Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Thực trạng và đề xuất một số giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại Huyện Tân Uyên - Tỉnh Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.06 KB, 55 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên quý giá và có thể tái tạo được của nước ta. Rừng có
vai trò to lớn đối với con người không chỉ ở Việt Nam mà toàn thế giới như
cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hoà khí hậu, tạo ra oxy, điều hoà nước, chống xói
mòn, rửa trôi Bảo vệ môi trường, là nơi cư trú của động thực vật và tàng trữ
các nguồn gen quý hiếm. Mất rừng gây ra hậu quả nghiêm trọng, những
diện tích đất trống đồi núi trọc tăng, là nguyên nhân gây ra hiện tượng xói
mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, mất diện tích canh tác, mất đi sự đa dạng
sinh học. Mặc dù diện tích rừng trồng cũng tăng trong những năm gần đây,
song rừng trồng thường có cấu trúc không ổn định, vai trò bảo vệ môi trường,
phòng hộ kém. Hầu hết, rừng tự nhiên của Việt Nam đều bị tác động, sự tác
động theo hai hướng chính đó là chặt chọn (chặt cây đáp ứng yêu cầu sử dụng).
Đây là lối khai thác hoàn toàn tự do, phổ biến ở cỏc vựng có đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống (lấy gỗ về làm nhà, làm củi…). Cách thứ hai là khai thác
trắng như: phá rừng làm nương rẫy, khai thác trồng cây công nghiệp, phá rừng
tự nhiên trồng rừng công nghiệp…). Trong hai cách này, cách thứ nhất rừng vẫn
còn tính chất đất rừng, kết cấu rừng bị phá vỡ, rừng nghèo kiệt về trữ lượng và
chất lượng, nhưng vẫn còn khả năng phục hồi. Với cách khai thác thứ hai, rừng
hoàn toàn bị mất trắng, khó có khả năng phục hồi.
Vai trò của rừng là rất to lớn, thế nhưng trong những năm vừa qua diện
tích rừng tự nhiên của chúng ta ngày càng giảm sút cả về số lượng và chất
lượng. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế giới có 11 triệu ha
rừng bị phá huỷ, riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương hàng năm có 1,8 triệu
ha rừng bị phá huỷ, tương đương mỗi ngày mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới. Ở
Việt Nam, trong vòng 50 năm qua, diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng.
Năm 1943 độ che phủ của rừng là 43%, đến năm 1993 chỉ còn 26%. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến mất rừng là do chiến tranh, khai thác bừa bãi, đốt nương
làm rẫy.
1


Rừng đối với đời sống chúng ta có vai trò to lớn như vậy, nhưng với sự
phụ thuộc quá mức của người dân vào rừng nhất là dân số ngày càng tăng gây
nên một sức ép làm tàn phá nguồn tài nguyên này ngày một lớn, một số nơi rừng
đã không còn khả năng để tự phục hồi. Bên cạnh vấn đề rừng bị tàn phá thì một
nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra là làm như thế nào để khôi phục được nguồn tài
nguyên rừng đồng thời làm giàu thêm những giá trị của rừng. Muốn vậy chúng
ta cần có những giải pháp tích cực trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn tài
nguyên rừng. Một giải pháp được lựa chọn hiện nay là dựa ngay vào lực lượng
tại chỗ ở địa phương, mỗi một thành viên của cộng đồng là một nhân tố để quản
lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Huyện Tõn Uyờn là một huyện miền núi của tỉnh Lai Châu thuộc vùng
Tây Bắc, nơi mà rừng xanh bị tàn phá nghiêm trọng và cũng chính nơi đây đời
sống hàng ngày của người dân còn nhiều phụ thuộc vào rừng. Kết quả để lại bây
giờ là những đồi trống và núi trọc kéo theo đó là những khắc nghiệt về khí hậu,
thời tiết và thiên tai xảy ra, vấn nạn về nghèo đói đang rình rập. Để cứu lấy rừng
xanh và chính cuộc sống của chúng ta chỉ có thể dựa vào chính cộng đồng ngay
tại địa phương với cách gắn lợi ích của chính họ với rừng, nhưng rừng vẫn đảm
bảo và ngày càng phát triển.
Vì vậy trong những năm qua đã có nhiều các chương trình, dự án nhằm hỗ
trợ và giúp đỡ người dân trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Từ những
vấn đề thực tế trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thực trạng và đề xuất
một số giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại
Huyện Tõn Uyờn - Tỉnh Lai Chõu” nhằm góp một phần nhỏ vào công tác lâm
nghiệp xã hội tại địa phương và để rừng xanh ngày một phát triển.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng quản lý, bảo vệ rừng trong những năm vừa
qua tại Huyện Tõn Uyờn - Tỉnh Lai Châu.
- Chỉ ra thuận lợi, khó khăn trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng dựa vào cộng đồng tại Huyện Tõn Uyờn - Tỉnh Lai Châu.
- Trên cơ sở những biện pháp quản lí, bảo vệ rừng đã có sẵn tại địa

phương đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lí, bảo vệ và
phát triển rừng dựa vào cộng đồng.
2
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài giúp củng cố và nâng cao kiến thức
thực tế cho bản thân để áp dụng những gì đã học được đưa vào thực tiễn.
- Qua đề tài cũng nâng cao được năng lực nhận biết tiếp cận thông tin từ
cộng đồng. Để sau này làm việc sẽ phát huy được hết khả năng của mình và
những kiến thức đã học tập, rèn luyện.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tế
Thông qua đề tài giúp cho mọi người hiểu thêm phần nào tầm quan trọng của
cộng đồng địa phương trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Đưa ra một số giải pháp góp phần cho cộng đồng nâng cao được hiệu quả
trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
3
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Khái niệm cộng đồng
Các nhà xã hội học, dân tộc học đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về khái
niệm “cộng đồng”. Ở đây chỉ đưa ra khái niệm “cộng đồng” được dùng trong quản
lý tài nguyên rừng, theo đó, có thể khái quát thành ba loại ý kiến chính sau đây:
- Loại thứ nhất cho rằng, thuật ngữ “cộng đồng” chính là nói đến cộng
đồng dân cư thôn bản, bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội có
những điểm tương đồng về mặt văn hóa truyền thống, cú cỏc mối quan hệ sản
xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một
thôn bản. [1]
- Loại thứ hai cho rằng, “cộng đồng” bao gồm toàn thể những người sống
thành một xã hội có những điểm giống nhau và cú cỏc mối quan hệ gắn bó chặt

chẽ với nhau. Như vậy, theo quan niệm này, tính chất giống nhau về một điểm
hoặc một số điểm nào đó là yếu tố hình thành nên những quan hệ cộng đồng
trong xã hội. Có nhiều loại cộng đồng khác nhau như cộng đồng sắc tộc, cộng
đồng làng bản, cộng đồng tôn giáo. [1]
- Loại thứ ba cho rằng, thuật ngữ “cộng đồng” được dùng trong quản lý
rừng chính là nói đến các nhóm người cú cỏc mối quan hệ sản xuất và đời sống
gắn bó với nhau. Theo quan niệm này, “cộng đồng” có thể là cộng đồng toàn
thôn bản; cộng đồng sắc tộc trong thôn; cộng đồng các dòng họ hoặc cỏc nhúm
hộ. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng các hợp tác xã, các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cấp thôn bản cũng được coi là một loại
hình cộng đồng.[1]
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn các
ý kiến đều cho rằng thuật ngữ “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính
là nói đến cộng đồng dân cư thôn bản. Và tại điều 3 luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004 đã định nghĩa “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia
đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc
đơn vị tương đương”.
4
2.1.2. Khái niệm công tác quản lý bảo vệ rừng
Quản lý bảo vệ rừng là tổng hợp các biện pháp tác động tích cực vào rừng
nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng bền vững. [10]
2.1.3. Khái niệm quản lý rừng cộng đồng dựa vào cộng đồng
Quản lý rừng cộng đồng là một phương thức quản lý rừng, mà ở đó cộng
đồng quản lý và sử dụng những khu rừng thuộc quyền quản lý của mỡnh đó
được pháp luật thừa nhận (đã được giao) hoặc theo truyền thống (tự công nhận
từ lâu đời). Quản lý rừng cộng đồng là cách thức quản lý 3 loại rừng cộng đồng:
Rừng cộng đồng truyền thống, rừng cộng đồng được giao và rừng của nhóm hộ.
Trong phương thức quản lý này cộng đồng vừa là chủ sở hữu vừa là chủ thể
quản lý. [2]
2.1.4. Phục hồi rừng

