương rẫy diễn ra nhiều năm, đất bạc màu, tầng đất mỏng do bị xói mòn thì những
loài cây bụi cỏ thấp phát triển trên nền đất thoái hoá nghèo dinh dưỡng. Khu vực này
cũng chịu tác động mạnh mẽ của chăn thả gia súc. Mức độ tác động sẽ tạo ra sự khác
nhau về ưu thế của cây bụi hay cây hoà thảo.
Những khu vực đất chưa bị thoái hoá nặng thành phần thực vật phong phú:
thường gặp các loài cây bụi họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ô rô (Acanthaceae), họ Cúc
(Asteraceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) và nhiều loài Mua (chi Melastoma, họ
Mua – Melastomataceae). Một số loài cỏ cao thường gặp trong kiểu thảm này thuộc
chi Cỏ đắng (Paspalum), cỏ Tranh (Imperata cylindrica), cỏ Sả (Cymbopogon spp.),
cỏ Bông (Eragrostis spp.), cỏ Rác (Isachne spp.), cỏ Sâu róm (Sertaria spp.) cao tới
70-80 cm.
Ở những khu vực đất thoái hoá nặng, đất bị lèn chặt do gia súc giẫm đạp
thường xuyên. Tầng cỏ thấp, chỉ cao 10-20 cm và có thể thấp hơn, thường gặp những
loài cỏ thấp (chi cỏ Chỉ Digitaria spp.), cỏ Gà (Cynodon dactyla), cỏ May
(Chrysopogon aciculatus), cỏ Đắng (Paspalum spp.). Cây bụi thấp: họ Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae) – cây Đuôi chuột (Stachytarpheta jamaicensis), một hai loài Trinh nữ
(Mimosa spp.), một vài loài họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae) chi Lindernia,
thường gặp loài Cam thảo nam (Seoparia dulsis).
Những khu vực núi đất chua, cây bụi ưu thế là các loài Mua (Melastoma spp.)
và cỏ thấp. Đơn điệu về cấu trúc, nghèo nàn về thành phần. Một vài loài cỏ thấp
thuộc chi cỏ Đắng (Paspalum spp.) hay thuần loại cỏ May (Chrysopogon
aciculatus), cỏ Gà (Cynodon dactylon), cỏ Chỉ (Digitaria spp.)
2.4. Khu hệ thực vật
Theo điều tra của Chi cục Kiểm lâm, UBND tỉnh Quảng Trị, kết quả ban đầu
đã ghi nhận được 920 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ, trong
đó có 17 loài quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và 23 loài được ghi trong
Sách Đỏ Thế Giới (IUCN 1994).
12
Đa dạng một số họ thực vật ở Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị
Có 13 họ có tính đa dạng cao về số lượng chi và loài. Xét về số lượng chi có
12 họ có số chi từ 7-20 chi. Họ Cà phê (Rubiaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Lan
(Orchidaceae) có số lượng chi cao nhất từ 16-20 chi. Họ Long não (Lauraceae) và họ
Cam (Rutaceae) có số lượng lớn hơn 10 chi (14 và 11). Còn 7 họ khác: họ Mua
(Melastomataceae); họ Dâu tằm (Moraceae); họ Bồ hòn (Sapindaceae); họ Chè
(Theaceae); họ Gai (Urticaceae); họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) và Cau (Arecaceae)
có số chi dao động từ 7 đến 9 chi. Họ Đơn nem tuy chỉ có 3 chi nhưng có đến 19
loài.
Về số lượng loài: Có 5 họ có số lượng trên 20 loài: Long não (Lauraceae);
Dâu tằm (Moraceae) và Cà phê (Rubiaceae) có 24 loài/mỗi họ; Lan (Orchidaceae) có
26 loài; Hoà thảo (Poaceae) có 23 loài; các họ Đơn nem (Myrsinaceae), Cam
(Rutaceae), Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), Mua (Melastomataceae), Gai (Urticaceae),
Chè (Theaceae), Cau (Arecaceae), Bồ hòn (Sapindaceae) có từ 10 loài đến 19 loài.
