Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tội chống người thi hành công vụ và dấu hiệu pháp lý của tội này theo bộ luật hình sự 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.81 KB, 69 trang )

1

Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG I
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ DẤU HIỆU PHÁP LÝ
CỦA TỘI NÀY THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
1.1. KHÁI NIỆM TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Trong Bộ luật hình đầu tiên của nước ta năm 1985, tội chống người thi
hành công vụ được quy định tại chương VIII: Các tội xâm phạm an toàn trật tự
công cộng và trật tự quản lý hành chính, mục C, Điều 205 như sau:
“Người nào dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực chống người thi hành
công vụ cũng như dùng mọi thủ đoạn ép họ thực hiện những hành vi trái pháp
luật, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 101 và điều 109, hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác…”
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự
1999 đã quy định tội chống người thi hành công vụ tại Điều 257, chương XX:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Bộ luật hình sự 1999 quy định
nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính thành một chương riêng là
sửa đổi mang tính tích cực so với Bộ luật hình sự 1985. Việc quy định như vậy
đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn, thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm của các tội phạm
này, từ đó đề ra đường lối xử lý phù hợp hơn, tương ứng với tính chất của nhóm
tội phạm.
Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
1. “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác
cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực
hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”…
Qua đó, có thể hiểu tội chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi


hành công vụ thực hiện công vụ của họ cũng như ép buộc họ phải thực hiện
hành vi trái pháp luật, gây trở ngại cho hoạt động bình thường của các cơ quan
nhà nước và tổ chức xã hội.


Khoá luận tốt nghiệp

2

Từ khi Bộ luật hình sự 1999 được ra đời đến nay chưa có văn bản ban
hành kèm theo nào hướng dẫn áp dụng tội chống người thi hành công vụ. Vì
vậy, việc hướng dẫn áp dụng tội phạm này vẫn theo quy định của Nghị quyết 04/
HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 1985.
Nội dung của Nghị quyết 04/HĐTP quy định:
“Công vụ là công việc mà cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho
một người thực hiện”.
“Người thi hành công vụ là người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có
thể là công dân được làm nhiệm vụ tuần tra canh gác… theo kế hoạch của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phục vụ lợi ích chung của nhà nước và xã hội
như cán bộ thuế, cảnh sát, đội viên, dân phòng…”
Hướng dẫn của nghị quyết đã chỉ ra dấu hiệu để xác định một người đang
thi hành công vụ bao gồm:
- Có chức năng và quyền hạn hoặc do cơ quan nhà nước trao cho quyền
hạn.
- Công việc đang thực hiện phải là công việc phục vụ lợi ích chung của
nhà nước và xã hội.
- Đang thi hành công vụ
Trên thực tế chúng ta có thể nhận biết được một người đang thi hành công

vụ căn cứ vào các dấu hiệu rõ ràng về đồng phục đặc trưng của công vụ, giấy tờ
hợp pháp, đeo phù hiệu hoặc thẻ nghề nghiệp… trong trường hợp không có
những dấu hiệu đó thì người đang thi hành công vụ phải được mọi người hoặc ít
nhất là người thực hiện hành vi phạm tội hoặc người phạm tội biết rõ tư cách
của mình. Do vậy nghị quyết còn hướng dẫn “Người đang thi hành công vụ vì
nghĩa vụ công dân (như đuổi bắt kẻ phạm tội đang chạy trốn) tuy không phải
người thi hành công vụ nhưng nếu do công vụ mà bị giết thì họ có thể được
hưởng các chính sách xã hội như đối với người thi hành công vụ”.


Khoá luận tốt nghiệp

3

Nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ, có một vấn đề cần được
chú ý đến, cần được làm rõ. Đó là có những trường hợp hành vi chống người thi
hành công vụ không cấu thành tội chống người thi hành công vụ mà có thể cấu
thành tội khác hoặc chỉ bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng cũng có thể không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử lý về mặt hành chính. Ở đây việc làm rõ
khi nào hành vi chống người thi hành công vụ không cấu thành tội chống người
thi hành công vụ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đường lối xử lý đối
với người có hành vi này.
Trên thực tế, có những trường hợp một người tuy được giao thực hiện
công vụ, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định nhưng đã vượt quá
giới hạn được giao dẫn đến việc xâm phạm từ phía người khác. Cũng có trường
hợp người thi hành công vụ đã không thực hiện đúng, không thực hiện đầy đủ
công việc được giao, thậm chí họ còn làm trái công vụ đó, lợi dụng tính chất
công quyền của công vụ để sử dụng vào mục đích tư lợi, gây phương hại đến
quyền lợi của người khác, dẫn đến ự phản ứng trở lại từ phía người đó và hậu
quả là người được giao nhiệm vụ không hoàn thành được công vụ. Trong trường

hợp đó thi thành vi gọi là chống người thi hành công vụ có thể không cấu thành
tội chống người thi hành công vụ theo quy định tại Điều 257 Bộ luật hình sự
1999.
1.2. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999

1.2.1. Khách thể của tội chống người thi hành công vụ
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại.
Tội chống người thi hành công vụ là một trong những tội xâm phạm đến
hoạt động bình thường của nhà nước và xã hội trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Do vậy, nhóm các quan hệ xã hội bị hành vi chống người thi
hành công vụ xâm hại là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành
chính. Đó có thể là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan


Khoá luận tốt nghiệp

4

hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành trên các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Nhưng cũng có thể là các quan hệ hình thành
trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chức năng, nhiệm vụ
của mình, hay các quan hệ phát sinh trong quá trình các cá nhân và tổ chức
được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước
trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Ví dụ: quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực giữ gìn trật tự đường phố trên địa bàn các xã, phường mà nhà
nước trao cho các đội quản lý trật tự, tổ dân phòng quản lý.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể bị hành vi
phạm tội tác động của tội chống người thi hành công vụ là người thi hành công

vụ. Trong thực tiễn, tội phạm thường có hành vi chống người thi hành công vụ
là cán bộ thuế vụ, cảnh sát giao thông, đội viên dân phòng, cán bộ công an, kiểm
sát, toà án và các cán bộ chính quyền địa phương khác.
1.2.2. Mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Thông qua những biểu hiện đó mà
con người có thể trực tiếp nhận biết được tội phạm. Đó là:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (Thời gian,
địa điểm…) và công cụ, phương tiện, thủ đoạn…
Theo Điều 257 Bộ luật hình sự 1999, hành vi chống người thi hành công
vụ được biểu hiện tập trung ở những dạng hành vi sau:
* Hành vi dùng vũ lực chống người thi hành công vụ
Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ là hành vi dùng sức mạnh vật
chất tấn công người đang thi hành công vụ nhằm cản trở người thi hành công vụ.
Hành vi dùng vũ lực có thể bằng chân, tay để đấm, đá, trói hoặc cũng có thể
thông qua công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội như:Con dao, cây
gậy… Ví dụ:


Khoá luận tốt nghiệp

5

Khoảng 23 giờ ngày 6/3/2003 Nguyễn Quang Hà, Trần Việt Hùng,
Nguyễn Công Hoàng, Vũ Đức Hoài đang tiêm chích ma tuý tại nhà Hoài. Thấy
công an đẩy cửa xông vào hô bắt. Hoàng đã lấy cây gậy ở góc nhà quật vào
người một đồng chí công an rồi đẩy đồng chí này ngã rồi định bỏ chạy nhưng đã
bị đồng chí đó túm chân lại và bị bắt giữ.

Qua diễn biến các tình tiết vụ án trên có thể thấy việc truy cứu trách
nhiệm hình sự Hoàng về tội chống người thi hành công vụ là có căn cứ. Xem xét
những biểu hiện chống đối của Hoàng, có thể thấy hành vi của y đã dùng vũ lực
chống lại người đang thi hành công vụ. Hoàng biết rõ công an huyện đang thực
hiện việc bắt quả tang đối với mình nhưng vẫn có hành vi chống đối: Dùng gậy
quật vào người và đẩy ngã một đồng chí công an để chạy trốn.
*Hành vi đe doạ dùng vũ lực chống lại người đang thi hành công vụ
“Hành vi đe doạ dùng vũ lực chống lại người thi hành công vụ là việc
dùng cử chỉ, lời nói có tính răn đe, uy hiếp tinh thần khiến cho người thi hành
công vụ sợ hãi phải chấm dứt việc thi hành công vụ….sự đe doạ là thực tế và có
cơ sở để người bị đe doạ tin rằng lời đe doạ sẽ biến thành hiện thực”(1)
Ví dụ: Sáng ngày 3/4/2004, Đỗ Văn Quang sau khi trộm cắp được một
bọc áo tại 1 quầy hàng bán quần áo tại chợ Sen, Chí Linh, Hải Dương. Anh Ngô
Quân Bình cán bộ quản lý kiêm bảo vệ chợ Sen có mặt tại đó đã đề nghị Quang
về trụ sở công an huyện để giải quyết. Quang rút dao ra tiến lại gần anh Bình.
Anh Bình bỏ chạy, Quang đuổi theo và doạ sẽ đâm anh Bình nếu còn quay lại.
Được sự giúp đỡ của đông đảo mọi người ở chợ, anh Bình không bị Quang đuổi
tiếp, y đã bị mọi người giữ lại và lấy được con dao(2).
Qua vụ án trên cho thấy việc Quang cầm dao đuổi theo và doạ đâm anh
Bình khiến anh Bình hoàn toàn có căn cứ để tin rằng việc đe doạ trên sẽ trở
thành hiện thực, sự chống đối của Quang mang tính chất quyết liệt khiến cho
anh Bình đã không thực hiện được nhiệm vụ của mình là bảo vệ trật tự trong
chợ.
(1)
(2)

Giáo trình luật hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân 2006.
Bản án số 1210-HSST ngày 20-11-2004 của TAND huyện Chí Linh, Hải Dương



Khoá luận tốt nghiệp

6

Trong tội chống người thi hành công vụ, hành vi đe doạ dùng vũ lực có
thể ngay tức khắc (như rút dao dí vào cổ cán bộ chiến sĩ công an và yêu cầu nếu
mọi người khác không tránh ra cho người đó chạy thì người đó sẽ đâm chiến sĩ
công an này) nhưng cũng có thể có khảng cách về mặt thời gian như ví dụ trích
từ bản án số 1210 ngày 20/11/2004 của TAND TP Hải Dương. Ở ví dụ này, sức
mãnh liệt của sự đe doạ chưa đến mức làm tê liệt ý chí kháng cự của người bị đe
doạ. Người bị đe doạ còn có điều kiện để suy nghĩ cân nhắc và quyết định hành
động.
* Hành vi ép buộc người thi hành công vụ phải thực hiện hành vi trái
pháp luật
Ép buộc người thi hành công vụ phải thực hiện hành vi trái pháp luật là
hành vi chống chế người thi hành công vụ phải làm những việc trái với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ (như: buộc phải trả lại tang vật phạm pháp,
huỷ hoá đơn xử phạt) hoặc không làm những việc thuộc chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của họ (như: Để xe chở hàng lậu đi qua trạm gác…)
Trên thực tế, biểu hiện của hành vi ép buộc này thường là sử dụng những
thông tin có ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người thi hành công
vụ như bí mật đời tư hoặc có thể là hành vi vi phạm pháp luật của người đang thi
hành nhiệm vụ…nếu như người bị đe doạ (người thi hành công vụ) không thoả
mãn yêu cầu của người kia đưa ra nhằm giúp cho người đó thực hiện hành vi trái
pháp luật như: không thực hiện việc xử lý vi phạm, xử lý các hành vi vi phạm ở
mức độ thấp, không thực hiện nghĩa vụ mà người thi hành công vụ phải thực
hiện và có điều kiện để thực hiện.
Ví dụ: Chiều ngày 2/8/2005 sau khi phát hiện một xe chở gỗ trái phép, hai
đồng chí cán bộ kiểm lâm Hải Dương đã kịp thời đuổi theo và ngăn lại, yêu cầu
đưa xe về trụ sở cơ quan Kiểm lâm làm việc để kiểm tra và xử lý. Chủ hàng là