Phục hồi rừng được hiểu là quá trình tái tạo lại rừng trên những diện tích
đã bị mất rừng. Theo quan điểm sinh thái học thì phục hồi rừng là một quá trình
tái tạo lại một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu. Đó là
một quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất
hiện một thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khộp tỏn, để tái tạo lại rừng người ta có
thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ theo mức độ tác động của con người là:
phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục hồi tự nhiên và phục hồi tự nhiên có tác
động của con người (xúc tiến tái sinh). [10]
2.2. Tình hình quản lý rừng cộng đồng dựa vào cộng đồng trên thế giới
và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình quản lý rừng cộng đồng trên thế giới
Nói đến rừng cộng đồng thì đây là một hình thức đó cú khỏ lõu trờn thế
giới, từ trước năm 1950 đã có mầm mống của của lâm nghiệp cộng đồng hay
rừng cộng đồng. Đến những năm 1971 – 1990 thì lâm nghiệp cộng đồng đã
được xếp trong các loại hình lâm nghiệp, nhưng chưa được chú trọng chỉ đứng
sau các loại hình khác. Từ năm 1991 đến nay thì vai trò của lâm nghiệp cộng
đồng đã được chú trọng và luôn đứng đầu trong các loại hình lâm nghiệp.
Nhưng việc quản lý rừng cộng đồng trên thế giới trong các giai đoạn của từng
nước là có khác nhau, và hiện nay việc quản lý rừng cộng đồng của các nước
được nâng lên và với nhiều mầu sắc khác nhau.
5
Theo Donovan (1997), Đinh Đức Thuận (2002) chỉ nói riêng về khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương về sự phân cấp quản lý các khu rừng tự nhiên và
nhân tạo đã có nhiều cấp độ khác nhau:
- Nhà nước quản lý hoàn toàn, người dân không được khai thác và sử
dụng bất kỳ sản phẩm nào từ rừng.
- Nhà nước quản lý các sản phẩm chính, người dân được khai thác và sử
dụng các sản phẩm phụ.
- Nhà nước ký hợp đồng bảo vệ rừng với người dân và cộng đồng địa
phương. Người dân được hưởng các sản phẩm nông lâm kết hợp xen với các loại

cây gỗ. Nhà nước trả công bảo vệ.
- Nhà nước hỗ trợ đầu vào, người dân tiến hành trồng rừng, chăm sóc, bảo
vệ. Sản phẩm thu được sẽ được phân phối theo tỷ lệ đầu tư.
Việc quản lý rừng cộng đồng trên thế giới không thể đồng nhất, mỗi một
quốc gia đều có một cách quản lý riêng của nước mình. Nhưng tất cả đều dựa
vào cộng đồng bảo vệ quản lý là chính. Và xu hướng quản lý theo hình thức này
ngày sẽ được nhân rộng và sẽ đem lại hiệu quả thiết thực nhất.
2.2.2. Tình hình quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, quản lý rừng cộng đồng là thực tiễn có từ lâu đời và đang trở
thành một phương thức quản lý rừng có hiệu quả được nhà nước quan tâm,
khuyến khích phát triển. Phương thức quản lý rừng này rất sinh động, phong phú
mang lại hiệu quả trong quản lý rừng và phát triển cộng đồng vùng cao.
Tính đến 31/12/2007 cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư thôn, bản
chủ yếu là các cộng đồng các đồng bào dân tộc ít người, đang quản lý và sử
dụng 2.792.946,3 ha rừng và đất trống đồi trọc (gọi chung là đất lâm nghiệp)
để xây dựng và phát triển rừng, trong đó: 1.916.169,2 ha đất có rừng (chiếm
68,6%) và 876.777,1 ha đất trống đồi trọc (chiếm 31,1%). Diện tích đất lâm
nghiệp do cộng đồng quản lý nêu trên chiếm 17,20% diện tích đất quy hoạch
cho mục đích lâm nghiệp trên toàn quốc (16,4 triệu ha); diện tích đất lâm
nghiệp có rừng do cộng đồng quản lý chiếm 15% tổng diện tích rừng của cả
nước (12.873.815 ha). Trong diện tích đất lâm nghiệp có rừng do cộng đồng
quản lý và sử dụng thì rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%, rừng
trồng chỉ chiếm có 4%. Cộng đồng quản lý chủ yếu rừng phòng hộ, đặc dụng
6
(71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản lý và sử dụng đất lâm
nghiệp nêu trên với ba hình thức sau:
- Thứ nhất, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu
dài (có quyết định hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và rừng, gọi tắt là
giao) với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích đất lâm nghiệp

do cộng đồng quản lý, sử dụng.
- Thứ hai, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý từ lâu
đời nhưng chưa được nhà nước giao (chưa có bất kỳ một giấy tờ hợp pháp nào,
gọi tắt là chưa giao) với diện tích 247.029,5 ha tương đương 8.9%. Đó là các
khu rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước, những khu rừng cung cấp lâm sản
truyền thống cho cộng đồng.
- Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp của các tổ
chức nhà nước (lâm trường, ban quản lý rừng cộng đồng và rừng phòng hộ…)
được các cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi và trồng mới theo hợp
đồng khoán rừng lâu năm, 50 năm gọi tắt là nhận khoán với diện tích 902.662,7
ha tương đương 32,3%.
Nếu xét về mặt địa lý, vùng Tây Bắc có tỷ lệ rừng cộng đồng cao nhất với
1.893.300,9 ha chiếm 67,8% so với tổng diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng
quản lý trên cả nước. Tiếp đến là vùng Đông Bắc 760.131,1 ha, vựng Tõy
Nguyờn 62.422,3 ha và Bắc Trung Bộ 58.541,7 ha. Cỏc vựng còn lại diện tích
đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng chiếm một tỷ lệ nhỏ. Một số tỉnh không có
diện tích rừng và đất rừng giao cho cộng đồng quản lý bảo vệ. Các loại rừng
cộng đồng được hình thành từ các nguồn gốc khác nhau nhưng đều được ba chủ
thể chính quản lý là cộng đồng dân cư thụn, dũng tộc và nhóm hộ hoặc nhóm sở
thích. Đối với rừng do cộng đồng dân cơ thôn và dòng tộc quản lý thường ở cỏc
vựng sõu, vựng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với tập quán truyền
thống, điều kiện sản xuất và thị trường kém phát triển, trình độ quản lý còn thấp.
Rừng do nhóm hộ hoặc nhóm sở thích tự cùng nhau liên kết để quản lý thường ở
cỏc vựng sản xuất của các hộ nông dân cao khả năng đầu tư lớn. Chính từ cơ sở
này mà quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam đang dần hình thành theo hai xu
hướng phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng vùng, đó là quản lý rừng cộng đồng
7
đáp ứng nhu cầu sinh kế và quản lý rừng cộng đồng cho sản xuất hàng hóa. Các
sản phẩm từ rừng cộng đồng chủ yếu được sử dụng cho tiêu dùng trong cộng
đồng như gỗ làm nhà, củi đốt, khai thác lâm sản ngoài gỗ.