13
III. ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nhóm tài nguyên thực vật chính, gồm: nhóm cây lấy
gỗ; nhóm cây làm thuốc; nhóm cây cho tinh dầu; nhóm song mây và nhóm cây làm
cảnh, cho bóng mát;... tại khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm kê, đánh giá nguồn tài nguyên thực vật (cây lấy gỗ; cây làm thuốc; cây cho
tinh dầu và dầu; song mây, cây làm cảnh và cho bóng mát); xác định nguồn gen có giá
trị kinh tế làm cơ sở đề xuất một số giải pháp phát triển cho cộng đồng dân cư địa
phương; các phương án sử dụng có hiệu quả, bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài
nguyên thực vật tại Bắc Hướng Hoá.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Thu thập, hệ thống các tài liệu, các kết quả đã có trong và ngoài nước
3.3.2. Tiến hành các đợt điều tra thực địa thu thập mẫu vật và tiêu bản theo các phương
pháp nghiên cứu Thực vật của Nguyễn Nghĩa Thìn, 2007.
Khu vực nghiên cứu quá rộng, địa hình hiểm trở nên chúng tôi dùng phương pháp
khảo sát theo tuyến, xác định toạ độ địa lý tại một số điểm cần thiết, thu thập tiêu bản
thực vật.
- 04 tuyến khảo sát chính được thiết kế qua các kiểu rừng và các sinh cảnh khác
nhau (rừng kín thường xanh với cây lá rộng á nhiệt đới, rừng kín thường xanh mưa ẩm
nhiệt đới ít bị tác động, rừng phục hồi, vùng đệm, sông, suối, thung lũng…) cũng như
các điểm có độ cao khác nhau để thống kê, ghi nhận các loài thuộc các nhóm tài nguyên
thực vật và thấy được sự phân bố của những loài chủ yếu ở đây.
- Thực hiện 20 ô tiêu chuẩn với kích thước phù hợp (20m x 20m) tại một số sinh
cảnh điển hình như khu vực rừng kín thường xanh với cây lá rộng và sinh cảnh rừng kín
thường xanh khu vực vùng đồi thấp để nhận xét đánh giá về những loại cây gỗ, cây bụi
và cây thảo đồng thời đo chiều cao, đường kính và đếm số lượng và phân loại các loài
thực vật trong ô nghiên cứu theo họ, chi và loài.
- Thu thập tiêu bản thực vật; giám định tên được tiến hành theo phương pháp hình
thái so sánh trong phòng thí nghiệm (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) và sắp xếp
theo các nhóm công dụng.
- Điều tra trong nhân dân về việc sử dụng, khai thác, sự phân bố, công dụng của
một số loài thực vật trong các nhóm tài nguyên thực vật khác nhau.
Thu hái và xử lý mẫu
Thu hái mẫu vật từng loài trong khu vực điều tra; mẫu vật có đủ hoa, quả, lá để
xác định tên khoa học.
Lập danh sách quản lý: Mẫu tiêu bản ghi phiếu các thông tin cần thiết:
14
Đánh số quản lý mẫu vật theo thứ tự điều tra theo phiếu chuẩn bị sẵn đầy đủ
thông tin cơ bản thu được tại hiện trường: Số hiệu mẫu tiêu bản; tên địa phương; bộ
phận lấy mẫu; thời gian và địa điểm thu mẫu; ghi chú màu sắc và đặc điểm hình thái đặc
trưng….
Lập sổ quản lý mẫu: đặc điểm đặc trưng nhận thấy tại hiện trường; ghi đầy đủ
thông tin tuyến, theo đợt điều tra sau các đợt điều tra.
Bảo quản mẫu: bảo quản mẫu theo tiêu chuẩn
Mẫu hoa, quả: chụp ảnh tại hiện trường; sắp xếp bảo quản mẫu vật bằng phóoc
mon hoặc bảo quản khô.
Điều tra phỏng vấn
Lập bảng phỏng vấn người dân và cán bộ kiểm lâm khu bảo tồn theo định hướng
các nội dung nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia
Thảo luận và phân tích lấy ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý; các nhà
nghiên cứu thực vật trong điều tra, nghiên cứu tài nguyên thực vật.
Trong phòng thí nghiệm
Các số liệu điều tra được tổng hợp, phân tích nhằm tìm hiểu về tình hình chung
khu vực nghiên cứu bao gồm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, công tác bảo tồn và đa
dạng nguồn tài nguyên thực vật tại khu vực nghiên cứu.
- Xử lý mẫu
- Kiểm định loài và xác định tên khoa học
- Xây dựng bảng danh lục cho các nhóm tài nguyên thực vật
Đánh giá mức độ đa dạng thực vật theo từng nhóm tài nguyên: cây lấy gỗ; cây
làm thuốc; cây cho tinh dầu; song mây; cây làm cảnh và cho bóng mát),...
- Xử lý các mẫu thực vật thu được để xác định hàm lượng và chất lượng tinh dầu.