Hoàng Văn Tuấn rút tiền ra mua chuộc nhưng không được. Sau đó Tuấn rút tiền
trong cặp ra một tấm ảnh trong đó có ảnh hai đồng chí cán bộ kiểm lâm này và
đồng chí cán bộ kiểm lâm khác đang có những hành động không đẹp mắt với


Khoá luận tốt nghiệp

7

mấy cô tiếp viên trong một nhà hàng Karaoke và nói “nếu không để xe đi thì tập
ảnh này sẽ được công bố trên báo của thành phố”. Trước lời đe doạ đó, hai đồng
chí cán bộ kiểm lâm đã giải quyết cho xe chở gỗ của Tuấn đi và nhận lại tập
ảnh.
* Dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ
Qua nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh các dạng hành vi chống người
thi hành công vụ hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn khác nhau. Bởi vậy mà
một điều luật trong phạm vi giới hạn của nó không thể liệt kê được đầy đủ tất cả
thủ đoạn đó. Tuy nhiên, để đảm bảo việc xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp
luật, đặc biệt là hành vi phạm tội thì cần phải được quy định trong Bộ luật hình
sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về sự vận động không ngừng của thế giới vật chất nói chung cũng
như sự vận động của tội phạm nói riêng, các nhà làm luật đã đưa ra quy định
chung có thể coi là một dạng của hành vi chống người thi hành công vụ: “Thủ
đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ”, để đáp ứng yêu
cầu xử lý tội phạm trong thực tiễn. Đây là điểm mới bổ sung so với Bộ luật hình
sự 1985 về cầu thành tội phạm nhằm mô tả bao quát đầy đủ hơn các dạng hành
vi phạm tội trong thực tế. “Dùng thủ đoạn khác như các dạng hành vi đã phân
tích ở trên nhưng không phải là những hành vi đó. Ví dụ như: bôi nhọ, vu
khống… (cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ, vu khống cán bộ
đòi hối lộ hay quan hệ tình dục, tự gây thương tích hoặc giả gây thương tích để

vu khống cho cán bộ hành hung… hoặc sử dụng súc vật để cản trở việc thi hành
công vụ như việc đuổi chó ra cắn chiến sĩ công an đến bắt người…) Ví dụ:
Khoảng 17 giờ ngày 16/5/2005, sau khi nhận được điện báo có vụ tiêm
chích ma tuý tại nhà Nguyễn Thị Mai, xã X huyện Kim thành – Hải Dương,
đồng chí Đỗ Văn Long trưởng công an huyện cùng ba đồng chí khác tiến hành
bao vây bắt quả tang. Ba đồng chí kia ở ngoài canh trừng cửa trước, cửa sau, còn
đồng chí Long vào trong. Thấy vậy, Mai chốt ngay cửa lại, tự cởi bỏ quần áo ôm
chặt anh Long. Thị đã bị anh Long đẩy ngã, lập tức thị giở trò kêu la “có người


Khoá luận tốt nghiệp

8

cưỡng bức tôi”… Anh Long hô các chiến sĩ vào vây bắt. Nhân lúc đó bọn tiêm
chích lẻn qua cửa sau chạy trốn.Nhưng sau khi bị đuổi đến cuối xã thì chúng bị
bắt.
Như ví dụ trên, ta có thể thấy rằng hành vi tự cởi bỏ quần áo trước mặt
chiến sĩ công an đang thi hành nhiệm vụ (bắt quả tang ổ tiêm chích mà tuý) và
ôm chặt chiến sĩ công an của Nguyễn Thị Mai đã khiến cho việc thi hành công
vụ của các chiến sĩ công an gặp khó khăn.
Qua thực tế, chúng ta có thể thấy thủ đoạn mà người thực hiện hành vi
phạm tội rất phức tạp, đa dạng. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng những thủ đoạn
đó phải thực sự làm cho người thi hành công vụ khó có khả năng thực hiện và
hoàn thành được nhiệm vụ của mình, tránh trường hợp người phạm tội có những
hành vi tác động nhưng không đủ khả năng cản trở người thi hành công vụ.
Người thi hành công vụ vẫn khắc phục được tình trạng đó để hoàn thành công
vụ. Nhưng họ đã lợi dụng sự việc đó để không thi hành đúng công vụ dẫn đến
không hoàn thành được nhiệm vụ được giao, thì cần xem xét để xử lý hành vi đó
của người thi hành công vụ. Nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng (như thiệt hại về

tài sản hoặc làm cho uy tín của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội bị giảm sút) có
thể bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 185
BLHS)
Tóm lại, các dạng hành vi khách quan của tội chống người thi hành công
vụ biểu hiện rất phức tạp trên thực tế. Việc xem xét để đánh giá đúng mức độ
để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp xử lý khác nhiều
khi rất khó khăn. Theo quy định tại Điều 257 khoản 1 Bộ luật hình sự tội phạm
được coi là hoàn thành kể từ khi người phạm tội đã thực hiện một trong các
hành vi kể trên.
1.2.3. Mặt chủ quan của tội chống người thi hành công vụ
Xét về mặt lý luận thì tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt chủ quan
và khách quan. Mặt khách quan là biểu hiện bên ngoài của tội phạm mà ta có thể
nhận biết được. Mặt chủ quan là biểu hiện tâm lý bên trong của người phạm tội.