2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lí và địa hình
Tân Uyên là huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh Lai Châu với diện tích tự
nhiên là 90.319,65 ha. Phía đông giáp huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai, phía tây giáp
huyện Sìn Hồ, phía nam giap huyện Than Uyên, Phía bắc giáp huyện Tam
Đường.
Nằm ở sườn phía tây của dãy Hoàng Liên Sơn nên địa hình chủ yếu là đồi
núi cao và dốc, khí hậu phức tạp và khắc nhiệt. Mùa đông nhiệt độ xuống thấp
nên thường có rét đậm, rét hại xảy ra, mùa hè thường xuyên có mưa rào gây lũ
tập trung vào tháng 5 – 8. Vào mùa khô do địa hình nên hầu hết chân ruộng một
vụ và đất bãi thiếu nước sản xuất.
Địa hình phức tạp chia cắt bởi đồi núi,sông suối. Tân Uyên có thượng lưu
sông Nậm Mu vắt qua và một hệ thống suối khe khá phong phú trải đều trên
toàn địa bàn huyện ( mật độ sông suối từ 1,5 – 1,7 km/km
2
) như suối Hô Bon,
Hô Ta, Hô Be,
Tuy địa hình chủ yếu là đồi núi nhưng cũng có những cánh đồng lớn là
nơi tập trung sản xuất lương thực cho toàn huyện như cánh đồng Pắc ta, Phóc
khoa, Mường khoa, Thân thuộc
* Khí hậu thủy văn
Tõn Uyên nằm ở phía sườn Tây của dãy Hoàng Liên Sơn, trong vùng đất
bằng phẳng giữa lưng chừng nỳi nờn khí hậu chia thành 2 mùa là mùa mưa và
mùa khô. Vào mùa mưa thỡ núng ẩm, mưa nhiều thời gian kéo dài từ tháng 4
đến tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mùa này khô và lạnh, có
gió Lào thổi suốt đêm ngày,nhiệt độ bình quân hàng năm ở Tõn Uyờn vào
khoảng 25 độ C.
Huyện Tõn Uyờn được hệ thống sông Nậm Mu và các nhánh sông nhỏ
bao quanh, hàng năm bồi đắp một lượng phù sa lớn 2 bên ven sông, tốt cho việc

8
trồng lúa và hoa màu. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế của người dân trong vùng.
* Hiện trạng đất và các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất: Đất là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt quan trọng ngành kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, là địa bàn phân
bổ các khu dân cư, là cơ sở để xây dựng các khu kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh
quốc phòng Sau khi được thành lập, huyện Tõn Uyờn cú diện tích tự nhiên là
90.319,65 trong đó gồm các loại đất, đất nông nghiệp 7.325,12ha, đất lâm
nghiệp 25.430,44ha, đất phi nông nghiệp 2.184,95 ha, đất chưa sử dụng
55.379,14ha. Chủ yếu là nhóm đất đỏ vàng vùng núi cao từ 900 đến 1300m có
độ dốc lớn từ 25
0
– 35
0
ớt đá lẫn thành phần cơ giới nhẹ, độ PH từ: 4,5 – 5,5
nghèo dinh dưỡng. Đất Feralit màu vàng, tầng dày ở độ cao từ 700 – 1000m độ
dốc từ 20
0
– 25
0
phù hợp cho sản xuất lâm nghiệp. Đất phù sa suối nằm ở ven
các con suối được tận dụng triệt để trồng lúa, cây lương thực. Đất Feralit đỏ
vàng ở độ cao 600m được phân bố dưới chân dãy núi có độ dày tầng canh tác
cao thích hợp cho việc phát triển cây chè và các loại cây ăn quả khác.
Tài nguyên nước: Huyện Tõn Uyờn thuộc lưu vực sông Nậm Mu (Phụ lưu
cấp 1 của sông Đà) tuy chỉ với một hệ thống sông nhưng bù lại Tõn Uyờn có hệ
thống khe, suối khá phong phú trải đều trên địa bàn toàn huyện (có mật độ sông
suối từ 1,5 – 1,7 km/km
2

) như Suối Hô Bon, Hô Tra, Hô Be, Nậm Chăng, Nậm
Lao, Nậm Cưởm, Nậm Pầu, Nậm Sỏ, Nậm Ni, Mớt Luụng, Mớt Nọi Cựng
với đú, cũn có mạng lưới khe, lạch nhỏ dày đặc đã và đang góp phần quan trọng
cho môi trường sống, sản xuất nông nghiệp của nhân dân trên địa bàn huyện.
Ngoài nguồn nước mặt Tõn Uyờn cũn có hệ thống mạch nước ngầm từ
3m đến 7m nằm hầu hết trên địa bàn cỏc xó, thị trấn như xã Thân Thuộc, xã
Trung Đồng thị Trấn Tõn Uyờn với trữ lượng khá dồi dào. Đây là nguồn nước
chính đảm bảo sinh hoạt cho người dân trong vùng đặc biệt là nhân dân quanh
vùng thị trấn Tõn Uyờn.
Với địa hình chia cắt và dốc, các con suối còn là tiềm năng lớn để phát
triển thuỷ điện vừa và nhỏ, mương máng dẫn nước phục vụ đời sống sản xuất.
Bên cạnh những tiềm năng, lợi ích trên hệ thống khe, suối gây không ít
khó khăn trong việc mở mang giao thông, công tác chống súi mũn bảo vệ đất.
9
Sự không ổn định của sông suối vào cỏc mựa trong năm cũng là một bất lợi lớn.
Mùa mưa mực nước sông suối tăng nhanh, dòng chảy lớn gây sạt lở, súi mũn,
chia cắt giao thông Mùa khô lượng nước các con suối xuống thấp gây khó
khăn trong việc dẫn nước phục vụ sản xuất.
Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn huyện có mỏ quặng vàng thuộc xã
Pắc Ta, được phát hiện vào cuối tháng 8 năm 2007 với diện tích ước tính có
quặng ban đầu là 500ha. Khu vục có quặng đang được các doanh nghiệp thăm
dò và khai thác là 182ha nhưng trữ lượng vàng, tuổi vàng chưa được xác định,
dự kiến thăm dò khai thác từ 3 – 7 năm. Ngoài ra còn có cát, đá tận thu tại địa
bàn xã Mường Khoa, Thân Thuộc. Đây là nguồn khoáng sản quan trọng cung
cấp vật liệu xây dựng trên địa bàn huyện.
Tài nguyên rừng: Tõn Uyờn là huyện miền núi cao với tổng diện tích tự
nhiên toàn huyện là 90.319,65ha, diện tích đất để phát triển lâm nghiệp là
65.127,7ha chiếm 72% diện tích toàn huyện. Diện tích có rừng là 22.548,3ha với
độ che phủ là 25% tập trung chủ yếu trên những dãy núi cao thuộc khu vực rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ trờn cỏc xó Phỳc Khoa, Mường Khoa, Thân Thuộc,