∗ Xử lý mẫu: Mẫu vật nguyên liệu thu về, rải mỏng, phơi trong bóng râm và
không để ủng, thối (đảm bảo tinh dầu không bị giảm bớt).
+. Xác định hàm lượng tinh dầu bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi
nước có hồi lưu trong thiết bị Clevenger.
+. Tinh dầu thu sau khi chưng cất loại bỏ sạch nước và đưa đi phân tích.
+. Định tính và định lượng các thành phần hoá học của tinh dầu bằng phương
pháp Sắc ký khí (GC), Sắc ký khí - khối phổ (GC/MS) và cộng hưởng từ hạt nhân
(RMN).
+ Tinh dầu được làm khan bằng Na 2SO4 và để trong tủ lạnh ở nhiệt độ < 5°C.
Thiết bị: GC-MSD: Sắc ký khí HP 6890 ghép nối với Mass Selective Detector Agilent
5973. Cột HP-5MS có kích thước 0,25 µm x 30 m x 0,25 mm và HP-1 có kích thước
0,25 µm x 30 m x 0,32 mm. Chương trình nhiệt độ với điều kiện 60°C (2 phút) tăng
15
nhiệt độ 4°/phút cho đến 220°C, sau đó lại tăng nhiệt độ 20°/phút cho đến 260°C. Khí
mang He. Tra thư viện khối phổ: NIST 98.
+ Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (RMN) các bon 13 ( 13C) được ghi trên máy
Brucker AC 200 (50 MHZ) trong CDCl3.
- Thử hoạt tính sinh học của tinh dầu ở một số loài (Giổi lá láng).
aChủng vi sinh vật
Tinh dầu Giổi lá láng được thử hoạt tính với 11 dòng vi khuẩn: 5 Gram, (-) gồm
Enterobacter cloacae, Escherichia coli, Salmonella enterica, Serratia marcescens,
Pseudomonas aeruginosa và 6 gram (+) gồm Bacillus cerus, Bacillus subtilis,
Staphylococcú aureus, Staphylococcus epidermidis, Micrococcus luteus, Enterococcus
faecalis.
aSàng lọc hoạt tính kháng vi sinh vật
Hoạt tính kháng vi sinh vật của tinh dầu được thử nghiệm bằng phương pháp
khuyếch tán trên đĩa thạch. Dịch nuôi cấy vi sinh vật kiểm dịch (0,1 ml môi trường chứa
108 tế bào/ml) được dàn đều trên bề mặt phiến thạch Mueller Hinton. Các đĩa giấy lọc
tròn (đường kính 6 mm) được tẩm với 15 µl các phân đoạn đã vô trùng qua màng lọc
0,45µl và 5 µl dimethyl sulfoxide (DMSO), rồi đặt trên mặt của phiến đã có chủng vi
sinh vật. Ciprofloxacin và penicillin được sử dụng làm chứng dương tính và DMSO là
chứng âm. Sau khi nuôi cấy 370C trong 24 giờ, đo đường kính vùng ức chế sự phát triển
của vi sinh vật (mm). Mỗi mẫu thử được thực hiện lặp lại 3 lần.
aTính nồng độ ức chế tối thiểu
Giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) được xác định với các chủng Bacillus
cereus, Salmonella enterica, Staphylococcus aureus và Staphylococcus epidermidis.
Pha loãng tinh dầu trong môi trường nuôi cấy theo các thang nồng độ từ 2 µl/ml đến
6µl/ml. Giá trị nồng độ ức chế tối thiểu được xác định ở nồng độ cuối cùng mà tại đó
không phát hiện sự phát triển của vi sinh vật.
3.4. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra tổng thể hiện trạng các nhóm tài nguyên thực vật chủ yếu (nhóm cây gỗ,
nhóm cây làm thuốc; nhóm cây cho tinh dầu; song mây; nhóm làm cảnh và cho bóng
mát; ...) tại khu BTTN Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
- Điều tra, thu thập mẫu vật và nghiên cứu một số loài thực vật có giá trị khoa học và
kinh tế cao (các cây thuốc, cây tinh dầu, song mây,...). Giới thiệu một số loài trồng thử
nghiệm tại chỗ đưa vào phát triển trong cộng đồng dân cư vùng đệm nhằm tăng thêm
thu nhập và phát triển kinh tế - xã hội tại vùng đệm của khu BTTN.
- Điều tra, thu thập tri thức bản địa về các nhóm tài nguyên thực vật (đặc biệt là các bài
thuốc quý và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào các dân tộc Pacô và Vân
Kiều).
