Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.65 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – tự do – Hạnh phúc

RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 1
1.
2.
3.
4.

Họ và tên tác giả:
TRẦN THỊ DIÊN
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Đinh Trang Hòa II
Lý do chọn đề tài:

Toán học có vị trí rất quan trọng với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ
cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh,
để hoạt động có hiệu quả trong đời sống thực tiễn. Đặc biệt trong đời sống và khoa
học kĩ thuật hiện đại, nó góp phần đào tạo học sinh trở thành con người phát triển
toàn diện, năng động, sáng tạo, đáp ứng được mọi nhu cầu phát triển của khoa học
công nghệ trong xã hội thời kì đổi mới. Việc dạy học giải toán ở tiểu học nhằm
giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện kĩ năng thực
hành, với những yêu cầu được thực hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc
dạy học giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn
luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất con người lao động mới.
Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn Toán vấn đề đặt ra là
người dạy phải làm thế nào để giờ dạy – học Toán có hiệu quả cao, học sinh được
phát triển tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức Toán
học. Trong dạy học giải toán thì giải toán có lời văn là dạng toán riêng biệt, là biểu


hiện của đặc trưng trí tuệ. Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 là loại toán khó.
Do vậy việc dạy loại toán này đạt kết quả chưa cao. Vậy giáo viên phải có phương
pháp dạy học như thế nào để có thể truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn
này tới học sinh tiểu học?
Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục
đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán nói chung và trong giờ học toán
nói riêng. Nó không chỉ là cách thức truyền thụ kiến thức toán học, rèn kĩ năng giải
toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và
giáo dục phong cách làm việc khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học.
Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học để nâng cao
hiệu quả dạy – học.
Giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng là một
trong những dạng toán điển hình. Nó quy tụ đầy đủ các kiến thức và kỹ năng của
học sinh, bao gồm cả kỹ năng của môn Tiếng Việt và kĩ năng của môn Toán học.
Bởi vậy một học sinh thực hành giải đúng một bài toán có lời văn thì đòi hỏi phải
đảm bảo được kỹ năng: đọc, phân tích, diễn giải, tính toán…. và trình bày bài toán.
1


Trong quá trình trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy việc hướng dẫn học sinh đọc
để hiểu đề bài toán có lời văn và giải được bài toán quả là khó khăn, vất vả. Vốn từ
ngữ, vốn kiến thức liên quan đến đời sống thực tế của học sinh lớp 1 còn nhiều hạn
chế, tư duy của học sinh mang nặng yếu tố hình ảnh, cụ thể. Nhưng may mắn là tôi
được nhà trường phân công giảng dạy lớp 1 nhiều năm liên tục nên bản thân đã có
thời gian tích lũy kinh nghiệm về giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1. Vậy nên
tôi xin được chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp và các em học sinh đề tài: Rèn kĩ
năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1.
5. Nội dung giải pháp hữu ích:
5.1 Khó khăn, thuận lợi và sự cần thiết của đề tài:
5.1.1 Khó khăn:

Do học sinh mới lần đầu làm quen với dạng toán này, tư duy của các em còn
mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em chưa đọc thông
viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em
không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng
vẫn chưa hiểu bài toán. Vì vậy học sinh không làm đúng cũng là điều dễ hiểu, còn
một số học sinh khác thì nắm một cách lơ mơ hoặc không nắm được cách giải một
cách chắc chắn chính xác.
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy hầu
như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp 1.
Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí viết sai câu lời giải, viết sai
phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của phần giải toán có lời văn ở mỗi
lớp chỉ có khoảng 20% số HS biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số
còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được, nhưng
khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại
lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách
giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần
này.
Trường chúng tôi thuộc địa bàn vùng sâu, gần 100% học sinh là con gia đình
thuần nông, trình độ dân trí hạn hẹp, kinh tế khó khăn. Cha mẹ học sinh ít quan
tâm đến việc học hành của con em, đa số phụ huynh thường khoán trắng cho thầy
cô giáo.
Học sinh lớp 1 còn nhỏ, các em còn ham chơi, khả năng tập trung còn hạn
chế. Vào những dịp mùa màng, một em thường nghỉ học để lên rẫy giúp gia đình
hoặc do cha mẹ quá bận rộn không có thời gian chở con đi học nên việc vận động
các em tới trường, tới lớp là một vấn đề đáng quan tâm và không dễ dàng gì.
Tình hình học sinh: Gần 1/3 số học sinh trong lớp là người dân tộc thiểu số,
khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt còn hạn chế, các em còn nhút nhát, ít phát biểu,
chưa tự tin trong học tập.
Giáo viên ít có tài liệu tham khảo để mở mang tầm nhìn, kiến thức.
2