Hố Mít, Pắc Ta và thị trấn Tõn Uyờn. Trong đó: Diện tích rừng đặc dụng là
5.906,6ha, diện tích rừng phòng hộ là 12.056,5ha, diện tích rừng sản xuất là
4.621,2ha. Diện tích đất chưa có rừng là 42.543,4ha. Nhìn chung độ che phủ của
Tõn Uyờn cũn thấp so với độ che phủ của tỉnh. Vì vậy trong thời gian tới, để
phát huy thế mạnh sản xuất lâm nghiệp, tăng thu nhập cho người dân lao động
cần ưu tiên cho phát triển lâm nghiệp.
Nguồn nguyên liệu: Tõn Uyờn cú diện tích đất lâm nghiệp 25.430,4ha có
lợi thế cho việc phát triến kinh tế rừng. Đặc biệt có một số diện tích rừng phù
hợp với việc phát triển trồng cây thảo quả loại cây có giá trị kinh tế cao, tập
trung ở cỏc xó Hố Mớt, Phỳc Khoa, Mường Khoa, Thân Thuộc, Trung Đồng, cú
vựng nguyên liệu chè lớn nhất tỉnh với diện tích trên 1.232ha. Đây là điều kiện
để huyện Tõn Uyờn phát triển ngành công nghiệp chế biến.
2.3.2. Điều kiện kinh tế
Là một huyện nghèo của tỉnh Lai Châu với mức thu nhập bình quân trên
đầu người thấp 5,4triệu/ người/ năm, mức sống của dân cư còn thấp, tỉ lệ hộ
nghèo cao. Có cấu kinh tế: Công nghiệp xây dựng chiếm 29,6%, Nông lâm
10
nghiệp chiếm 42,7%, dịch vụ chiếm 27,7%. Cơ cấu lao động: Lao động nông
nghiệp chiếm 80%, công nghiệp và dịch vụ chiếm 20%. Tỉ lệ lao động chưa qua
đào tạo còn cao.
Về văn hoá giáo dục: Trình độ dân trí còn thấp, phổ cập giáo dục trung
học chưa hoàn thành. Tỉ lệ học sinh tiếp tục học trung học( phổ thông, bổ túc,
học nghề) thấp đạt 32,5 %.
Dân số, dân tộc và nguồn lao động: Năm 2008 dân số của Tõn Uyờn là
43.173 người, số hộ là 8.417 hộ, số người bình quân/ hộ là 5 người , xét về quy
mô huyện Tõn Uyờn có mật độ dân số trung bình thấp (48người/km
2
)

với 8 dân

tộc anh em sinh sống, trong đó: dân tộc Thái 21.846 người chiếm trên 50,6%,
dân tộc kinh 7.457 người chiếm 17,3%, dân tộc Mông 6.231 người chiếm
14,3%, dân tộc Khơ Mú 3.050 người chiếm 7,1% , dân tộc Dao 2.076 người
chiếm 4,8%, dân tộc Lào 1.981 người chiếm 4,6%, dân tộc Dáy 469 người
chiếm 1,1%, dân tộc khác 63 người người chiếm 0,14%. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên của huyện 1,7%; tổng số người trong độ tuổi lao động của huyện khá dồi
dào chiếm khoảng 53% tổng dân số, phần lớn là lao động trẻ, khoẻ, toàn huyện
có khoảng 22.391 người trong độ tuổi lao động, đây là nguồn nhân lực lớn cung
cấp cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng lực lượng lao động của huyện Tõn
Uyờn chủ yếu là lao động nông nghiệp chiếm trên 80% trong tổng số lao động.
Mặt khác lao động qua đào tạo chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng 15% trong tổng số
lao động, số lao động có chuyên môn, trình độ cao rất thấp, đó là cản trở lớn
trong việc tiếp nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội nhanh và bền vững.
- Cơ sở hạ tầng
+ Giao thông: Đường liên xã huyện 132km, trong dã 81km đường nhựa,
46km đường rải đá, 9km đường đất. Các tuyến đường từ xã đến các thôn bản
chủ yếu là đường đất rải đá sỏi, về mùa mưa đi lại khó khăn, thường phải đi bộ.
Đường các thôn bản đường đất 282km.
+ Thuỷ lợi: Toàn huyện có 58 hạng mục công trình thuỷ lợi nằm rải rác
trên các thôn bản của các xã, thị trấn đáp ứng 65% nhu cầu tưới tiêu của sản
xuất. Toàn huyện có 107,58km kênh mương cứng, 44,4 km kênh mương đất.
11
+ Điện: Hệ thống mạng lưới điện còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu
dùng điện của nhân dân. Nhiều xã nhiều bản vẫn chưa có điện lưới.
2.3.4. Nhận xét và đánh giá chung
* Thuận lợi
Diện tích đất để phát triển lâm nghiệp là 65.127,7ha chiếm 72% diện tích
toàn huyện, đất đai thích hợp để trồng các loại cây lâm nghiệp là điều kiện thuận
lợi để phát triển cỏc cõy lâm nghiệp trên địa bàn huyện.

Sở hữu nguồn nhân lực dồi dào mà chủ yếu là lao động nông lâm nghiệp (
chiếm 80% tổng số lao động).
Trên địa bàn huyện hiện nay cú cỏc chương trình, dự án và một số chính sách
đầu tư cho công tác xoỏ đúi, giảm nghèo như chương trình 134, chương trình
135 và một số chương trình khác của Trung ương và của Tỉnh cũng là điều kiện
thuận lợi tạo nguồn vốn cho huyện phát triển kinh tế.
* Khó khăn
Địa hình chủ yếu là đồi núi cao và dốc, khí hậu phức tạp và khắc nhiệt,
dân cư đa phần là dân tộc thiểu số trình độ văn hóa thấp là một trong nhiều khó
khăn cho phát triển kinh tế của huyện.
Cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải hệ thống điện và thủy lợi chưa đáp ứng
được nhu cầu của cộng đồng dân cư.
Tập quán sinh hoạt của cộng đồng các dân tộc thiểu số vẫn còn lạc hậu,
sống chủ yếu dựa vào rừng, một số nơi vẫn giữ tập quán du canh du cư là
nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm diện tích rừng trong những năm vừa qua.
12
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp quản lí, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại
địa bàn huyện Tõn Uyờn - Lai Châu .
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại địa bàn
huyện Tõn Uyờn - tỉnh Lai Châu.
3.2. Địa điểm và thời gian thực tập
Địa điểm: hạt kiểm lâm huyện Tõn Uyờn - tỉnh Lai Châu
Thời gian: Từ 15 tháng 2 đến 15 tháng 6 năm 2011
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng tài nguyên rừng tại địa bàn nghiên cứu.

- Thực trạng quản lý bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng.
+ Thực trạng quản lý rừng
+ Khái quát tổ chức của cộng đồng địa phương tại thời điểm nghiên cứu.
+ Những nguồn lực (vốn, giống, kỹ thuật…) của địa phương để thực hiện
quản lý bảo vệ và phát triển rừng.
+ Kết quả triển khai các hoạt quản lý bảo vệ và phát triển rừng dựa vào
cộng đồng.
+ Cơ chế chia sẻ lợi ích của cộng đồng.
- Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trong quản lý bảo vệ và phát triển
rừng dựa vào cộng đồng.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bảo vệ và phát triển rừng dựa vào
cộng đồng.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.1.1. Phương pháp kế thừa
Chuyên đề có kế thừa một số tư liệu:
13
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa hình,
tài nguyên rừng.
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.
- Những kết quả nghiên cứu, thống kê có liên quan đến chuyên đề.
3.4.1.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Kế thừa có chọn lọc các số liệu sẵn có liên quan đến vấn đề quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng cộng đồng của địa bàn nghiên cứu.
3.4.1.3. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Chủ yếu sử dụng công cụ phỏng vấn bán cấu trúc kết hợp điều tra khảo
sát thực tế để thu thập thông tin liên quan đến vấn đề quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng dựa vào cộng đồng.
- Đối tượng phỏng vấn: Cán bộ và người dân trong cộng đồng tại địa bàn
nghiên cứu.