- Điều tra thành phần loài thực vật cần bảo vệ.
16
17
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. ĐIỀU TRA CÁC NHÓM TÀI NGUYÊN THỰC VẬT CHÍNH
4.1.1. Nhóm tài nguyên thực vật lấy gỗ
Ở Việt Nam, nhóm tài nguyên cây cho gỗ tập trung nhiều nhất vào hai ngành
thực vật tiến hóa nhất trong giới thực vật là Thông (Pinophyta) và Mộc lan
(Magnoliophyta), hiện nay chiếm hầu hết các diện tích đất rừng tự nhiên và gây trồng
[6]. Trong tổng số khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch [1, 6, 7, 10, 11], nhóm
cây cho gỗ có đến 2.500 loài, phân bố trong các họ thực vật lớn hoặc trong các họ tuy số
loài ít nhưng số cá thể lớn, tạo nên các kiểu thảm thực vật tối ưu. Nhóm cây cho gỗ
cung cấp gỗ cho nhu cầu xây dựng, đóng đồ, làm các công trình công nghiệp. Ngoài ra,
nhóm cây cho gỗ này còn đóng góp cho con người sử dụng nhiều sản phẩm quý chứa
trong các cơ quan của cây dùng làm thuốc, làm thực phẩm, dầu nhựa, tanin, chất màu,...
Tại khu BTTN Bắc Hướng Hóa, chúng tôi đã điều tra và thống kê được 117 loài
thuộc 36 họ, 90 chi trong 2 ngành Thực vật bậc cao có mạch (bảng 1), trong đó ngành
Thông (Pinophyta) gồm 2 họ, 5 chi, 6 loài; ngành Mộc lan (Magnoliophyta) gồm 34 họ
(chiếm 94,4%), 85 chi (chiếm 94,4%), 111 loài (chiếm 95%).
Bảng 1. Thành phần thực vật lấy gỗ tại khu BTTN Bắc Hướng Hoá
STT
Tên ngành
Các bậc taxon
Họ
Chi
Loài
Thông (Pinophyta)
2
5
6
Mộc lan (Magnoliophyta)
34
85
111
34
85
111
-
-
-
36
90
117
- Lớp Mộc lan (Magnoliopsida)
- Lớp Loa kèn (Liliopsida)
Tổng
Theo kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học tại Bắc Hướng Hoá của tổ chức
Birdlife Quốc tế Chương trình Việt Nam phối hợp với Chi cục kiểm lâm Quảng Trị, do
tổ chức MacArthur tài trợ tiến hành vào năm 2004 - 2005 cho thấy số lượng loài thực
vật tại khu vực này là 920 loài, thuộc 518 chi và 130 họ. Kết quả nghiên cứu trên cho
thấy tính đa dạng toàn khu hệ Bắc Hướng Hóa, là cơ sở so sánh các taxon theo chức
năng sử dụng (bảng 2).
18
Bảng 2. Tỷ lệ (%) nhóm cây lấy gỗ so với hệ thực vật Bắc Hướng Hoá
Tỷ lệ (%) các bậc taxon
Bậc taxon
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Loài
117
12,7%
Chi
90
17,4%
Họ
36
26,7%
Thành phần loài thực vật lấy gỗ khá đa dạng, có 117 loài (chiếm 12,7% số loài)
của 90 chi (chiếm 17,4% số chi), 36 họ thực vật (chiếm 26,7% số họ) của khu hệ thực
vật rừng Bắc Hướng Hoá.
Những họ có nhiều loài cho gỗ là: Long não (Lauraceae) – 16 loài; Dẻ
(Fagaceae) – 10 loài; các họ Thị (Ebenaceae), Trinh nữ (Mimosaceae), Xoan
(Meliaceae) mỗi họ 8 loài; Côm (Elaeocarpaceae) và Bồ hòn (Sapindaceae) mỗi họ 7
loài. Các họ Na (Annonaceae), Đào lộn hột (Anacardiaceae), Vang (Caesalpiniaceae),
Thầu dầu (Euphorbiaceae) và Trôm (Sterculiaceae) mỗi họ 6 loài; Kim giao
(Podocarpaceae) có 5 loài. Các họ Hồng xiêm (Sapotaceae), Chùm ớt (Bignoniaceae) và
Đậu (Fabaceae) mỗi họ có 4 loài.