Hình thức đánh giá học sinh ở lớp 1 có sự thay đổi. Trước kia chúng ta thường
đánh giá cho điểm kết hợp với nhận xét nhưng từ tháng 10 năm 2013 Sở GD & ĐT
Lâm Đồng đã gửi công văn 1657/SGDĐT-GDTH ngày 16/10/2013, yêu cầu các
trường áp dụng hình thức đánh giá không cho điểm đối với học sinh lớp 1. Từ khi
thực hiện công văn này, các giáo viên trong tổ 1 đều rất lúng túng, đặc biệt là đối
với môn Toán: Không cho điểm thì đánh giá như thế nào, nhận xét bài làm của học
sinh ra sao, sửa lỗi hoặc hướng dẫn học sinh tự sửa lỗi như thế nào là phù hợp, làm
thế nào để không chấm điểm vẫn có thể thúc đẩy học sinh cố gắng rèn luyện để
nâng cao chất lượng học Toán của mình,...
Những đặc điểm nêu trên là nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập của
những giờ học có nội dung liên quan đến phần giải toán có lời văn còn thấp, học
sinh ngại học môn Toán và không có hứng thú học Toán.
5.1.2 Thuận lợi:
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục hiện nay, đội ngũ
giáo viên đã và đang ra sức tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao dần trình
độ nghiệp vụ cũng như tay nghề.
Ban Giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến học sinh lớp 1, các em được học ở
môi trường khang trang sạch sẽ, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi của các
em. Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, các em có đủ sách vở, đồ dùng học
tập theo yêu cầu.
Phòng thư viện cung cấp đủ đồ dùng: như bộ đồ dùng để học toán dành cho
học sinh, bộ đồ dùng để dạy toán có kích cỡ lớn hơn dành cho giáo viên.
Hệ thống máy tính, máy chiếu có kết nối mạng mà nhà trường trang bị cho các
tổ chuyên môn tương đối đầy đủ, phục vụ có hiệu quả cao cho việc dạy và học tập
môn Toán, đặc biệt là việc phục vụ hiệu quả cho các tiết học có ứng dụng công
nghệ thông tin vào trong dạy học Toán.
Trong những năm học gần đây, các em học sinh lớp 1 của trường tôi được học
2 buổi/ngày nên giáo viên có nhiều thời gian để quan tâm, giáo dục các em. Từ đó

giúp các em nắm kiến thức sâu hơn và có kĩ năng thực hành tính toán và giải toán
tốt hơn.
Những thuận lợi trên là đòn bẩy thúc đẩy chất lượng giáo dục nói chung và
chất lượng môn Toán nói riêng của học sinh lớp 1 trong trường.
5.1.3 Sự cần thiết của đề tài:
Bước vào độ tuổi 6 tuổi các em đồng thời bước vào lớp 1. Lứa tuổi này có
những biến đổi cực kì quan trọng trong các điều kiện sống và hoạt động của trẻ.
Nhờ việc thực hiện hoạt động học và các loại hình hoạt động khác, học sinh có sự
phát triển tâm lí đạt đến trình độ mới so với giai đoạn trước đó, một trình độ phát
triển mà nếu không qua nhà trường sẽ rất khó đạt được.
3


Học sinh lớp 1 nằm trong giai đoạn đầu của bậc tiểu học. Các em thực hiện
bước chuyển từ hoạt động vui chơi ở nhà trường mầm non sang hoạt động học với
tư cách là hoạt động chủ đạo. Nhiều học sinh phải mất rất nhiều thời gian mới thích
nghi được với hoạt động này. Chính điều đó gây trở ngại nhiều cho hoạt động dạy
của giáo viên.
Chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn
hạn chế. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu bền vững dễ bị phân tán bởi
âm thanh và các sự kiện khác ngoài hoạt động học.
Tri giác của các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn
định. Trí tưởng tượng của các em đã phát triển phong phú hơn học sinh mầm non.
Khi bước vào lớp 1 các em được làm quen với một dạng ngôn ngữ mới đó là ngôn
ngữ viết.
Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức
của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải
toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn
ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu và biết hướng
giải bài toán: đưa ra phép tính kèm câu lời giải và đáp số của bài toán.

Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn
đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học.
Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc -hiểu
bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp
với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của
giáo viên là hoàn toàn chính đáng. Vậy làm thế nào để giáo viên nói - học sinh
hiểu, học sinh thực hành - diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán? Đó là nguyên nhân
chính mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh
lớp 1.
5.2

Phạm vi áp dụng của giải pháp hữu ích:

Giải pháp hữu ích này được áp dụng cho học sinh khối 1 của trường TH Đinh
Trang Hòa 2 trong năm học 2012-2013 và sẽ tiếp tục được áp dụng trong năm học
này, năm 2013-2014.
5.3

Thời gian áp dụng:

Giải pháp hữu ích này được áp dụng trong năm học 2012-2013, năm 20132014 và sẽ tiếp tục được áp dụng trong các năm học tiếp theo.
5.4
Giải pháp thực hiện:
5.4.1 Tính mới của giải pháp hữu ích:
Thông thường, khi dạy nội dung giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1, giáo
viên chỉ bắt đầu quan tâm, hướng dẫn và rèn cho học sinh hiểu và giải quyết vấn đề
này khi bắt đầu học tiết “Bài toán có lời văn” ở tuần 21 của chương trình. Chính vì
4