Khoá luận tốt nghiệp

9

Với ý nghĩa là một mặt của hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm
không tồn tại độc lập mà nó luôn gắn liền với măt khách quan của tội phạm.
Thông qua mặt khách quan ta có thể đánh giá nhận biết được thái độ chủ quan
của người phạm tội. Những hoạt động tâm lý đó bao gồm các nội dung chủ yếu
sau:
- Lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài
của tội phạm như thế nào (lỗi)
- Điều gì thúc đẩy người đó thực hiện hành vi phạm tội (động cơ)
- Người phạm tội nhằm đạt được điều gì qua việc thực hiện hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội (mục đích)
Trong các nội dung biểu hiện của mặt chủ quan thì lỗi là biểu hiện cơ bản

được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Nó có ý nghĩa quyết định
trong việc xác định trách nhiệm hình sự của một người. Mục đích và động cơ
tuy là dấu hiệu của mặt chủ quan nhưng không phải là dấu hiệu của mặt chủ
quan nhưng không phải luôn có ý nghĩa quyết định đối với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. ở tội chống người thi hành công vụ, động cơ
và mục đích là dấu hiệu để phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác.
*Lỗi của người phạm tội
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra, và được biểu hiện dưới hình thức
lỗi cố ý hoặc vô ý.
Đối với tội chống người thi hành công vụ, lỗi được xác định trong măt
chủ quan của cấu thành tội phạm là cố ý trực tiếp. Nghĩa là người phạm tội nhận
thức được đầy đủ hành vi trái pháp luật của mình là đang chống lại người thi
hành công vụ và mong muốn thực hiện việc chống lại này khiến cho người đang
thi hành công vụ không hoàn thành công vụ được giao.
Trong trường hợp người phạm tội không biết hoặc có nghi ngờ về tính
hợp pháp của người đang thi hành công vụ thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà
xác định người đó có lỗi không. Tuy nhiên, việc xem xét nhận thức của người


Khoá luận tốt nghiệp

10

phạm tội trong những trường hợp này cần phải cẩn trọng. Bởi nhiều trường hợp
người phạm tội tuy nhận thức được rõ ràng là người thi hành công vụ nhưng vẫn
cố tình thể hiện là mình không biết. Ví dụ:
Ngày 3/3/2005, sau khi nhận được lệnh bắt Trần Thanh Bình vì tội nhận
hối lộ, ba đồng chí công an huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương thi hành lệnh bắt và
mời công an xã chứng kiến. Khi đến nhà Bình đồng chí Nguyễn Văn Thịnh giới

thiệu thành phần người có mặt thi hành lệnh bắt giam. Lúc đó Trương Thị Hải –
vợ Bình chạy ra hô:“Ối làng nước ơi công an bắt người vô cớ”. Ngay lúc đó bảy
người hàng xóm chạy sang nhà Bình. Em trai Bình là Trần Thanh Trung đòi
kiểm tra giấy tờ. Sau đó trung vò nát tập giấy tờ trong tay và nói “công an bắt
người vô cớ, không có bằng chứng lại còn làm lệnh giả nữa, mọi người trói
chúng lại đánh cho một trận”.
Qua ví dụ trên, có thể thấy rõ ràng Hải, Trung nhận thức được đó là
những người đang thi hành công vụ nhưng vấn cố tình giả vờ như không biết và
thực hiện việc cản trở người thi hành công vụ, khiến cho các thời đã gây ra một
dư luận xấu và gây mất trật tự trị an xã hội.
*Động cơ và mục đích của người phạm tội
Động cơ của người phạm tội rất phong phú da dạng nhưng thường mang
tính chất cá nhân, tư lợi, lợi ích có thể là vật chất cụ thể hoặc uy tín ảnh hưởng
của cá nhân họ trước một bộ phận quần chúng, có thể cũng qua đó mà có được
lợi ích vật chất.
Người thực hiện hành vi phạm tội nhằm chống lại người đang thi hành
công vụ để cản trở hoặc ép buộc người đó không thực hiện công vụ thì người
này có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành
công vụ mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khác. Ví dụ như dùng gậy đập
vào đầu của người đang thi hành công vụ nhằm cướp tài sản, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Hoặc trường hợp người thực hiện tội
phạm có hành vi chống lại nhân viên nhà nước, cán bộ chính quyền đang thi


Khoá luận tốt nghiệp

11

hành công vụ nhưng nhằm mục đích chống lại chính quyền nhân dân thì có thể
phạm tội khủng bố hoặc tội phá rối an ninh.

Như vậy, trong tội chống người thi hành công vụ, dấu hiệu mục đích
trong mặt chủ quan của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc để phân biệt tội này một
số tội khác.
1.2.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi theo luật định. Chủ thể của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
tội phạm.
Tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 bộ luật hình sự
có mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 1 là đến 3 năm tù. (Tội ít nghiêm
trọng). Như vậy chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là người từ đủ 16
tuổi trở lên có NLTNHS và đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 257 (hành vi
chống người thi hành công vụ. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này.
Theo nguyên tắc lãnh thổ quy định tại Điều 5 BLHS: “Bộ luật hình sự áp
dụng đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Do vậy khi người phạm tội không là công dân Việt Nam
nhưng đã thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ trên lãnh thổ Việt
Nam thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Trong
trường hợp người nước ngoài phạm tội mà họ được hưởng các quyền miễn trừ tư
pháp theo luật quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết
theo con đường ngoại giao.
1.3. NHỮNG TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG QUY ĐỊNH TẠI
KHOẢN 2 ĐIỀU 257 BLHS

Bộ luật hình sự 1999 Điều 257 đã kế thừa tình tiết tăng nặng định khung
“gây hậu quả nghiêm trọng” của Điều 205 Bộ luật hình sự 1985, đồng thời quy