Đáng chú ý là những loài cho gỗ tốt như Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum), Gụ
lau (Sindora tonkinensis), Lim vàng (Peltophorum dasyrhachis), Lim xẹt (Peltophorum
pterocarpum), Xoay (Dialium cochinchinense), Dẻ giáp (Castanopsis armata), Vù
hương (Cinnamomum parthenoxylon), Giổi xanh (Michelia mediocris), Lát hoa
(Chukrasia tabularis) và một số loài cây có chất lượng gỗ trung bình trong họ Đậu
(Fabaceae), Thị (Ebenaceae), Xoan (Meliaceae)… Trong số những cây cho gỗ gặp tại
khu BTTN Bắc Hướng Hóa, có 9 loài đã được cấp báo trong Sách Đỏ Việt Nam [2].
Đây là những cây gỗ lớn có kích thước với đường kính thân từ 60 cm trở lên hay bị săn
lùng và khai thác trái phép, cần bảo tồn những loài cây trên và có phương án gây trồng
những cây con từ nguồn giống của những cây này trong khu bảo tồn.
4.1.2. Nhóm tài nguyên thực vật làm thuốc
4.1.2.1. Thành phần các bậc taxon cây làm thuốc
Qua điều tra trong khu vực, chúng tôi đã thống kê được 476 loài cây làm thuốc
thuộc 334 chi, 135 họ trong 5 ngành thực vật bậc cao có mạch (phụ lục 2, bảng 7) là:
Thông đất (Lycopodiophyta), Cỏ Tháp bút (Equisetophyta), Dương xỉ
19
(Polypodiophyta), Thông (Pinophyta) và Mộc lan (Magnoliophyta). Tỷ lệ giữa các
taxon được chỉ ra trong bảng 3.
Bảng 3. Thành phần các bậc taxon thực vật làm thuốc tại khu BTTN Bắc Hướng Hoá
TT
I
II
III
IV
V
Ngành
Thông đất (Lycopodiophyta)
Cỏ tháp bút (Equisetophyta)
Dương xỉ (Polypodiophyta)
Thông (Pinophyta)
Mộc lan (Magnoliophyta)
Lớp Mộc lan (Magnoliopsida)
Lớp Loa kèn (Liliopsida)
Tổng số
Họ
2
1
7
1
124
101
23
135
Chi
2
1
8
2
339
298
41
352
Loài
2
2
9
2
461
415
46
476
Qua bảng trên cho thấy, trong tổng số loài cây thuốc thuộc 5 ngành thực vật bậc
cao có mạch thì ngành Mộc lan (Magnoliophyta) có số lượng các taxon chiếm ưu thế
tuyệt đối với loài 461 loài (chiếm 96,8%); 339 chi (chiếm 96,3%); 124 họ (chiếm
91,2%). Tiếp đến là ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) có 7 họ, 8 chi và 9 loài; ngành
Cỏ tháp bút (Equisetophyta) có số họ (1), chi (1) và loài (2) ít nhất. Trong ngành Mộc
lan, lớp Mộc lan (Magnoliopsida) có 103 họ, 298 chi và 420 loài; lớp Loa kèn
(Liliopsida) có 23 họ, 41 chi và 46 loài.
Kết quả điều tra đa dạng hệ thực vật tại Bắc Hướng Hóa của Ủy Ban nhân dân
tỉnh Quảng Trị cho thấy số lượng loài thực vật tại khu vực này là 920 loài, thuộc 518 chi
và 130 họ (bảng 4). Điều này cho thấy mức độ sử dụng và hiểu biết của người dân địa
phương về cây thuốc là rất phong phú. Tuy nhiên, con số thực tế về cây thuốc được
đồng bào sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh còn có thể lớn hơn kết quả điều tra
trong nghiên cứu này.
Bảng 4. Tỷ lệ phần trăm cây làm thuốc so với hệ thực vật Bắc Hướng Hóa
Loài
Chi
Họ
Đa dạng thực vật của rừng
Bắc Hướng Hóa
920
518
137
Cây làm thuốc
481
352
137
Tỷ lệ phần trăm
(%)
52,28
67,90
100,00
Số họ thực vật có số lượng loài cây thuốc đa dạng thống kê được ở khu BTTN
Bắc Hướng Hóa được trình bày trong bảng 5.