vậy mà các tiết học này rất căng thẳng, các em phải lĩnh hội một lượng kiến thức
lớn và rất mới lạ, giáo viên làm nhiều cách để giúp các em hiểu vấn đề nhưng hiệu
quả thì rất thấp.
Vậy để hình thành cho học sinh thói quen và kỹ năng thực hành giải toán của
mình và giúp các em vận dụng các kĩ năng ấy một cách thành thạo và bền vững,
giúp các em duy trì và áp dụng trong các lớp học cao hơn, tôi đã tiến hành cho học
sinh làm quen với dạng bài này ngay từ tuần học thứ 6 của chương trình thông qua
dạng bài “Nhìn hình vẽ, viết phép tính thích hợp” rồi sau đó nâng dần lên cho các
em thông qua dạng bài “Dựa vào tóm tắt, viết phép tính thích hợp” rồi mới đến
việc làm quen với “Bài toán có lời văn”, sau đó mới rèn kĩ năng “Giải toán có lời
văn” cho các em.
Từ kinh nghiệm của bản thân và sự tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi, tôi đã áp dụng
rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 thông qua 4 mức độ sau đây:
Mức độ 1: Hình thành khái niệm ban đầu về bài toán có lời văn thông qua
dạng bài: Nhìn hình vẽ, viết phép tính thích hợp.
Đối với dạng bài này: Giáo viên cần tiến hành như sau:
* Bước 1: Chuẩn bị tranh, ảnh; mẫu vật hoặc ứng dụng công nghệ thông tin để
trình chiếu các hình vẽ giống trong sách giáo khoa hoặc tương tự để học sinh quan
sát.
* Bước 2: Yêu cầu học sinh quan sát tranh vẽ rồi đặt một đề toán phù hợp với
tranh.
* Bước 3: Giáo viên đặt câu hỏi để hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài toán vừa
đặt. Cần lưu ý hướng dẫn học sinh cách trả lời câu hỏi của cô một cách khái quát,
tránh trả lời cụ thể. Ví dụ khi giáo viên hỏi: Muốn biết trên cành cây có tất cả mấy
con chim thì em làm thế nào? Học sinh trả lời khái quát là: Em lấy số con chim
đậu trên cành cây cộng với số con chim bay đến, tránh để học sinh trả lời cụ thể là:
Em lấy 3 cộng với 2 hoặc em lấy 3 con chim cộng với 2 con chim, ...
* Bước 4: Yêu cầu học sinh viết phép tính thích hợp. Ở bước này, giáo viên cần
khuyến khích học sinh viết 2 phép tính khác nhau (ở những phép tính cộng). Ví dụ:
2 + 3 = 5 và 3 + 2 = 5, để bước đầu giúp học sinh thấy được tính chất của phép tính

cộng, từ đó giúp học sinh biết vận dụng tính chất giao hoán của phép cộng để thực
hiện các phép tính cho nhanh mà lại không bị sai, không bị nhầm lẫn. Như vậy,
vừa tiết kiệm được thời gian, vừa giúp học sinh làm quen và biết cách vận dụng
tính chất giao hoán này trong tính toán, nó là một bước đệm vững chắc cho việc
học Toán ở các lớp trên.
Ví dụ : Bài: Phép cộng trong phạm vi 4 (Bài 4, trang 47)
Bài 4: Viết phép tính thích hợp:
5


Một số gợi ý của giáo viên để hình thành khái niệm thông qua việc hướng dẫn
học sinh làm bài tập:
Hoạt động của GV
Bước 1: GV chiếu hình ảnh bức tranh trên cho học
sinh quan sát. Vì đây là bài toán học sinh mới được
làm quen nên giáo viên kết hợp với trao đổi với hoc
sinh (với các bài sau thì có thể yêu cầu các em thảo
luận nhóm đôi) :
+ Lúc đầu trên cành cây có mấy con chim?

Hoạt động của học sinh
+ Học sinh chú ý quan sát
và trao đổi thông tin với
giáo viên.

+ Lúc đầu trên cành cây có
2 con chim .
+ Sau đó có mấy con chim bay đến ?
+ Sau đó có 2 con chim bay
đến

Bước 2: Yêu cầu học sinh nhìn tranh vẽ để nêu một + HS nêu
đề toán.
+ Giáo viên chú ý chỉnh sửa bổ sung để học sinh + Một, hai học sinh nhắc
nêu được một đề toán đầy đủ: Lúc đầu trên cành lại đề bài toán (đối với các
cây có 2 con chim, sau đó có 2 con chim nữa bay tiết học sau thì học sinh
không cần nhắc lại)
đến. Hỏi trên cành cây có tất cả mấy con chim?
Bước 3: GV hướng dẫn học sinh cách làm
+ Để biết được trên cành có tất cả bao nhiêu con + Lấy 2 + 2 = 4
chim thì em làm thế nào?
+ Lúc này giáo viên cần hướng dẫn học sinh câu trả
lời là: lấy số con chim đang đậu trên cành cộng với
số con chim bay đến. Vì làm như thế sẽ phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của học sinh, học sinh
sẽ phải suy nghĩ là số con chim đang đậu trên cành
là mấy con, số con chim bay đến là mấy con?... và
cũng tránh được tình trạng học sinh yếu coppy bài
của các bạn vừa trả lời.
+ HS có thể trả lời hoặc
Bước 4: Yêu cầu học sinh viết phép tính
viết phép tính vào sách
6


Ghi chú:
Trên đây là những bước gợi ý để hình thành khái niệm ban đầu về một bài
toán có lời văn. Bởi bản chất của dạng bài tập Nhìn hình vẽ, viết phép tính thích
hợp nó cũng là một bài toán có lời văn. Do khả năng đọc, viết của học sinh còn hạn
chế nên được hình thành dưới dạng kênh hình thay cho kênh chữ.
Song trong dạy học, giáo viên cần phải dựa vào đặc điểm của đối tượng học

để vận dụng mức độ hình thành khái niệm ban đầu về giải toán có lời văn.
Khi thực thi vận dụng vào các bài tập dạng này ở những tiết đầu thường dễ
mất thời gian và có thể gây quá tải cho học sinh, nhưng ở các tiết học sau đó thì
các em sẽ quen và rất hứng thú, các em sẽ tự trao đổi với nhau để tìm ra cách làm
chính xác nhất và nhanh nhất.
Đối với các phép cộng 2 số khác nhau, giáo viên nên khuyến khích học sinh
viết 2 phép tính khác nhau nhưng vẫn đúng với nội dung tranh. Ví dụ:
3