- Số lượng: 3 cán bộ huyện, 9 cán bộ xã, 15 - 20 người dân.
- Cách chọn
+ Đối với cán bộ huyện: Phỏng vấn 2 cán bộ kiểm lâm và một cán bộ
nông lâm.
+ Đối với cán bộ xã: Ở 3 xó cú diện tích rừng cộng đồng trong huyện, mỗi
xã phỏng vấn 2 cán bộ kiểm lâm xã và một cán bộ nông lâm.
+ Đối với người dân: Ở mỗi xã tiến hành nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 5
người dân, ưu tiên đối tượng trưởng bản và những người lãnh đạo các hội hoặc
đoàn thể trong xã.
- Nội dung phỏng vấn: Đối với cán bộ huyện xem phụ lục 01, đối với cán
bộ xã xem phụ lục 02, đối với người dân xem phụ lục 03
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập đầy đủ các số liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu thì
tiến hành tổng hợp, phân tích các số liệu và các giải pháp quản lý, bảo vệ, phát
triển rừng mà cộng đồng đang áp dụng.
Tìm ra những ưu nhược điểm của các biện pháp quản lí, bảo vệ và
phát triển rừng dựa vào cộng đồng đang sử dụng tại địa phương từ đó đề ra
những biện pháp mới nhằm tăng hiệu quả của công tác quản lí, bảo vệ và
phát triển rừng.
14
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thực trạng tài nguyên rừng tại huyện Tõn Uyờn - tỉnh Lai Châu
Huyện Tõn Uyờn là một trong những huyện miền núi nghèo nhất cả nước
với nhiều xã thuộc diện 135 với tổng diện tích tự nhiên là 90.326,75 ha. Trong
đó, diện tích rừng tự nhiên và diện tích rừng trồng là 25,506.07ha. Huyện có tổng
số nhân khẩu là 43.173, số hộ là 8.417 hộ, với 8 dân tộc anh em sinh sống mà đa
phần la dân tộc thiểu số ( như Thỏi, Mụng, Khơ Mú, Dao dân tộc Kinh chi chiếm
17,3%). Đời sống kinh tế của người dân dựa vào nông nghiệp là chính và có sự phụ
thuộc chặt chẽ vào rừng từ chất đốt cho tới gỗ làm nhà nên làm cho công tác

QLBVR gặp khó khăn, vấn nạn về cháy rừng vẫn thường xuyên xảy ra, hiện nay
vẫn còn hiện tượng chặt phá rừng làm nương rẫy. Chính những điều này đã làm
cho tài nguyên rừng của huyện ngày một bị thu hẹp.
Rừng tự nhiên của huyện đều là rừng tái sinh nghèo, độ che phủ của
huyện chỉ còn khoảng 25.33%. Cây tái sinh chủ yếu là các loài cây như cây vối
thuốc, cõy lỏ nến,…bờn cạnh các loài cõy thõn gỗ thì thực vật thân thảo cũng
phát triển như các loài cây cỏ lào, sim, mua,tre nứa…và các loại dây leo dưới
tán rừng. Thêm vào đó là rừng trồng của dự án 661 với tổng diện tích là
722.72ha. Hiện tại diện tích rừng trồng này phát triển tương đối tốt.
Bảng 4.1. Diễn biến các loại rừng trong những năm vừa qua
tại huyện Tõn Uyờn - tỉnh Lai Châu
Loại rừng
Năm
Diện tích rừng
đặc dụng
Diện tích rừng
phòng hộ
Diện tích rừng
sản xuất
2008 5,906.60 12,056.50 4,621.30
2009 5,906.60 11,978.36 5,386.22
2010 5,906.60 11,978.36 5,386.22
(Nguồn: Hạt kiểm lâm huyện Tõn Uyờn, năm 2010)
Qua bảng 4.1 ta thấy diện tích rừng tại huyện đa phần là rừng phòng hộ và
đặc dụng. Trong những năm vừa qua diện tích rừng tự nhiên vẫn có chiều hướng
giảm, nguyên nhân do tình trạng khai thác trái phép vẫn còn, đốt nương làm rẫy
15
và điều kiện thời tiết khắc nghiệt vào mùa khô dẫn đến cháy rừng. Diện tích
rừng trồng cũng đang được phát triển khá mạnh.
Bảng 4.2.Thực trạng tài nguyên rừng tại huyện Tõn Uyờn - tỉnh Lai Châu

STT Loại rừng và đất rừng Diện tích (ha)
1 Tổng diện tích tự nhiên 90.326,75
2 Diện tích đất Lâm Nghiệp 65.127,7
Đất có rừng 25.506,07
3 Rừng tự nhiên 19.843,69
4 Rừng trồng 5.662,38
Diện tích rừng trồng chưa thành rừng 2.622,90
(Nguồn: Hạt kiểm lâm huyện Tõn Uyờn, năm 2010)
Qua bảng 4.2 ta thấy diện tích đất lâm nghiệp của huyện sở hữu khá lớn
chiếm 72% diện tích toàn huyện, đây là nguồn lực để phát triển lâm nghiệp
của huyện.
Với thực trạng như trên, có thể thấy chiều hướng bị mất tài nguyên rừng
vẫn có chiều hướng tăng, nếu không có giải pháp kiên quyết và kịp thời thì trong
tương lai gần diện tích rừng của huyện Tõn Uyờn sẽ bị thu hẹp và kéo theo đó là
môi trường sinh thái thay đổi do việc mất rừng như lũ quét, hạn hỏn,…xảy ra
thường xuyên và các loại động, thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng,
hơn nữa nó sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng ở địa phương
4.2. Thực trạng quản lý bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng
4.2.1. Thực trạng quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại
huyện Tõn Uyờn - Lai Châu
Cộng đồng tham gia quản lý rừng là một trong những hình thức quản lý
rừng đang thu hút sự quan tâm của các cấp uỷ đảng. Về mặt lịch sử thì rừng
cộng đồng ở Việt Nam nói chung và ở huyện Tõn Uyờn nói riêng thỡ đó tồn tại
từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của thôn, bản vì cuộc sống của
dân đều sống dựa vào rừng. Vài năm gần đây huyện đã giao đất giao rừng cho
cộng đồng để quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, và ở
đây cộng đồng với tư cách là một chủ rừng. Ngoài ra cỏc xó cũn nhận khoán bảo
vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng. Với mô hình quản lý rừng có sự
16