Bảng 5. Số họ có số lượng loài cây thuốc đa dạng ở khu BTTN Bắc Hướng Hóa
TT
1
Tên họ
Cúc - Asteraceae
Số loài
40
TT
16
Tên họ
Tiết dê -
Số loài
7
20
2
3
4
5
Đậu – Fabaceae
Thầu dầu - Euphorbiaceae
Dâu tằm – Moraceae
Cà phê – Rubiaceae
32
25
19
15
17
18
19
20
6
Na – Annonaceae
9
21
7
Trúc đào – Apocynaceae
9
22
8
Hoà thảo – Poaceae
9
23
9
10
11
Ô rô – Acanthaceae
Vang – Caesalpiniaceae
Bạc hà – Lamiaceae
8
8
8
24
25
26
12
Trôm – Sterculiaceae
8
27
13
Rau dền – Amaranthaceae
7
28
14
Long não – Lauraceae
7
29
15
Bông – Malvaceae
7
30
Menispermaceae
Sim - Myrtaceae
Họ Cam - Rutaceae
Bồ hòn - Sapindaceae
Hoa mõm chó Scrophulariaceae
Họ Đơn nem Myrsinaceae
Rau răm Polygonaceae
Cỏ roi ngựa Verbenaceae
Ráy - Araceae
Hoa tán - Apiaceae
Ngũ gia bì Araliaceae
Thiên lý Asclepiadaceae
Bạch hoa Capparaceae
Khoai lang Convolvulaceae
Mua
-Melastomataceae)
7
7
7
7
6
6
6
6
5
5
5
5
5
Trong tổng số 137 họ, chúng tôi đã thống kê được 30 họ có từ 5 loài trở lên. Đặc
biệt có 4 họ có số loài cây làm thuốc bắt gặp ở đây với số lượng loài lớn là: Cúc
(Asteraceae) – 40 loài; Đậu (Fabaceae) – 32 loài; Thầu dầu (Euphorbiaceae) – 25 loài;
Dâu tằm (Moraceae) – 19 loài; Cà phê (Rubiaceae) – 15 loài. 27 họ còn lại có số loài từ
5 đến 9. Ngoài ra, chúng tôi còn thống kê được một số họ có chứa số lượng loài cây
thuốc ít hơn, ví dụ các họ có 4 loài, gồm: Dương xỉ (Polypodiaceae); Đào lộn hột
(Anacardiaceae); Mộc hương (Aristolochiaceae); Dây gối (Celastraceae); Ban
(Hypericaceae); Trinh nữ (Mimosaceae); Rau dừa (Onagraceae); Cà (Solanaceae); Gai
(Urticaceae); Lan (Orchidaceae). Các họ có 3 loài cây làm thuốc bao gồm: Dương đào
(Actinidiaceae); Thu hải đường (Begoniaceae); Vòi voi (Boraginaceae); Cải
(Brassicaceae); Bứa (Clusiaceae); Bàng (Combretaceae); Bí (Cucurbitaceae); Nhài
(Oleaceae); Chua me đất (Oxalidaceae); Táo (Rhamnaceae); Thanh thất
(Simaroubaceae); Cau dừa (Arecaceae); Khúc khắc (Smilacaceae). Trong số đó, có một
số đại diện chủ yếu sau đây: Dây vàng đắng (Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr.),
Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria Lour.), Củ bình vôi (Stephania brachyandra Diels,
21
Stephania hernandiifolia (Willd.) Spreng., Stephania longa Lour.), Cầm vân (Jasminum
subtriplinerve Blume), Ngải rợm (Tacca integrifolia Ker.-Gawl.), Thiên niên kiện
(Homalomena occulta (Lour.) Schott), Gối hạc trắng (Leea guineensis G. Don), Máu
chó lá nhỏ (Knema globularia (Lamk.) Warb.), Bách bộ (Stemona tuberosa Lour.), Hà
thủ ô nam (Streptocaulon juventas Merr.), Lòng mức trung bộ (Wrightia annamensis
Eberh. et Dub.), Bộ mẩy (Clerodendrum cyrtophyllum Turcz), Dung giấy (Symplocos
laurina (Retz) Wall. var. acuminata (Miq.) Brand), Cậm kệch (Smilax bracteata Presl.),
Lấu đỏ (Psychotria rubra (Lour.) Poir.), Núc nác (Oroxylum indicum (L.) Kurz), Ba gạc
vòng (Rauvolfia verticillata (Lour.) Baill. var. hainanense), Đỗ trọng nam (Parameria
laevigata (Juss.) Mold.), Lá khôi (Ardisia chinensis Flanch.), Trầm (Aquilaria crassna
Pierre ex Lecomte), Chân chim (Schefflera heptaphylla (L.) Frodin), Sầu đâu cứt chuột
(Brucea javanica (L.) Merr.), Bá bệnh (Eurycoma longifolia Jack subsp. longifolia),
Bồng bồng (Dracaena angustifolia Roxb.),…
4.1.2.2. Một số bài thuốc
Các bài thuốc dưới đây đã được sưu tầm trong quá trình đi điều tra. Đây là những
bài thuốc được bào chế đơn giản và được bà con dân tộc (Vân Kiều và Pa Cô), đặc biệt
là bà con dân tộc Vân Kiều nơi đây sử dụng phổ biến để chữa trị các bệnh thông
thường.