+

2

=

5

Mức độ 2: Tiếp tục hình thành khái niệm về bài toán có lời văn thông qua
dạng bài: Dựa vào tóm tắt, viết phép tính thích hợp.
Ở cuối học kì 1, học sinh được làm quen với dạng bài: Dựa vào tóm tắt, viết
phép tính thích hợp. Trong quá trình dạy học toán thì có rất nhiều dạng tóm tắt,
nhưng ở đây các em mới bắt đầu làm quen với dạng tóm tắt bằng lời.
Ví dụ : Bài: Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10 (Bài 3b, trang 87)
Bài 3b: Viết phép tính thích hợp:
Có : 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
Còn :.... quả bóng?
Để hướng dẫn học sinh làm dạng bài này, giáo viên cũng tiến hành các bước
như trên mức độ 1 đã nêu, tuy nhiên ở bước 1 cần thay việc đọc tóm tắt bài toán
cho việc quan sát tranh vẽ.

Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát
ly khỏi hình ảnh trực quan và từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh
phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời,
chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải.
Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể
động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ
hay một tình huống trong sách giáo khoa.
Mức độ 3: Giúp học sinh hiểu: Bài toán có lời văn là như thế nào?
7


Tư duy HS từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Trước kia,
các em nhìn hình ảnh, nhìn tóm tắt để nêu một đề toán, thì dạng bài này các em
phải đọc, phải suy nghĩ và kết hợp với tranh để nêu một đề bài phù hợp. Tuy chỉ có
một tiết học, nhưng các em phải hiểu được: Một bài toán có lời văn gồm 2 phần:
Phần bài toán cho biết và phần bài toán hỏi.
Ví dụ: Bài: Bài toán có lời văn ( bài 3, trang 116)
Bài 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:

Bài toán: Có 1 gà mẹ và 7 gà con.
Hỏi.....................................................................................?
Một số gợi ý của giáo viên để hình thành khái niệm một bài toán có lời văn
thông qua việc hướng dẫn học sinh làm bài tập:

Hoạt động của GV
Bước 1: Gọi học sinh nêu yêu cầu của bài tập 3.
+ Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu yêu cầu
của bài tập: Bài toán này chưa hoàn chỉnh, các
em phải viết thêm câu hỏi vào để được một bài
toán có lời văn hoàn chỉnh.

Bước 2: GV chiếu hình ảnh bức tranh trên cho
học sinh quan sát. Giáo viên kết hợp trao đổi với
hoc sinh:
+ Tranh vẽ con gì?
+ Trong bức tranh có mấy con gà mẹ và có mấy
con gà con?
Bước 3: GV hướng dẫn học sinh cách làm
+ Bài toán đã cho biết gì?
+ Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nêu câu hỏi
của bài toán theo nhóm đôi. Giáo viên không nên
hướng dẫn học sinh vào lúc này, vì như vậy sẽ
8

Hoạt động của học sinh
+ 1 học sinh nêu yêu cầu
+ Theo dõi và lắng nghe

+ Học sinh chú ý quan sát và
trao đổi thông tin với giáo viên.
+Tranh vẽ một đàn gà
+ Trong bức tranh có một gà
mẹ và 7 gà con .
+ Có một gà mẹ và 7 gà con
+ Học sinh sẽ tự nêu:
- Hỏi có mấy con gà?
- Hỏi đàn gà có mấy con?


giúp học sinh phát huy được tích tích cực, chủ
động của mình, các em vận dụng kiến thức đã

học ở các mức độ trước để áp dụng vào làm bài.
+ Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh lựa chọn các
câu hỏi phù hợp và đầy dủ nhất để trả lời như:
- Hỏi cả gà mẹ và gà con có tất cả bao nhiêu
con?
- Hỏi đàn gà có tất cả bao nhiêu con?
- Hỏi đàn gà có tất cả mấy con?
Bước 4: Hướng dẫn học sinh hiểu cấu tạo của bài
toán có lời văn
Bài toán: Có 1 gà mẹ và 7 gà con. Hỏi đàn gà có
tất cả bao nhiêu con?
+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán hỏi gì?

- Hỏi cả gà mẹ và gà con có tất
cả bao nhiêu con?
- Hỏi đàn gà có tất cả bao nhiêu
con?
- Hỏi đàn gà có tất cả mấy
con?...

+ Học sinh đọc lại bài toán đã
hoàn chỉnh
+ Bài toán cho biết là: có 1 gà
mẹ và 7 gà con
+ Bài toán hỏi là: Hỏi đàn gà
có tất cả bao nhiêu con?

+ Bài toán gồm có mấy phần, đó là những phần
nào?