Khoá luận tốt nghiệp


12

định thêm một số tình tiết tăng nặng định khung: “Phạm tội có tổ chức; phạm tội
nhiều lần, xúi dục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; tái phạm nguy
hiểm”, nhằm quy định một cách đầy đủ hơn tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, từ đó đề ra mức hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội mà
người phạm tội thực hiện.
1.3.1. Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp phạm tội trong đó có sự cấu kết chặt
chẽ giữa những người cùng phạm tội. Sự cấu kết ở đây thể hiện sự liên kết chặt
chẽ về mặt chủ quan, sự phân hoá vai trò về mặt khách quan của những người
phạm tội. Thậm chí ở đây còn có sự điều khiển chung thống nhất cho phép
người phạm tội có điều kiện chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt, có khả năng thực hiện
tội phạm liên tục, lâu dài, cản trở triệt để hơn việc thi hành công vụ của người
đang thi hành công vụ. Ví dụ:
Ngày 16/7/2003, công an thành phố Hải Dương đã truy bắt được một
nhóm tội phạm gồm 7 tên, do Nguyễn Văn Khang cầm đầu. Theo kết quả điều
tra của công an thành phố và lời khai của Khang: Nhóm tội phạm này được
thành lập vào cuối năm 2002, tiến hành cướp tài sản 16 lần trong và ngoài tỉnh
Hải Dương. Trước khi tiến hành cướp, bọn chúng đều vạch kế hoạch chu đáo,
chuẩn bị kĩ lưỡng về công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian thực hiện tội
phạm, có tới 4 lần bị công an, tổ trưởng tổ dân phố phát hiện kịp thời và tiến
hành đuổi bắt. Nhưng do có sự thống nhất của chúng là nếu công an đuổi thì cứ
phân tán chạy chốn, nếu bị cản thì đâm thẳng, nên lần thứ 4 này mới bị bắt.
Trong 3 lần trước, khi bị công an đuổi bắt, chặn đường, chúng đã lao xe thẳng
vào 2 đồng chí công an, dùng côn quật 1 đồng chí bị chấn thương sọ não và sau
đó đã chết….
Như vậy, với sự câu kết chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo về phương thức chạy
chốn…. Nhóm tội phạm này đã 4 lần tấn công, cản trở người thi hành công vụ,

đến lần thứ 4 mới bị bắt.
1.3.2. Phạm tội nhiều lần


Khoá luận tốt nghiệp

13

Đây là trường hợp phạm tội mà trướ đó người này đã phạm tội đó ít nhất 1
lần nhưng chưa bị xét xử.
Trong trường hợp phạm tội chống người thi hành công vụ nhiều lần,
người phạm tội đã thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ từ 2 lần trở
lên và chưa bị xét xử. Mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội đó đều thoả mãn đầy
đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Trở lại với ví dụ phần 1.3.1, ta nhận thấy rằng hành vi chống người thi
hành công vụ xảy ra 4 lần và mỗi lần đều thoả mãn đầy đủ dấu hiệu của cấu
thành tội phạm nhưng chưa bị xét xử lần nào.
Như vậy, nhóm tội phạm này đã phạm tội chống người thi hành công vụ
theo điểm b khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự.


Khoá luận tốt nghiệp

14

1.3.3. Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội
Khác với trường hợp phạm tội có tổ chức, các vụ án này xảy ra không có
tổ chức, phân công nhiệm vụ phạm tội. Những người phạm tội do thiếu hiểu
biết, ý thức chấp hành pháp luật còn kém nên đã bị người khác xúi giục, kích
động, lôi kéo và đã nảy sinh hành vi chống lại cán bộ và nhân viên thừa hành

nhiệm vụ.
Trong trường hợp này người phạm tội đã có những hành vi xúi giục, kích
động đến người khác khiến người này phạm tội. Người phạm tội có thể xúi giục,
nghĩ ra việc phạm tội, thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người
khác nhằm thực hiện ý định phạm tội đã có. Sự xúi giục này được thực hiện
bằng nhiều thủ đoạn như lôi kéo, kích động, cưỡng ép, lừa dối. Việc xúi giục,
kích động, lôi kéo có mức độ nghiêm trọng khác, tuỳ thuộc và một hoặc một số
người nhất định và tuỳ và từng trường hợp.
Ví dụ: Nguyễn Việt Thắng là chủ một xưởng gỗ tại xã B, huyện Nam
Sách, Hải Dương. Xưởng gỗ đi vào hoạt động hơn 1 năm mà chưa có giấy phép
hoạt động. Thắng đã thuê những thanh niên trong cùng thôn, xã làm việc cho
mình. Ngày 17.6.2004, hai đồng chí cán bộ công an huyện Nam Sách đến đề
nghị Thắng về trụ sở công an giải quyết. Thắng cho người gọi hàng xóm, người
nhà của những người làm việc tại xưởng đến bảo là: “đã nộp đầy đủ thuế rồi mà
công an còn đòi tiền thêm, đuổi đánh côn an đi”… Những người này do bị kích
động, bị thắng lừa dói là “công an đến đòi tiền vô lý” nên đã đuổi đánh hai đồng
chí công an huyện. Họ tưởng rằng việc “đòi tiền vô lí đó” nhằm làm cho xưởng
gỗ hoạt động khó khăn, con em họ thất nghiệp, cậy quyền áp bức dân….
Hành vi kích động, lừa dối của Thắng không chỉ xâm hại đến hoạt động
bình thường của cơ quan nhà nước, hoạt động công vụ của các chiến sĩ công an
nhân dân mà còn xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người thi hành công
vụ. Hành vi đó đã gây ra dư luận xấu, mất niềm tin vào pháp luật của quần
chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội.


Khoá luận tốt nghiệp

15

1.3.4. Gây hậu quả nghiêm trọng

Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của Hội đồng thẩm phán toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn: “Hậu quả nghiêm trọng có thể là người thi hành
công vụ không hoàn thành được nhiệm vụ, việc chấp hành pháp luật ở địa
phương hoặc khu vực trở nên lỏng lẻo, kẻ xấu lợi dụng cơ hội reo rắc dư luận
ảnh hưởng xấu”.
Ví dụ: Lê Ngọc Duy sau khi trộm cắp tài sản nhà chịNguyễn Thị Thu đã
bị phát hiện và báo công an. Khi bị công an huyện Thanh Hà đuổi bắt, Duy đã
chốn vào nhà chị gái là Lê Thị Minh. Minh mở cổng sau cho Duy chạy thoát và
còn thả chó ngăn không cho các chiến sĩ công an vây bắt Duy. Đến 3 hôm sau
Duy đã bị bắt.
Như vậy, Minh đã biết hành vi giúp đỡ người phạm tội chạy chốn của
mình là trái pháp luật, việc này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là người phạm tộ
(Duy) đã chạy thoát, tới 3 ngày sau mới bị bắt, công an huyện đã không hoàn
thành được nhiệm vụ của mình. Bị cáo Lê Thị Minh bị kết án về tội chống người
thi hành công vụ theo khoản 2 điểm b Điều 257 Bộ luật Hình sự.
1.3.5. Tái phạm nguy hiểm
Điều 49 khoản 2 Bộ luật Hình sự 1999 quy định:
“Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm”.
a. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý.
b. Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do ý.
Theo qui định Khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự thì mức độ cao nhất của
khung hình phạt trong trường hợp này chỉ là 7 năm tù (tội nghiêm trọng). Do đó
việc xem xét có phải là tái phạm nguy hiểm tại điểm a khoản 2 Điều 49 sẽ không
đặt ra.