* Đồng bào dân tộc Vân Kiều ở Bắc Hướng Hóa sử dụng nhiều loại cây thuốc để chữa
trị bệnh gan. Có thể dùng các bộ phận khác nhau của cây để làm thuốc (bảng 6).
Bảng 6. Bài thuốc chữa bệnh gan của ông Hồ Man, dân tộc Vân Kiều ở xã Hướng
Việt, huyện Hướng Hóa
STT
1
2
3
4
5
6
7
Cây thuốc
Tên
Tiếng việt
Aristolochia sp
Phòng kỷ
Dichroa febrifuga
Thường sơn
Acorus gramineus Ait. ex Thạch xương
Soland.
bồ
Alocasia macrorrhiza (L.) Ráy
Schott
Centella asiatica (L.) Urb. Rau má
Imperata cylindrica
Cỏ tranh
Entada phaseoloides
Bàm bàm
Bộ phận dùng
Rễ
Rễ
Thân rễ
Khối lượng
(g)
20
20
20
Thân rễ
10
Rễ
Thân rễ
Quả
10
10
10
* Các bài thuốc chữa bệnh được bào chế từ cỏ sữa
Bài thuốc 1: Chữa bệnh lỵ
- Nguyên liệu:
+ Cỏ sữa (100g)
+ Rau sam (1000g)
22
+ Nước sạch (600ml)
- Cách bào chế và sử dụng:
Cỏ sữa và rau sam cho vào nước, sắc cô đặc còn 200ml, uống 2-3 lần trong ngày.
Bài thuốc 2: Chữa bệnh táo bón
- Nguyên liệu:
+ Cỏ sữa (60g)
+ Cỏ nhọ nồi (60g)
+ Nước sạch (250ml)
- Cách bào chế và sử dụng:
Sắc cô đặc các thành phần trên, còn 100ml, uống 2 lần trong ngày.
* Các bài thuốc chữa bệnh được bào chế từ cây cối xay
Bài thuốc 3: Chữa bệnh bỏng loét, nhiễm trùng
- Nguyên liệu:
+ Lá cối xay (12g)
+ Kim ngân hoa (12g)
+ Sài đất (12g)
+ Bông mã đề (12g)
+ Nước sạch (900ml)
- Cách bào chế và sử dụng: Các cây thuốc rửa sạch, sắc cô đặc còn 300ml, chia 3 lần
uống trong một ngày.
Bài thuốc 4: Chữa bệnh đái buốt
- Nguyên liệu:
+ Lá cối xay (12g)
+ Lá sắn dây (16g)
+ Bông mã đề (16g)
+ Lá đậu ván (17g)
+ Nước sạch (900ml)
- Cách bào chế và sử dụng:
Các lá thuốc được sắc cô đặc còn 300ml, chia 2-3 lần uống trong ngày.
Bài thuốc 5: Chữa viêm mũi dị ứng
- Nguyên liệu:
+ Lá cối xay (12g)
+ Cây cứt lợn (12g)
+ Hoa húng chó (8g)
+ Hoa kinh giới (8g)
+ Bạc hà (8g)
+ Nước sạch (600ml)
- Cách bào chế và sử dụng: Các lá thuốc được sắc cô đặc còn 200ml, chia 2 uống trong
ngày.
Bài thuốc 6: Chữa hóc xương
23
- Nguyên liệu:
+ Lá cối xay (9 lá)
+ Muối ăn (9 hạt)
- Cách bào chế và sử dụng:
Lá cối xay đen giã hoặc nhai nhuyễn cùng với muối, đắp vào đốt sống lưng số 3
và số 4, sau 2-3 giờ nếu xương nhỏ thì nuốt vào được, nếu xương to thì có thể khạc ra
được.
Bài thuốc 7: Chữa ngứa ngoài da
- Nguyên liệu:
+ Lá cối xay (12g)
+ Lá đơn đỏ (12g)
+ Lá xấu hổ (12g)
+ Nước sạch (450ml)
- Cách bào chế và sử dụng:
Các lá thuốc được sắc cô đặc còn 150 ml, chia làm 2 lần uồn trong ngày.