+ Kết luận: Bài toán có lời văn gồm có 2 phần:
- Phần đã cho (giả thiết của bài toán).
- Phần phải tìm (kết luận của bài toán).
Bước 5: Hướng dẫn học sinh nhận dạng đặc diểm + Trao đổi với giáo viên để
của câu hỏi trong bài toán có lời văn:
cùng rút ra chú ý khi viết câu
Trong các câu hỏi đều phải có :
hỏi cho bài toán có lời văn
- Từ “ Hỏi” ở đầu câu.
- Trong câu hỏi của bài toán này nên có từ tất
cả.
- Viết dấu ? ở cuối câu.
Mức độ 4: Hình thành kiến thức kỹ năng giải toán có lời văn theo quy trình và
cách trình bày bài giải (Hình thành khi dạy giải toán có lời văn)
Trước hết, tôi hướng dẫn học sinh đọc đề và phân tích đề bài. Nội dung bài
toán có lời văn ở lớp 1 được bắt nguồn từ những kiến thức thực tế liên quan đến
đời sống. Bài toán được xây dựng thông qua những câu văn nói về những mối
tương quan và phụ thuộc có liên quan tới cuộc sống hàng ngày thường xảy ra.
Vì vậy, khi học sinh đọc xong đề bài, tôi hướng dẫn học sinh nêu lại đề bài
một cách tóm tắt, lược bỏ hết những lời văn không cần thiết, chỉ nêu ra những yếu
tố có mối liên quan đến nhau giữa các đại lượng có chứa yếu tố toán học. Sau đó,
tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán, dựa vào tóm tắt để nêu phép tính thích
hợp.
Cụ thể, tôi đã tiến hành như sau:
1. Đọc và tìm hiểu nội dung bài toán
9


Hướng dẫn cho học sinh hiểu mỗi bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần
đó là:

- Phần đã cho (giả thiết của bài toán).
- Phần phải tìm (kết luận của bài toán).
Tìm ra được mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm (mối liên quan,
phụ thuộc giữa giả thiết và kết luận). Nếu trong bài toán có các từ mới, từ khó hiểu,
thì tôi giải nghĩa để học sinh hiểu.
2. Quy trình giải bài toán.
Bước 1: Phân tích đề bài toán để nắm được đề bài cho biết gì và bài toán hỏi
gì để tóm tắt bài toán.
Để thực hiện bước này, giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài toán, tìm hiểu
bài toán, tự nêu được hoặc viết tóm tắt bài toán, học sinh có thể nêu tóm tắt bài
toán bằng lời. Không nhất thiết học sinh phải viết tóm tắt bài toán vào bài giải, tuy
nhiên việc cho học sinh phải biết tóm tắt bài toán là không thể thiếu và rất cần
thiết.
Hướng dẫn cho học sinh có 3 dạng chính tóm tắt bài toán, để học sinh lựa
chọn cho phù hợp với từng bài toán cụ thể mà học sinh gặp trong quá trình học tập.
Cách 1: Tóm tắt dưới dạng các câu văn ngắn gọn.
Cách 2: Tóm tắt dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng.
Cách 3: Tóm tắt dưới dạng các hình vẽ.
Bước 2 : Tìm mối quan hệ giữa cái đã cho với cái phải tìm để đưa ra cách giải
bài toán.
Để giúp học sinh tìm ra được mối quan hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm thì
đòi hỏi giáo viên phải có hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh tìm được. Ở lớp
1 các bài toán có lời văn chủ yếu được thực hiện bởi 2 phép tính cơ bản là phép
cộng hoặc trừ.
Bước 3: Trình bày bài giải bài toán.
Diễn đạt bằng lời nói hoặc viết câu văn lời giải, phép tính và đáp số.
+ Diễn đạt lời giải: Giáo viên cần kiên trì để học sinh diễn đạt câu trả lời sau đó
mới cho HS tập viết câu lời giải. Có thể ban đầu học sinh còn lúng túng trong việc
diễn đạt lời giải, nhưng cũng có thể chấp nhận những câu diễn đạt đúng ý nghĩa
của bài toán, đúng văn phạm tiếng Việt. Nên tập cho học sinh trình bày lời giải

theo các hướng khác nhau.
Ví dụ : Số kẹo Lan có là, hay Lan có số kẹo là.....hoặc những câu đơn giản như: Có
tất cả là; Lan có là.....
Để học sinh có được câu lời giải của chính mình, cũng như tạo ra được nhiều
lời giải khác nhau của một phép tính thì đòi hỏi giáo viên phải tạo ra các câu gợi ý.
10


Các câu gợi ý phải tạo được các hướng xây dựng lời giải khác nhau.Từ đó HS sẽ
phát hiện và nêu được.
+ Trình bày phép tính: Hướng dẫn cho học sinh viết phép tính giải theo hàng
ngang ngay ở dưới lời giải. Tên đơn vị được viết ngay sau kết quả của phép tính
giải và được đặt trong dấu ngoặc đơn.
+ Trình bày kết quả: Kết quả được biểu thị bằng chữ đáp số, sau đáp số là dấu
hai chấm (:), viết tên đơn vị và kết thúc bằng dấu chấm.
- Để giúp học sinh nắm bắt và thực hiện đúng cách trình bày thì ngoài việc hướng
dẫn ra, việc chữa bài cũng như nhắc nhở học sinh tự chữa bài một cách kịp thời
là rất cần thiết.
- Kết luận: Để vận dụng tốt quy trình giải toán vào dạy giải toán có lời văn cũng
như hình thành kỹ năng trình bày bài giải, yêu cầu người GV cần phải lưu ý những
vấn đề sau:
+ Phải nắm được khả năng của học sinh.
+ Phải có hệ thống câu hỏi gợi mở sao cho phù hợp với nội dung và các đối
tượng học sinh.
+ Phải kiên trì trong việc hướng dẫn và tiếp nhận kết quả tiếp thu của học
sinh.
+ Nắm được phạm vi cho phép những câu lời giải của HS như thế nào là
đúng.
+ Phải tiến hành một cách thường xuyên quy trình giải toán có lời văn trong
dạy học toán (không chỉ ở những bài ‘Giải toán có lời văn’ mà cả những bài tập

được lồng ghép trong chương trình toán 1).
Ví dụ: Bài: Giải toán có lời văn (bài 1, trang 117)
Bài 1: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?
Tóm tắt

Bài giải
Cả hai bạn có là:
............. = .... (quả bóng)
Đáp số: ... quả bóng.