Khoá luận tốt nghiệp


16

Như vậy, trường hợp phạm tội chống người thi hành công vụ với tình tiết
tái phạm nguy hiểm có nghĩa là người phạm tội đã tái phạm về bất cứ tội gì,
chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chống người thi hành công vụ.
1.4. PHÂN BIỆT TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VỚI MỘT SỐ
TỘI KHÁC

Khi nghiên cứu phần các tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999, ta có thể
nhận thấy có một số tình tiết tăng nặng định khung ở một số tội có qui định đối
tượng tác động của tội phạm là người thi hành công vụ như: Tội giết người
(Điều 93), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác (Điều 104).
Do vậy, ta có thể so sánh tội chống người thi hành công vụ (Điều 257) với
các tội trên để làm sáng tỏ dấu hiệu pháp lí của những tội này, thấy được vai trò
vô cùng quan trọng của người thi hành công vụ vì lợi ích nhà nước, xã hội, giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.4.1 Phân biệt tội chống người thi hành công vụ và tội giết người qui
định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự
*Về khái niệm:
Theo nghiên cứu ở mục 1.1 về khái niệm tội chống người thi hành công
vụ, tội chống người thi hành công vụ được hiểu là “hành vi dùng vũ lực, đe doạ
dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện
công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật”.
Điều 93 Bộ luật Hình sự không mô tả dấu hiệu cụ thể của tội giết người
mà chỉ định danh. Tuy nhiên qua nghiên cứu và thực tiễn xét xử có thể định
nghĩa “giết người là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái
pháp luật” và trong trường hợp được quy định tại khoản 1 điểm d thì đối tượng
tác động của tội phạm là người đang thi hành công vụ.
*Về dấu hiện pháp lí.

+ Khách thể:


Khoá luận tốt nghiệp

17

Như đã phân tích ở phần 1.2.1 khách thể của tội chống người thi hành
công vụ là xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước. Còn khách thể tội
giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật Hình sự là xâm phạm đến quyền được
sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng con người. Đối tượng của tội
phạm là người đang sống, đang tồn tại trong thể giới khách quan.
Như vậy, khách thể và đối tượng tác động của tội giết người và tội chống
người thi hành công vụ khác. Nhưng cũng có trường hợp người phạm tội không
chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước mà còn xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ của người thi hành công vụ.
Như vậy, chỉ với hành vi chống người thi hành công vụ, người phạm tội
cùng một lúc đã xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Nếu người phạm tội giết người thi hành công vụ nhằm cản trở việc thi hành
công vụ thì họ sẽ bị xử lí theo qui định tại Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình
sự , Vì như vậy mới phản ánh được đầy đủ bản chất và tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội.
+ Mặt khách quan:
Khi nghiên cứu mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ, ta
thấy hành vi khách quan của tội này rất phong phú và phức tạp, có thể là dùng
vũ lực như đánh, đấm, bắt trói, hoặc đe doạ dùng vũ lực, thủ đoạn khác tác động
đến người thi hành công vụ, thậm chí ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
với những công cụ phương tiện phạm tội khác nhau như vũ khí, tài liệu, ảnh,
giấy tờ….
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt tính mạng của

người khác một cách trái pháp luật gây ra cái chết cho con người với tư cách
thực thể đang sống, đang tồn tại. Hành vi tước đoạt tính mạng có thể là dạng
hành động như: đâm, chém, bắn… hoặc không hành động như: bác sĩ đã cố tình
không cho bệnh nhân uống thuốc đã dã đến hậu quả là người bệnh tử vong.
Nếu như ở tội chống người thi hành công vụ, hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc, tức là người thi hành công vụ không hoàn thành công việc mà


Khoá luận tốt nghiệp

18

mình được giao; thì ở tội giết người, hậu quả chết người là dấu hiện bắt buộc.
Trường hợp không gây ra hậu quả chết người thì việc xác định tội danh sẽ tuỳ
thuộc vào lỗi của người phạm tội trong mặt chủ quan của tội phạm và mức độ
nghiêm trọng của hậu quả.

+ Mặt chủ quan
Ở cả tội giết người và tội chống người thi hành công vụ, người phạm tội
đều có lỗi cố ý. Ở tội chống người thi hành công vụ, lỗi được xác định là cố ý
trực tiếp. Đối với tội giết người, lỗi cố ý ở đây có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Khi hậu quả chết người xảy ra ở tội giết người, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp
hay gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội. Nhưng nếu hậu quả chết
người chưa xảy ra thì việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp có ý nghĩa
quan trọng trong việc định tội. Nếu là lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt. Còn nếu là lỗi cố ý gián tiếp
thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích
(nếu thương tích xảy ra thoả mãn đòi hỏi của cấu thành tội phạm này).
Như vậy, khi người phạm tội giết người thi hành công vụ nhưng hậu quả
chết người không xảy ra thì việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp cũng

tương tự như trên đã phân tích.
+Về chủ thể
Trong tội chống người thi hành công vụ, chủ thể của tội phạm là người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định, tức là từ đủ 16 tuổi trở
lên.Còn trong tội giết người: chủ thể của tội phạm là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Nhìn chung khi so sánh mức hình phạt của tội chống người thi hành công
vụ và tội giết người cho ta thấy rằng mức hình phạt đối với tội giết người cao
hơn so với tội chống người thi hành công vụ (tội giết người mức cao nhất là tử
hình, tội chống người thi hành công vụ mức cao nhất là 7 năm tù) phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm.