* Bài thuốc chữa bệnh được bào chế từ cây Vòi voi
Cây vòi voi có vị chua đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, giải
độc, chữa viêm phổi, viêm họng thấp khớp, mẩn ngứa, mụn nhọt. Toàn thân, lá và hoa
của cây vòi voi đều được sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Thu hái về rửa sạch phơi khô,
thái nhỏ, bảo quản nơi khô ráo để dùng. Thường thu hái vào tháng 6 – 7, có thể dùng
tươi.
Bài thuốc 8: Chữa mẩn ngứa
- Nguyên liệu:
+ Cây vòi voi (50g)
+ Lá khế 3 (30g)
- Cách bào chế và sử dụng:
Đun cho bệnh nhân tắm, ngày tắm 1 lần, tắm liên tục trong 3-5 ngày.
Bài thuốc 9: Thuốc chữa mụn nhọt
- Nguyên liệu:
+ Cây vòi voi tươi (10g)
+ Nhựa sung: 1 thìa cà phê
- Cách bào chế và sử dụng:
Cây Vòi voi giã nát, cho nhựa sung vào khuấy đều, đắp vào chỗ đau. Mồi ngày
đắp 1 lần, cần đắp 3 ngày liền.
* Bài thuốc chữa bệnh từ cây bàng
Các bộ phận của cây bàng đều có tác dụng làm thuốc. Lá để nhuộm vải, vỏ cây
và quả dùng để thuộc da, hạt ép lấy dầu ăn. Vỏ lá, hạt có thể dùng làm thuốc chữa bệnh.
Vỏ, hạt thu hái về phơi khô dùng dần, lá có thể dùng tươi hoặc khô. Lá bàng có tính
mát, cảm sốt.
Bài thuốc 10: Chữa bệnh cảm ho
24
- Nguyên liệu:
+ Lá bàng: 15g (rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô)
+ Kinh giới khô: 10g
+ Bạc hà khô: 12g
+ Vỏ quýt khô: 10g
- Cách bào chế và sử dụng:
Sắc thuốc rồi uống 1 lần lúc còn nóng, sau đó đắp chăn kín cho ra mồ hôi.
Bài thuốc 11: Chữa cảm sốt, ho có đờm, nhức đầu
-
Nguyên liệu:
+ Lá bàng khô: 15g
+ Lá hoắc hương: 5g
+ Vỏ quýt: 10g
+ Gừng tươi: 3 lát mỏng
- Cách bào chế và sử dụng:
Sắc thuốc, uống 2 lần trong ngày, uống lúc còn nóng, trước khi ăn 15 phút.
4.1.3. Nhóm tài nguyên thực vật chứa tinh dầu
4.1.3.1. Thành phần loài
Cùng với sự đa dạng của hệ thực vật, nguồn tài nguyên thực vật chứa tinh dầu tại
khu BTTN Bắc Hướng Hóa cũng khá phong phú. Trên cơ sở các mẫu vật đã thu được
cùng các thông tin đã có, chúng tôi đã thống kê được 47 loài chứa tinh dầu, thuộc 19 họ,
trong đó họ có số loài nhiều nhất là họ Cúc - Asteraceae (8 loài), tiếp đến là họ Cam Rutaceae (6 loài), họ Long não – Lauraceae (6 loài), họ Sim – Myrtaceae (3 loài), họ Na
- Annonaceae (3 loài), họ Ráy - Araceae (3 loài), họ Hồ tiêu – Piperaceae (2 loài), họ
Hoa mõm chó – Scrophulariaceae (2 loài), họ Kim giao - Podocarpaceae (2 loài), còn lại
các họ khác chỉ có 1 loài. Các loài thực vật chứa tinh dầu tại khu BTTN Bắc Hướng
Hóa được trình bày ở bảng 7.
Bảng 7. Các loài cây chứa tinh dầu tại khu BTTN Bắc Hướng Hóa
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Tên Khoa học
1. Altingiaceae
Liquidambar formosana Hance
2. Annonaceae
Desmos cochinchinensis Lour.
Fissistigma thorelii (Pierre ex Fin. &
Gagnep.) Merr.
Goniothalamus gabriacianus (Baill.) Ast
3. Aristolochiaceae
Asarum balansae Franch
4. Asteraceae
Ageratum conyzoides L.
Tên Việt Nam
Họ Tô hạp
Sau sau
Họ Na
Hoa giẻ thơm nam bộ
Bổ béo trắng
Giác đế sài gòn
Họ Mộc hương
Trầu thiên thảo (EN)
Họ Cúc
Cỏ cứt lợn
25