tham gia của đông đảo người dân (nói chung là rừng cộng đồng) sống gần rừng
sẽ là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập
quán truyền thống của người dân. Tuy nhiên xét về mặt pháp lý quản lý rừng
cộng đồng đã được thừa nhận trong luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và
được hướng dẫn thi hành theo nghị định số 23/2006/NĐ-CP, nhưng hiện nay
việc thực hiện đúng và cộng đồng được giao đất giao rừng như một chủ rừng
vẫn còn là một vấn đề cần quan tâm.
Bảng 4.3: Các hình thức quản lí, bảo vệ rừng do người dân tham gia
STT Hình thức Tỷ lệ, %
1
Lập tổ đội quần chúng bảo vệ rừng ở các bản
65
2 Bảo vệ vốn rừng được giao 100
3
Thu hút lao động trên địa bàn tham gia bảo vệ
rừng
72
(Nguồn: số liệu điều tra người dân)
Qua bảng 4.3 ta thấy người dân tham gia vào công tác quản lí bảo vệ rừng
khá nhiệt tình. Trong các bản đã xây dựng được quy ước riêng để quản lý rừng,
hạn chế được phần nào tình trạng vi phạm lâm luật. Với diện tích rừng được
giao, người dân tham gia tích cực vào công tác bảo vệ và sử dụng đúng mục
đích, điều này đã hạn chế được tình trạng khai thác trái phép, phát nương làm
rẫy trên diện tích đã giao, phát huy năng lực sản xuất của rừng. Thu hút lao động
trên địa bàn tham gia bảo vệ rừng góp phần ngăn chặn tình trạng phá rừng trái
phép, tăng thu nhập cho người dân, từ đó hạn chế được các tệ nạn xã hội, nâng
cao ý thức lâm nghiệp cộng đồng.
Một đặc điểm nổi bật của huyện Tõn Uyờn là một phần diện tích lớn rừng
và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý từ lâu đời nhưng chưa được
thống kê đầy đủ. Rừng cộng đồng ít được đầu tư của nhà nước nhưng vẫn được

quản lý tốt. Chủ yếu cộng đồng dân cư tự tổ chức quản lý, bảo vệ và khai thác
các lợi ích khác của rừng.
Giao rừng cho cộng đồng đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của
người dân trong cộng đồng, khuyến khích người dân tham gia các hoạt động bảo
vệ và sản xuất kinh doanh nghề rừng. Tại các bản đã xây dựng được quy ước
17
bảo vệ phát triển rừng nên việc quản lý bảo vệ rừng sau khi giao được chặt chẽ
hơn, công tác phòng cháy chữa cháy rừng được thực hiện tương đối tốt.
Từ những vấn đề trên thấy rằng để thành lập ra một ban quản lý rừng
cộng đồng riêng , phù hợp với văn hoá của mỗi cộng đồng trong huyện và được
mọi người dân nghe và làm theo quả là một vấn đề khó khăn. Nên tại huyện Tõn
Uyờn nhiệm vụ quản lý rừng cộng đồng đã được giao cho ban quản lý huyện
quản lý chung
Bảng 4.4: Các tổ chức của cộng đồng tham gia vào quản lí, bảo vệ rừng
STT Các tổ chức Tỷ lệ, %
1 Trưởng thôn, trưởng bản 82
2 Hợp tác xã 36
3 Hộ gia đình 68
4
Các tổ chức khác (hội phụ nữ, chi đoàn thanh
niên chủ tịch, bí thư đảng uỷ xã)
57
(Nguồn: số liệu điều tra người dân)
Qua bảng 4.4 ta thấy sự thâm gia của các tổ chức cộng đồng vào công tác
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại huyện rất đa dạng và đem lại hiệu quả cao.
Các tổ chức này là cầu lối giữa chính quyền và người dân, xây dựng quan hệ
mật thiết với cộng đồng dân cư. Mỗi tổ chức đều có vai trò và nhiệm vụ riêng.
+ Trưởng thôn, trưởng bản là những người thay mặt nhân dân thôn, bản
xây dựng hương ước, ban hành quy ước của thôn, bản về bảo vệ rừng và đất
rừng. Xem xét và cho phép hộ khai thác gỗ gia dụng. Khi xảy ra hiện tượng

cháy rừng, khai thác trộm rừng của thụn thỡ trưởng thôn huy động công an thôn,
lực lượng dân quân, nhân dân trong thôn tham gia dập lửa, ngăn chặn những
hành vi vi phạm lâm luật. Nếu những người trong thôn vi phạm thì trưởng thôn
tổ chức cuộc họp và căn cứ vào quy ước của thôn để xử phạt.
+ Hợp tác xã khi được sự đồng ý của uỷ ban quản lý rừng cộng đồng nhân
dân xã và trưởng thôn, chủ nhiệm hợp tác xã được ủy nhiệm để ký kết hợp đồng
nhận khoán trồng rừng mới và bảo vệ rừng tự nhiên, rừng đã trồng cho toàn bộ
thôn với ban quản lí dự án 661.
+ Hộ gia đình tham gia vào việc tuần tra bảo vệ rừng của thôn, bản. Hộ
gia đình là người hưởng lợi chính từ rừng của thôn, bản. Khi có nhu cầu làm
nhà, được thụn xột cho phép khai thác gỗ, tre, nứa ở rừng của thôn, bản.
18
+ Các tổ chức như hội phụ nữ, chi đoàn thanh niên chủ tịch, bí thư đảng
uỷ xã là lực lượng lãnh đạo xó, thụn bản và các khối đoàn thể bảo vệ và phát
triển rừng cộng đồng. Sẵn sàng huy động các lực lượng bảo vệ rừng cộng đồng
khi cần thiết.
Tổ chức cộng đồng thôn bản của người dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện rất chặt chẽ, trưởng bản được bầu ra một cách dân chủ. Phần lớn các cộng
đồng dân tộc đều có quy ước nội bộ và có hiệu lực rất cao, thể hiện mối quan hệ
ràng buộc về mặt xã hội của các thành viên trong cộng đồng một cách chặt chẽ.
Cơ chế thưởng phạt theo hương ước của cộng đồng tỏ ra có hiệu lực.
Các tổ chức này có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lí bảo vệ
rừng, giúp người dân nhân thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, nâng cao
ý thức tự giác của mỗi cá nhân trong qua trình bảo vệ và phát triển rừng cộng
đồng.
Với diện tích rừng khá lớn của huyện ta thấy công tác bảo vệ rừng của
huyện là không thể xem nhẹ. Bảo vệ rừng là trách nhiệm của toàn dân, mọi
người dân đều có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tài nguyên này. Mặc dù là vậy nhưng
phải có một đội bảo vệ chuyên trách để luôn thường xuyên tuần tra phát hiện
những vi phạm và xử lý vi phạm, một phần để làm các công tác tuyên truyền tới

quần chúng nhân dân về tầm quan trọng của rừng, để từ đó nâng cao trách nhiệm
của mỗi công dân với rừng.Nguồn kinh phí chi trả cho hoạt động bảo vệ là
nguồn kinh phí từ dự án chứ không có sự đóng góp từ cộng đồng địa phương. Vì
người dân muốn đóng góp cho hoạt động bảo vệ rừng cũng không có, mà người
dân đang cần được giúp đỡ hơn. Có chăng người dân đóng góp công sức vào
bảo vệ rừng bằng cách phát hiện những vi phạm quy bảo vệ rừng và báo với tổ
bảo vệ và ban quản lý. Đõy chớnh là một vấn đề khó giải quyết ở địa phương,
làm cho công tác bảo vệ rừng với ý nghĩa trách nhiệm của toàn dân khó thực
hiện ở địa phương.
Nhưng hiện nay thực trạng chung của việc quản lý, bảo vệ rừng còn
nhiều bất cập. Ở huyện Tõn Uyờn cũng không ngoại lệ cùng tình trạng này, diện
tích rừng của huyện không còn nhiều, chủ yếu là rừng tái sinh nghèo kiệt. Đất
vẫn còn mang tính chất đất rừng nếu được quy hoạch bảo vệ thì rừng có khả
năng phục hồi, nhất là các khu rừng đầu nguồn cần được chú trọng nhiều hơn.
19
Quản lý rừng cộng đồng của huyện là do ban quản lý huyện quản lý chung,
nhưng việc quản lý còn thiếu chặt chẽ và đồng bộ. Những khu rừng vẫn bị chặt phá
không theo một quy hoạch nào cả, thậm chí còn bị chặt phá làm nương rẫy rồi sau đó
là đốt nương và sự thiếu cẩn trọng hay nhận thức được sự nguy hiểm của lửa rừng nờn
đó làm mất đi những diện tích rừng không nhỏ. những điều này xảy ra thì BQL phải
kiểm tra xử lý vi phạm quy ước bảo vệ rừng nhưng cú lỳc được báo rồi cũng không
đến kiểm tra, nếu có đến kiểm tra thì cũng chỉ là qua loa không xử lý nghiêm để làm
gương cho người khác. Nên việc mất dần đi những diện tích rừng và giảm đi về đa
dạng sinh học cũng là điều dễ hiểu.
Trước tình hình thực tế huyện có huy động toàn dân vào quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng bằng cách khuyến khích bảo vệ và quy hoạch rừng phòng hộ
đầu nguồn, rừng trồng dự án 661 với tổng diện tích là 722.72ha. nhờ đó mà độ
che phủ của rừng đang dần được nâng lên, nhưng các hình thức quản lý vẫn còn
những tồn tại làm cho rừng kém phát triển và bị phá đi hàng ngày, chủ yếu là
mặc cho rừng tự tái sinh phục hồi. Những hình thức quản lý bảo vệ hay những