An có:
... quả bóng
Bình có:
... quả bóng
Cả hai bạn có: ... quả bóng?

11


Một số gợi ý của giáo viên để hướng dẫn học sinh giải được bài toán có lời
văn nêu trên:

Hoạt động của GV
Bước 1: Phân tích đề bài toán để nắm được bài
toán cho biết gì và bài toán hỏi gì để tóm tắt bài
toán.
+Gọi 1 học sinh đọc bài toán, các em còn lại
đọc thầm.
+ Chiếu tranh cho học sinh quan sát, kết hợp
tìm hiểu bài toán:

+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán hỏi gì?
+ Gọi 1 học sinh điền số liệu vào phần tóm tắt
hoàn thiện phần tóm tắt:
Tóm tắt
An có:
.4.. quả bóng
Bình có:
.3.. quả bóng
Cả hai bạn có: ... quả bóng?
Bước 2: Tìm mối quan hệ giữa cái đã cho với
cái phải tìm để đưa ra cách giải bài toán.
+ Muốn biết cả hai bạn có mấy quả bóng ta làm
như thế nào?
+ Vậy số bóng của An là mấy quả?
+ Số bóng của Bình là mấy quả?
Bước 3: Trình bày bài giải bài toán.
+ Khi giải bài toán chúng ta phải thực hiện qua
mấy bước?
+ Hướng dẫn học sinh viết câu lời giải theo 2
cách sau:
* Dựa vào câu hỏi:
- Câu hỏi: Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?
- Câu lời giải: Cả hai bạn có là: (như vậy, bỏ
chữ Hỏi ở câu hỏi, sau chữ có thêm chữ là và
dấu hai chấm)
* Dựa vào tóm tắt, bằng cách lấy dòng thứ 3
của phần tóm tắt và thêm chữ là và dấu hai
chấm:
- Dòng thứ 3 của tóm tắt: Cả hai bạn có: ...

quả bóng?
- Câu lời giải: Cả hai bạn có là:
+ Hướng dẫn học sinh viết phép tính và đơn vị
+ Hướng dẫn học sinh viết đáp số
+ Yêu cầu học sinh trình bày bài giải vào vở
12

Hoạt động của học sinh

+ 1 học sinh đọc đề bài
+ Quan sát và trả lời

+ 1 học sinh điền thông tin vào
phần tóm tắt trên bảng, các em
còn lại làm vào sách
+ Học sinh chú ý quan sát và
trao đổi thông tin với giáo viên.
+ Lấy số bóng của An cộng với
số bóng của Bình
+ An có 4 quả bóng
+ Bình có 3 quả bóng
+ Qua 3 bước
+ Theo dõi, lắng nghe và thực
hiện .

+ Thực hiện vào vở


Ghi chú:
Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt

cần được rèn luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời
giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều
kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị
của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải.
Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo
giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm
tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán.
Ở lớp 1, học sinh chỉ giải toán về thêm, bớt với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi
HS bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu
được giáo viên hướng dẫn cụ thể.
Giáo viên dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước
sau:
- Đọc kĩ đề bài: Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu gì?
- Tóm tắt đề bài
- Tìm được cách giải bài toán
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lời giải và đáp số
Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những điều đã
cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ
toán học, đó là phép tính thích hợp.
Ví dụ, có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm
vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ,...
GV hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho, để các
em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình
huống thực tiễn.
Ví dụ: Với phép tính 3 + 2 = 5. Có thể có các bài toán sau:
- Thanh có 3 chiếc kẹo, An cho Thanh 2 chiếc nữa. Hỏi Thanh có mấy chiếc kẹo?
- Nhà Phong có 3 con gà, mẹ Phong mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Phong có tất cả
mấy con gà?
- Có 3 con vịt bơi dưới ao, có thêm 2 con vịt xuống ao. Hỏi có bao nhiêu con vịt

dưới ao?...
Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề
bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn
hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn.
Cách hướng dẫn học sinh viết câu lời giải phải được giáo viên nâng dần từng
bước như với ví dụ ở trên: bài 1, trang 117, lời giải dược nâng dần lên, như:
13


Có tất cả là:
Cả hai bạn có là:
Cả hai bạn có số quả bóng là:
Số quả bóng cả hai bạn có là: ..
Như vậy học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời giải khác nhau,
song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau là tương đối đầy đủ:
Cả hai bạn có số quả bóng là:
Số quả bóng cả hai bạn có là:
Hầu hết các bài toán có lời văn có vận dụng kiến thức giải toán đều được cung
cấp theo phân phối chương trình . Tuy nhiên, việc phân tích đề- tóm tắt- giải bài
toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là
các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số (đơn vị tính ) + có tất cả là: (VD: Số bạn nam có tất cả là:)
- Vị trí (trong, ngoài, trên, dưới) + có tất cả là: (VD: Trong vườn có tất cả là:)
- ... đoạn thẳng....+ dài là: (VD: Đoạn thẳng AB dài là:)
Sau khi học sinh đã khá quen với giải bài toán có lời văn giáo viên nên hướng
dẫn cho HS chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.

- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Ví dụ:
Câu hỏi là:
Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
Câu lời giải là:
Có tất cả số ô tô là :
Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
Câu lời giải là:
Trên cành còn lại số con chim là :
Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây?
Câu lời giải là:
Hai lớp trồng được tất cả số cây là:
Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét?
Câu lời giải là:
Con sên bò được tất cả số xăng-ti-mét là?
Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách?
Câu lời giải là:
Lan còn phải đọc số trang nữa là:
............................................
Trên đây là mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1.Tôi
đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để học sinh có thể giải toán mà không
gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu học sinh có lực học trung bình yếu
cũng có thể chọn cho mình 1 cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ: Có tất cả là:
Hoặc : Còn lại là:
Còn học sinh khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải
khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
5.4.3 Khả năng áp dụng:
14



Giải pháp hữu ích này đươc áp dụng trong phần giải toán, học sinh được làm
quen trong chương trình học kì I, bắt đầu ở tuần học thứ 6 ở các mức độ 1 và 2.
Đến học kỳ II, các bài toán có lời văn chính thức được bắt đầu giới thiệu kể từ cuối
tuần 21 của năm học, nội dung dạy học giải toán có lời văn được bắt đầu từ tuần
22. Học sinh được biết bài toán có lời văn gồm hai phần: Phần bài toán cho biết gì
và phần bài toán hỏi gì. Học sinh biết cách giải và trình bài giải của bài toán gồm
câu lời giải, phép tính. Trong đó học sinh được giải các bài toán đơn về thêm bớt
một số đơn vị. Điều này thể hiện ở mức độ 3 và 4. Như vậy, giải pháp hữu ích này
đươc áp dụng ở các dạng bài tập:
 Nhìn hình vẽ, nêu phép tính thích hợp.
 Dựa vào tóm tắt, viết phép tính thích hợp
 Giới thiệu các bài toán có lời văn.
 Giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép trừ, chủ yếu
là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị.
5.4.4 Kết quả thực hiện:
a . Học sinh:
Kết quả kiểm tra cuối năm (Năm học 2012-2013):
(Khi chưa áp dụng giải pháp)
Tôi bắt đầu áp dụng giải pháp này từ tháng 9 năm 2013, tức là từ sau tuần
học thứ 6 của năm học 2013 – 2014. Sau 1 năm áp dụng giải pháp hữu ích này, kết
quả kiểm tra cuối năm (Năm học 2013-2014) như sau:

Từ kết quả trên, tôi nhận thấy rằng, sau khi áp dụng giải pháp hữu ích này, số
lượng học sinh viết đúng câu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số tăng lên đáng
kể. Số học sinh làm đúng cả 3 bước giải toán có lời văn cũng tăng lên rất nhiều,
các em thích thú và tự tin trong giờ học Toán, các em làm bài nhanh hơn như vậy
góp phần nâng cao chất lượng của môn Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói
chung. Với thành quả khả quan mà giải pháp mang lại nên tôi tiếp tục vận dụng
trong năm học tiếp theo. Từ đầu năm đến giờ, tôi thấy các bài toán dạng Nhìn hình
Lớp sĩ số HS viết đúng câu HS viết đúng

lời giải
phép tính

HS viết
đúng đáp số

HS giải
đúng cả 3
bước

1A1 32

28 87.5%

29 90.6%

27

84.3% 24

84.3%

1A2 31

25 80.6%

26 83.8%

25


80.6% 25

80.6%

1A3 23
20 86.9%
21 91.3%
21
91.3% 21
86.9%
vẽ, viết phép tính thích hợp, học sinh lớp tôi nói riêng và học sinh khối 1 nói chung
làm rất nhanh và chính xác, đó chính là nền tảng để các em có kĩ năng tốt để thực
hiện các bài giải toán có lời văn sau này.
15


b . Giáo viên:
Lúc đầu giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp các em tìm hiểu và
giải bài toán có lời văn: Đa số học sinh chỉ biết trả lời theo câu hỏi một cách thụ
động, diễn đạt ý kém, ngôn ngữ còn hạn chế, trình bày bài giải không đúng quy
định,... Nhưng với sự hỗ trợ của Ban giám hiệu, tổ khối và bằng sự cố gắng, lòng
quyết tâm của bản thân, tôi đã kiên nhẫn rèn luyện, uốn nắn, chỉnh sửa cho các em
và tôi thấy các em tiến bộ lên từng ngày, từng bài. Đó cũng chính là động lực thôi
thúc sự phấn đấu vươn lên trong giảng dạy, giúp tôi phát huy hơn nữa tình yêu với
nghề, tình thương với các em học sinh.
Áp dụng giải pháp hữu ích này tôi đã học hỏi thêm kinh nghiệm của các bạn
đồng nghiệp, tham khảo sách vở để lựa chọn nhiều hình thức tổ chức giúp các em
hứng thú hơn trong quá trình học toán.
Giải pháp hữu ích mang lại niềm vui và sự tự tin cho bản thân tôi vì đã đáp
ứng đúng yêu cầu của môn học, bước đầu tạo được một lớp, một thế hệ học sinh có

khả năng diễn đạt và trình bày bài giải một cách khoa học, đúng quy trình.
Khi chia sẻ kinh nghiệm của bản thân tôi với các giáo viên trong tổ khối 1 và
các giáo viên trong tổ đã áp dụng vào thực tế giảng dạy thì hiệu quả tiết dạy thay
đổi rõ rệt, từ đó tạo niềm tin cho các giáo viên, thúc đẩy họ nỗ lực hơn, cố gắng
hơn trong công tác giảng dạy. Chất lượng chuyên môn và tay nghề của đội ngũ
giáo viên trong tổ khối 1cũng được nâng lên đáng kể. Như vậy, giải pháp này
không những mang lại hiệu quả cho bản thân tôi mà nó mang lại hiệu quả cho cả tổ
khối 1. Với tôi, đó là một thành công lớn.
6.