Khoá luận tốt nghiệp

19

1.4.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác qui định tại điểm
k khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự
* Về khái niệm:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là
hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác dưới dạng thương tích
hoặc tổn thương khác.
Tội chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ
lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ hoặc ép buộc
họ phải thực hiện hành vi trái pháp luật, gây trở ngại cho hoạt động bình thường
của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
*Về dấu hiệu pháp lí:
+ Khách thể:
Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của

người khác là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ. Theo giải thích của
tổ chức y tế thế giới (WHO): Sức khoẻ là “tình trạng thoải mái của con người về
thể lực, tinh thần và xã hội”. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác được hiểu là làm biến đổi tình trạng thoải mái đó theo
chiều hướng tiêu cực.
Khách thể của tội chống người thi hành công vụ là trật tự quản lí hành
chính Nhà nước. Có thể phân biệt rõ khách thể của hai tội phạm này. Tuy nhiên
có trường hợp mỗi tội phạm này không chỉ xâm hại đến một quan hệ xã hội với
tư cách là kháchthể trực tiếp của tội phạm mà còn có thể xâm hại đến những
quan hệ xã hội khác. Ví dụ: Bằng hành vi chống người thi hành công vụ, người
phạm tội đã gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người thi hành công
vụ… Người phạm tội đã không chỉ xâm hại đến trật tự quả lí hành chính Nhà
nước mà còn xâm phạm đến quyền cơ bản của con người.
+ Mặt khách quan:


Khoá luận tốt nghiệp

20

Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích là hành vi có khả năng
gây thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khoẻ của người khác.
Người phạm tội có thể sử dụng dao, súng… Khi xâm phạm đến thân thể của
người khác, người phạm tội có thể gây ra những vết thương ở phần mềm, gãy
xương hoặc làm mất một phần cơ thể. Có trường hợp khi xâm phạm đến thân thể
của nạn nhân, người phạm tội không gây ra thương tích nhưng để lại tổn hại cho
sức khoẻ của họ.
Ở tội chống người thi hành công vụ, hành vi khách quan của tội phạm
được thể hiện dưới dạng: Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ; Đe doạ
dùng vũ lực chống người thi hành công vụ; Ép buộc người thi hành công vụ thực

hiện hành vi trái pháp luật; Thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ.
Qua nghiên cứu cho thấy hành vi dùng vũ lực trong tội chống người thi
hành công vụ cũng là một dạng của hành vi khách quan trong tội cố ý gây
thương tích, bởi hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động đến người thi hành
công vụ cũng chứa đựng khả năng gây tổn hại cho sức khoẻ của người đó.
Trường hợp gây thương tật cho người thi hành công vụ thoả mãn các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự, người phạm tội
sẽ bị xử lí theo tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác.
Về mặt hậu quả: Cũng như tội giết người, hậu quả của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là dấu hiệu bắt buộc, còn
trong tội chống người thi hành công vụ thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt
buộc.
+ Mặt chủ quan.
Lỗi của người cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác và lỗi của người chống người thi hành công vụ đều được xác định là
lỗi cố ý.
+ Chủ thể:


Khoá luận tốt nghiệp

21

Chủ thể của tội phạm là người không thuộc những trường hợp được quy
định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự, và đạt độ tuổi nhất định.
Chủ thể của tội phạm chống người thi hành công vụ phải là người từ đủ
16 tuổi trở lên. Còn chủ thể của tội cố ý gây thương tích phải là người từ đủ 14
tuổi trở lên, hoặc từ đủ 16 tuổi trở lên tuỳ thuộc người đó bị áp dụng khung hình
phạt nào để quyết định hình phạt.

*Về hình phạt:
Tội chống người thi hành công vụ có 2 khung hình phạt, khung cơ bản với
mức hình phạt tới 3 năm từ, khung tăng nặng với mức cao nhất là 7 năm tù.
Tội cố ý gây thương tích có 4 khung hình phạt, trong đó khung cơ bản cao
nhất là phạt tù đến 3 năm, khung tăng nặng cao nhất là chung thân.
Tóm lại, qua việc phân biệt tội chống người thi hành công vụ và một số
tội phạm khác có liên quan như đã nêu ở trên, việc xác định mối liên hệ giữa các
tội phạm này trong nhiều trường hợp là rất phức tạp và khó khăn. Do đó, khi xác
định tội danh đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nghiên cứu, đồng thời phải
căn cứ đúng theo các dấu hiệu cấu thành của từng tội phạm cụ thể thì mới định
tội danh một cách chính xác.
1.5 ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG
VỤ

Theo nguyên tắc xử lý tội phạm thì: “mọi hành vi phạm tội phải được phát
hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật” nhằm không
chỉ trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành những công dân có
ích cho xã hội. Xác định trách nhiệm pháp lí mà người đó “gánh vác” khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh
phòng và chống tội phạm này, qua đó bảo vệ và duy trì trật tự an toàn xã hội.
Điều 257 Bộ luật Hình sự quy định hai khung hình phạt:
- Khung cơ bản với mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
- Khung tăng nặng có mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.


Khoá luận tốt nghiệp

22


Đối chiếu với hai khung hình phạt trên ta nhận thấy ở Điều 205 Bộ luật
Hình sự 1985 quy định mức hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ
có sửa đổi rõ ràng. Tội chống người thi hành công vụ ở cả hai bộ luật đều quy
định hai khung hình phạt nhưng điểm mới cần nói ở đây là:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự 1999 đã nâng mức hình phạt cải tạo không gian
giữ (khoản 1 – khung cơ bản) từ 1 năm lên 3 năm để tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, và nhằm bảo đảm hiệu quả quá trình
giáo dục của loại và mức hình phạt này. Đồng thời tại khoản 2 đã hạ mức tối đa
của khung hình phạt từ 10 năm xuống còn 7 năm, tương ứng với mức độ thực tế
của tội phạm.
Thứ hai, Bộ luật hình sự 1999 đã bổ sung một số tình tiết định khung tăng
nặng ở khoản 2 ngoài tình tiết phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định
trong Bộ luật Hình sự 1985. Đó là các tình tiết: Phạm tội có tổ chức; phạm tội
nhiều lần; xúi giục lôi kéo, kích động người khác phạm tội; tái phạm nguy hiểm.
Những tình tiết này thường hay gặp trong các vụ án chống người thi hành công
vụ. Bởi vậy, Bộ luật Hình sự 1999 quy định bổ sung thêm các tình tiết này có ý
nghĩa tích cực trong việc truy cứu đúng trách nhiệm hình sự người phạm tội,
khắc phục những thiếu sót trong Bộ luật Hình sự 1985 về việc quy định tội
chống người thi hành công vụ.