tác động để phát triển rừng hay sử dụng rừng một cách hợp lý và bền vững thỡ
cũn rất hạn chế.
Việc quản lý, bảo vệ vẫn chưa thực sự đúng nghĩa của nó. Rừng vẫn bị
phá đi hàng ngày, điều này một phần là thiếu sự quan tâm của chính quyền địa
phương và ý thức chung của cộng đồng, một điều khá quan trọng là kinh tế của
người dân còn chưa được nâng cao nên con phải dựa vào rừng nhiều.
Trên địa bàn huyện hiện nay có tồn tại hai hình thức quản lý rừng cộng
đồng, đó là cộng đồng ở cỏc thụn bản trực tiếp quản lý rừng và đất rừng thuộc
quyền sử dụng chung từ nhiều đời nay và cộng đồng tham gia bảo vệ, gây trồng
diện tích rừng của dự án 661.
20
Bảng 4.5: Các hình thức quản lí, bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng trên
địa bàn huyện Tõn Uyờn
SST Hình thức Tỷ lệ, %
1 Cộng đồng quản lí rừng và đất rừng thuộc
quyền sử dụng chung
100
2 Cộng đồng quản lí diện tích rừng được xã
giao
76
Qua bảng 4.5 ta thấy hiện tại các hình thức quản lí dựa vào cộng đồng ở
huyện chưa phong phú nhưng mại lai hiệu quả cao. Cộng đồng quản lí rừng và
đất rừng thuộc quyền sử dụng chung đa phần là những khu rừng gắn liền với tín
ngưỡng và niềm tin của người dân.Chính vì vậy rừng được quản lý rất chặt chẽ
và nghiêm túc thông qua các tục lệ, quy định truyền thống của cộng đồng. Phần
lớn cộng đồng quản lý, bảo vệ rừng khụng vỡ mục đích kinh tế mà chủ yếu là vì
mục đích tín ngưỡng và sinh tồn.
Rừng và đất rừng huyện nhận khoán bảo vệ là 3097.38ha, khoanh nuôi tái
sinh và trồng mới rừng theo dự án 661 là 4169.6 ha. Tổ chức giao khoán cho
cộng đồng là: ban quản lý rừng phòng hộ và ban quản lý dự án huyện Tõn Uyờn.

Với thực trạng như trên một phần là do năng lực quản lý của ban quản lý
rừng cộng đồng còn hạn chế, tiếp đó là thiếu nguồn kinh phí chi trả cho các hoạt
động quản lý bảo vệ và sự thiếu quan tâm không đúng mức của các cấp uỷ Đảng
chính quyền địa phương.
4.2.2. Những nguồn lực của địa phương để thực hiện quản lý bảo vệ và phát
triển rừng
Trong thực tế muốn quản lý, bảo vệ hay phát triển một mặt hay một lĩnh
vực nào thì đòi hỏi nhiều nguồn lực, những nguồn lực này có thể là tại chỗ hoặc
là từ bên ngoài. Trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng của huyện
Tõn Uyờn cũng vậy đòi hỏi nhiều nguồn lực khác nhau, nhất là nguồn lực tại
chỗ. Nếu nguồn lực tại chỗ của huyện dồi dào thì việc quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng của huyện có nhiều triển vọng, nhưng ngược lại thì sẽ rất khó khăn và
có thể sẽ không phát triển được rừng. Để hiểu được vấn đề này qua chuyên đề
tụi cú tìm hiểu một số nguồn lực (vốn, giống, kỹ thuật/ con người,…) của huyện
21
Tõn Uyờn để làm cơ sở cho việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
cộng đồng của huyện ngày một hiệu quả hơn.
- Nguồn vốn: Nguồn vốn địa phương ở đây có thể hiểu là vốn đất rừng,
rừng và nguồn vốn bằng kinh phí hỗ trợ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
+ Nguồn vốn rừng của huyện hiện nay không còn nhiều, đều là rừng tái
sinh và phục hồi sau nương rẫy, cây gỗ cổ thụ hầu như không còn. Chỉ còn lại
vốn đất vẫn còn mang tích chất đất rừng, hiện nay huyện cũng đã quy hoạch bảo
vệ và trồng mới rừng nhưng vẫn còn rất hạn chế.
+ Nguồn kinh phí để chi trả cho hoạt động quản lý bảo vệ rừng cộng đồng
của huyện rất ít. Việc đóng góp tự nguyện bằng kinh tế cuả cộng đồng là một
điều khó khăn, mà cộng đồng chỉ có thể góp công sức. Trong hoạt động trồng
rừng cộng đồng theo dự án 661 người dân tích cực tham gia một phần là vì trách
nhiệm và muốn vốn rừng của huyện được nâng lên, nhưng bên cạnh đó cũng
không tránh khỏi hiện tượng đi tham gia vì nguồn vốn hỗ trợ của dự án.
- Giống để trồng làm giàu và phát triển rừng cộng đồng: Thực tế rừng

cộng đồng của huyện hiện nay chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ để cây bản địa tự
tái sinh phục hồi. Việc tạo giống tại địa phương để đưa vào trồng phát triển rừng
là chưa có. Rừng cộng đồng trồng theo dự án 661 hoàn toàn là giống của dự án
cung cấp, huyện chỉ việc nhận giống và trồng. Đây cũng là một điều cản trở tiến
trình phủ xanh đất trống đồi trọc của huyện, chỉ trông chờ giống từ sự hỗ trợ của
các dự án và nhà nước mà chưa có kế hoạch sản xuất giống tại chỗ.
- Kỹ thuật/con người để quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng
của huyện:
+ Trong huyện tồn tại hệ thống kiến thức bản địa lâu đời và có kinh
nghiệm quý báu trong sản xuất nông lâm nghiệp, lĩnh vực lâm nghiệp tuy rằng
chưa phát triển nhưng tiềm tàng trong huyện là một kho kiến thức đáng khai
thác. Nếu biết kết hợp kỹ thuật hiện đại tiên tiến với các kỹ thuật bản địa thỡ đõy
chớnh là một điểm mạnh để rừng ngày một phát triển.
+ Người dân trong cộng đồng luôn luôn muốn học hỏi và học hỏi một
cách nhiệt tình. Và luôn sáng tạo trong công việc, cải tiến những kỹ thuật học
được để phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi địa bàn.
22
+ Con em trong huyện theo học nghề lâm nghiệp từ trung cấp đến đại học
chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Đây là một tiềm năng lớn bổ sung lực lượng trực tiếp cho
quản lý bảo vệ và phát triển rừng của địa phương.
Tóm lại, nguồn lực của huyện để quản lý bảo vệ và phát triển rừng chỉ là
nguồn nhân lực sẵn có với kinh nghiệm lâu đời trong sản xuất và có vốn đất
rừng có thể phát triển rừng. Ngoài ra huyện còn thiếu nhiều nguồn lực, cần được
sự quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp uỷ Đảng và các tổ chức để quản lý bảo
vệ và ngày một vốn rừng được phát triển.
4.2.3. Kết quả triển khai các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển rừng dựa
vào cộng đồng
Để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng, tại huyện Tõn Uyờn
đó triển khai nhiều hoạt động với mục đích chủ yếu là bảo vệ được rừng, rừng được
phát triển ổn định nhưng vẫn đem lại lợi ích cho cộng đồng. Một số hoạt động điển