Bài học kinh nghiệm rút ra khi áp dụng giải pháp hữu ích:
Để vận dụng các giải pháp trên thì đòi hỏi giáo viên phải lưu ý những vấn đề

sau:
+ Học sinh lớp 1 bước đầu mới làm quen với dạng bài Giải toán có lời văn.
Song vốn ngôn ngữ, cũng như diễn đạt còn hạn chế, do vậy khi dạy học giáo viên
cần phải có những phương pháp dạy học và cách thức tổ chức dạy học hợp lý nhất,
phù hợp với đặc trưng của môn học và đối tượng người học thì mới có thể vận
dụng tốt các giải pháp trên vào dạy học hình thành khái niệm, kiến thức và kỹ năng
giải toán có lời văn cho học sinh.
+ Phải vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Tính linh hoạt và sáng tạo
được thể hiện ở điểm, giáo viên phải nắm rõ đối tượng học sinh của mình, xây
dựng hệ thống câu hỏi gợi mở hợp lý để dẫn dắt học sinh.
+ Kiên trì trong việc hình thành cũng như tiếp nhận kết quả phản hồi của học
sinh. Luôn động viên khuyến khích học sinh và luôn lắng nghe kịp thời những sai
sót của học sinh.

16



+ Luôn xem học sinh là nhân vật trung tâm của việc hình thành kiến thức. Phát
huy tốt tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh.
+ Không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải của mình đối với học sinh, mà có
thế lấy kết quả của học sinh để khuyến khích giúp đỡ học sinh.
+ Phải có kế hoạch thường xuyên trong việc hình thành khái niệm về giải toán
có lời văn cho các em ngay từ học kỳ I và hình thành quy trình giải cũng như cách
trình bài bài giải sau khi học sinh được học giải toán có lời văn.
7.

Kết luận:

Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Để giúp học sinh có kĩ năng thành thạo
trong việc giải toán có lời văn, giáo viên lưu ý các bước sau:
Học sinh cần đọc kỹ đề toán, hiểu một số từ quan trọng của bài toán. Nếu có
những từ nào thấy các em chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn để học sinh
hiểu ý nghĩa từ đó sau đó học sinh thuật lại vắn tắt bài toán rồi viết số thích hợp
vào phần tóm tắt bài toán đã ghi trong sách. Phát hiện cái đã cho, cái cần tìm.
Trong các bài toán giải có lời văn ở lớp 1 mối quan hệ giữa cái đã cho và cái
phải tìm khá rõ ràng nên việc lựa chọn phép tính thích hợp không khó đối với học
sinh. Thông thường chọn phép tính cộng nếu bài toán đòi hỏi “thêm” hoặc “gộp tất
cả”. Còn chọn tính trừ nếu “bớt” hoặc “tính phần còn lại”
Chọn câu trả lời thích hợp:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kỹ và dựa vào câu hỏi nêu trong đề toán để
nêu câu lời giải (trả lời thích hợp).
- Câu trả lời thường ở dạng khẳng định thông báo.
- Việc viết câu lời giải cho bài toán đối với lớp 1 là yêu cầu khó nên thời gian đầu
tôi thường hướng dẫn cho học sinh dựa vào câu hỏi hoặc tóm tắt để viết lời giải.
- Nói chung giáo viên cần khai thác nội dung sách giáo khoa, tập trung kênh hình
để phát triển năng lực của học sinh như khai thác nội dung bài toán, nội dung ngầm
ẩn, giải thích cách làm và lựa chọn phương án giải quyết.

- Đầu tiên sách đã viết sẵn câu lời giải, học sinh chỉ việc điền phép tính và đáp số.
Dần dần yêu cầu học sinh phải viết được bài giải đầy đủ: câu lời giải, phép tính,
đáp số.
Kết quả của phép tính có ghi tên đơn vị trong dấu ngoặc, còn ở đáp số thì ghi
số với tên đơn vị không có dấu ngoặc.
Trong phần này tôi luôn yêu cầu các em nhắc lại các bước giải bài toán trước
khi làm và trong khi sửa bài, chữa bài kịp thời ở từng phần.
17


Trong lúc học sinh làm bài tôi luôn quan sát, theo dõi uốn nắn cách làm của
từng đối tượng. Và hầu như tiết học nào cũng có một bài toán giải để luyện tập,
củng cố.
Phương pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 giúp học sinh hoàn
thiện một bài giải đủ 3 bước: câu lời giải + phép tính + đáp số là vấn đề đang được
các thầy cô trực tiếp dạy lớp 1 rất quan tâm. Vấn đề đặt ra là giúp học sinh lớp 1
viết câu lời giải của bài toán sao cho sát với yêu cầu mà câu hỏi của bài toán đưa
ra. Chính vì vậy nên tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp hữu ích mà bản thân tôi đã vận
dụng vào trong quá trình dạy và đạt kết quả tương đối khả quan.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi rút ra được qua quá
trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có những
thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý, giúp đỡ nhiệt tình của các cấp lãnh đạo, thầy cô
và bạn bè đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Đinh Trang Hòa, ngày 27 tháng 5 năm 2014
Người thực hiện

TRẦN THỊ DIÊN

Ý KIẾN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ


…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
18


…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
……………

HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………

19



……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………

20




×