23

Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI CHỐNG
NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG


Tình hình phạm tội là hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự,
mang tính giai cấp, thay đổi theo quá trình lịch sử, được thể hiện ở tổng số tội
phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định.
Tình hình tội phạm được phản ánh thông qua các chỉ số về định lượng và
định tính biểu thị qua các khái niệm: thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tội phạm.
Nếu như các chỉ số về định tính phản ánh nội dung của tình hình tội phạm thông
qua cơ cấu, tính chất, thì các chỉ số về định lượng biểu thị thông quan thực trạng
và diễn biến, tức là toàn bộ số tội phạm xảy ra và số đối tượng đó được xem xét
trong sự vận động và biến đổi theo thời gian đối với từng vùng lãnh thổ hành
chính hay trên phạm vi toàn quốc.
2.1.1. Thực trạng, diễn biến của tội chống người thi hành công vụ
trên địa bàn cả nước
*Về số vụ và số người phạm tội.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm chống người thi hành công
vụ diễn ra thường xuyên, tuy không nhiềulắm so với các nhóm tội phạm khác
nhưng loại phạm này xảy ra trên khắp địa bàn các tỉnh trong cả nước. Trong 5
năm, kể từ năm 2002 đến năm 2006, cả nước xảy ra 2837 vụ với 4731 bị cáo và
ngày càng có xu hướng gia tăng cả về số vụ và số người phạm tội.
Theo điều tra, nghiên cứu về tội phạm chống người thi hành công vụ trên
địa bàn cả nước (từ 2002 đến 2006) đã tổng hợp được bảng số liệu sau:


Khoá luận tốt nghiệp

Năm
2002
2003
2004
2005

2006
Tổng số:

24

Khởi tố
Đề nghị truy tố
Truy tố
số vụ bị can số vụ
bị can số vụ bị can
572
941
532
833
517
796
648
1037
602
950
600
936
566
962
557
921
553
928
660
1163

624
1131
619
1116
682
1118
619
1119
613
1087
3074 5241
2934
4954
2902
4863
Nguồn: Phòng tổng hợp – TANDTC

Xét xử
số vụ bị can
505
764
593
921
525
853
601 1093
613 1100
2837 4731

Qua bảng số liệu trên ta thấy diễn biến của tình hình tội phạm chống

người thi hành công vụ trong những năm gần đây biến động phức tạp cả về quy
mô số vụ và số người phạm tội, gây ra hậu quả cho xã hội ngày càng nghiêm
trọng. Nếu năm 2002 chỉ có 505 vụ phạm tội với 764 bị cáo bị xét xử về tội
chống người thi hành công vụ, thì đến năm 2006 con số này thứ tự là 613 vụ và
1100 bị cáo. Qua con số này đã chứng minh số vụ phạm tội và số bị cáo phạm
tội chống người thi hành công vụ trên phạm vi cả nước cứ năm sau cao hơn năm
trước.
Số lượng vụ phạm tội và số lượng người phạm tội chống người thi hành
công vụ như đã nêu trên mới chỉ là con số cơ bản nhất, qua đó có thể thấy được
tiến trình phát triển của loại tội này dưới góc độ thống kê hình sự. Do nhiều
nguyên nhân nên số lượng thực tế của loại tội phạm này khó xác định chính xác.
Và cũng do nhiều nguyên nhân mà việc xác định loại tội này gặp nhiều khó
khăn. Đó là các trường hợp chống người thi hành công vụ nhưng bị xử lý bằng
biện pháp hành chính hoặc các biện pháp khác mà thống kê hình sự không thể
ghi nhận. Hoặc cũng có trường hợp chống người thi hành công vụ gây thương
tích cho nạn nhân hoặc chết người, do đó không bị xử lí về tội này mà bị xử lý
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, hoặc
tội giết người. Ngoài ra còn có những trường hợp chống người thi hành công vụ
vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà không được các cơ quan chức năng thống
kê.
* Về nhân thân người phạm tội.


Khoá luận tốt nghiệp

25

Qua nghiên cứu về nhân thân người phạm tội chống người thi hành công
vụ trên phạm vi cả nước trong 5 năm (2006- 2006) đã cho thấy:
1. Số người phạm tội là nữ giới chỉ chiếm khoảng 8%.

2. Độ tuổi phạm tội chủ yếu từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỉ lệ khoảng 60%, tỉ
lệ phạm tội từ trên 30 đến 45 tuổi chiếm khoảng gần 40%, còn lại số người
phạm tội trên 45 tuổi chiếm tỉ lệ nhỏ nhất, khoảng gần 10%.
3. Tội phạm thuộc mọi tầng lớp và lứa tuổi. Nhân dân lao động chiếm đa
số, chiếm khoảng 67%, chưa có việc làm ổn định 33%, có những người phạm tội
đã từng là cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước, thậm chí một số người là đảng
viên.
4. Tỉ lệ tái phạm tội chiếm từ 26 đến 32%.
5. Trình độ văn hoá: Từ phân tích trong 4731 người phạm tội chống người
thi hành công vụ trong 2837 vụ phạm tội từ năm 2002 đến năm 2006 trong cả
nước cho thấy:
- Số người không biết chữ chiếm: 6%
- Số người có trình độ văn hoá tiểu học: 22%
- Số người có trình độ văn hoá trung học cơ sở: 49%
- Số người có trình độ văn hoá trung học phổ thông: 24%
- Số người có trình độ văn hoá, đại học, cao đẳng, trên đại học: 8%
(Nguồn: Phòng Tổng hợp Toà án nhân dân tối cao).
2.1.2. Thực trạng, diễn biến của tội phạm chống người thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Hải Dương
* Về số vụ và số người phạm tội:


×