hình ở huyện.
Bảng 4.6: Kết quả các hoạt động quản lí, bảo vệ và phát triển rừng dụă vào
cộng đồng tại huyện Tõn Uyờn
STT Hoạt động Tỷ lệ, %
1 Xây dựng bản quy ước 100
2 Phòng cháy chữa cháy rừng. 95
Qua bảng 4.6 ta thấy hiện tất cả các bản có diện tích rừng cộng đồng đều
đã xây dựng được bản quy ước riờng giỳp nâng cao nhân thức của các thành
viên trong cộng đồng, giúp họ hiểu đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham
gia quản li, bảo vệ rừng. Hạn chế phần nào tình trạng chăt phá rừng, lôi kéo
người dân tham gia công tác phòng chống cháy rừng.
* Xây dựng quy ước
Quy ước bảo vệ và phát triển rừng là công cụ, phương tiện để bảo vệ và
phát triển rừng tận gốc, góp phần thúc đẩy xã hội hoá công tác QLBVR và cụ
thể hoá quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Để địa phương thực hiện tốt nhất, đặc
biệt là ở cấp thôn bản thì chính phủ và bộ nông nghiệp đã có nhiều nghị định và
thông tư. Mới nhất là nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 chính phủ về
ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế nghị định 29/1998/NĐCP) và
ngày 1/8/2007 bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư số
23
70/2007/TT-BNN hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ và
phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn (thay thế thông tư số
56/1999/BNN-KL). Thông tư 70 nêu rõ “Quy ước bảo vệ và phát triển rừng của
cộng đồng dân cư thôn là những quy tắc xử sự trong nội bộ cộng đồng, do cộng
đồng xây dựng, thoả thuận đa số và tự nguyện thực hiện, được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ vào các tài liệu thu thập và sự chỉ đạo của
kiểm lâm địa bàn và UBND xã, bản đã cùng nhau xây dựng được một bản quy
ước trên cơ sở kế thừa, phát huy những phong tục, tập quán, đạo đức truyền
thống tốt đẹp của cộng đồng bài trừ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phạt
vạ trái với quy định của pháp luật, có sự tham gia của toàn thể người dân và

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Xây dựng bản quy ước của huyện với mục đích là xã hội hoá công tác bảo
vệ và phát triển rừng, huy động nguồn lực cộng đồng bảo vệ và phát triển rừng
bằng việc kết hợp giữa truyền thống và tập tục tốt đẹp của cộng đồng với chính
sách, pháp luật của nhà nước.
Nội dung bản quy ước đã đề cập khá đầy đủ theo hướng dẫn của thông tư
70, đã đề cập rõ đến công tác bảo vệ rừng, công tác phát triển rừng. Về quyền,
nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng trong QLBV&PTR và việc phân chia lợi
ích thu được từ kết quả quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng trong cộng
đồng dân cư. Và về việc giải quyết, xử lý, bồi thường những vi phạm quy ước,
khen thưởng và xử lý những tổ chức cá nhân trong ngoài cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, để nội dung quy ước thực sự đi vào cuộc sống, gắn liền với cuộc
sống của người dân, nhất là những người sống trực tiếp với rừng thì cần được sự
quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn thể nhân dân. Cần thiết cú cỏc hình
thức tuyên truyền, vận động người dân tham gia xây dựng và thực hiện các quy
định của quy ước. Đồng thời cũng cần có chính sách khen thưởng, xử phạt, đánh
giá các hoạt động theo quy ước bảo vệ rừng tại cộng đồng nhằm khích lệ người dân
trong quá trình thực hiện quy ước.
Trong thực tế thực hiện quy ước ở huyện Tõn Uyờn hiện nay cũng được
sự đồng tình ủng hộ, quan tâm của các cấp chính quyền và sự tham gia thực hiện
nhiệt tình và tự nguyện của người dân, đồng thời tạo sự gắn kết giữa các thành
viên trong cộng đồng. Quy ước cũng mang lại lợi ích thiết thực trên nhiều mặt
24
cho cộng đồng, hơn nữa huyện chủ yếu là dân tộc thiểu số nên tạo điều kiện cho
mỗi cộng đồng duy trì và phát huy bản sắc văn hoỏ tụt đẹp từ lâu đời của dân tộc
mình. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số người dân không quan tâm đến quy
ước và cũng không cần biết mình có nghĩa vụ gỡ nờn hay vi phạm quy ước và
có đôi khi biết là minh làm sai nhưng vẫn cố tình làm.
* Phòng cháy chữa cháy rừng, phòng trừ sâu bệnh hại
Trong bản quy ước có nêu rõ:

- Mọi người dân trong cộng đồng phải có ý thức, trách nhiệm trong tuyên
truyền bảo vệ rừng nói chung và lửa rừng nói riêng.
- Khụng được dùng lửa trong rừng cộng đồng.
- Mọi nhà phải có trách nhiệm chữa cháy rừng khi có sự cố xảy ra.
Nhưng thực tế cho thấy việc phũng chỏy hầu như không thực hiện, việc tuyên
truyền vận động người dân cũng rất hạn chế, mọi người dân vẫn ngang nhiên đem
lửa vào rừng. Kết quả là những khu rừng vẫn thường xảy ra, khi xảy ra cháy rừng
báo động để nhân dân chữa cháy, nhưng do không chủ động trước, người dân thì ở
không tập trung, địa hình phức tạp chỉ sử dụng những vật thô sơ để chữa cháy nên
khi người dân tham gia chữa cháy cũng không đem lại kết quả cao.
Phòng trừ sâu bệnh hại cũng không được tiến hành, chỉ mặc cho sâu bệnh
tự sinh tự diệt. Nhìn chung rừng của huyện cũng chưa có đợt sâu bệnh hại nặng
nào đáng kể.
Việc triển khai các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển rừng của huyện
còn rất nhiều hạn chế, rất nhiều hoạt động còn chưa được triển khai, điều này
làm cho vốn rừng của huyện không được ổn định
4.2.4. Cơ chế chia sẻ lợi ích của cộng đồng
Khi đặt vấn đề đến cụm từ “chia sẻ lợi ớch” thỡ nhiều người sẽ cho rằng
đây là một cụm từ có tính đinh lượng, cũng sẽ có người cho rằng nó sẽ mang
tính định lượng lại vừa mang tính định tính, bởi tuỳ thuộc vào một điều kiện
hoàn cảnh nào đó thỡ nú sẽ có thuộc tính phù hợp với bản chất mà nó có thể đáp
ứng. Trong phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu đến chia sẻ lợi ích từ rừng cộng
đồng cho các thành viên trong cộng đồng.
Về cơ chế hưởng lợi trong giao và khoán rừng, chính phủ đã ban hành
quyết định 178/2001/QĐ-TTG. Quyết định này chỉ áp dụng cho cá nhân, hộ gia
25

×