Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH

GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH

GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Nguyệt Ánh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ ngữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................................................6
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, phân loại giám định tƣ pháp trong tố tụng

hình sự ...........................................................................................................6

1.1.1. Khái niệm giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ......................................6
1.1.2. Đặc điểm của giám định tư pháp trong tố tụng hình sự .................................8
1.1.3. Phân loại giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ........................................9
1.2.

Vai trò, ý nghĩa của giám định tƣ pháp trong tố tụng hình sự ..............15

1.2.1. Vai trò của giám định tư pháp ......................................................................15
1.2.2. Ý nghĩa của giám định tư pháp ....................................................................25
1.3.

Đối tƣợng, nội dung và thủ tục giám định tƣ pháp trong tố tụng
hình sự .........................................................................................................28

1.3.1. Đối tượng .....................................................................................................28
1.3.2. Nội dung .......................................................................................................30
1.3.3. Thủ tục..........................................................................................................31
1.4.

Giám định tƣ pháp trong Luật TTHS một số nƣớc ................................32

1.4.1. Về khái niệm và chủ thể trưng cầu giám định .............................................33
1.4.2. Về người giám định ......................................................................................34
1.4.3. Về cơ cấu các tổ chức giám định .................................................................37
1.4.4. Về việc sử dụng, đánh giá kết luận giám định .............................................37
1.4.5. Về chi phí giám định ....................................................................................38



1.4.6. Về công tác quản lý ......................................................................................39
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIÁM ĐỊNH
TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................41
2.1.

Pháp luật Việt Nam từ 1945 đến trƣớc 2003 về giám định tƣ pháp
trong tố tụng hình sự ..................................................................................41

2.2.

Pháp luật Việt Nam hiện hành về giám định tƣ pháp trong tố tụng
hình sự .........................................................................................................44

2.2.1. Đối tượng của giám định tư pháp .................................................................44
2.2.2. Trình tự, thủ tục giám định tư pháp .............................................................46
2.2.3. Thẩm quyền giám định tư pháp ...................................................................62
2.2.4. Trách nhiệm pháp lý.....................................................................................71
Chƣơng 3: THỰC TIỄN GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ ........................................................................................78
3.1.

Thực tiễn giám định tƣ pháp trong tố tụng hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội .......................................................................................78

3.1.1. Những kết quả đạt được ...............................................................................78
3.1.2. Một số bất cập trong hoạt động giám định tư pháp .....................................81
3.1.3. Nguyên nhân của những bất cập .................................................................84
3.2.


Cơ sở và yêu cầu của hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
chất lƣợng công tác giám định tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự.....................................................................................................90

3.2.1. Cơ sở và yêu cầu về mặt lập pháp ................................................................90
3.2.2. Cơ sở và yêu cầu về mặt thực tiễn ...............................................................90
3.3.

Hoàn thiện pháp luật về giám định tƣ pháp trong tố tụng hình sự .......91

3.3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ...........................................................91
3.3.2. Hoàn thiện về luật giám định tư pháp ..........................................................96
3.4.

Các giải pháp nâng cao chất lƣợng công tác giám định tƣ pháp
trong tố tụng hình sự ..................................................................................97


3.4.1. Nâng cao nhận thức và năng lực của các chủ thể về giám định tư pháp
trong tố tụng hình sự ....................................................................................97
3.4.2. Củng cố và xây dựng đội ngũ giám định viên tư pháp đủ về số lượng,
chắc về nghiệp vụ .........................................................................................99
3.4.3. Tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ giám định tư
pháp cho các tổ chức giám định ...................................................................99
3.4.4. Hoàn thiện bộ máy tổ chức giám định tư pháp trong tố tụng hình sự........100
3.4.5.

Thực hiện xã hội hóa giám định tư pháp trong một số lĩnh vực giám định..........101

3.4.6.


Mở rộng hợp tác quốc tế trong giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ........103

KẾT LUẬN ............................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

GĐTP

Giám định tư pháp

GĐV


Giám định viên

KLGĐ

Kết luận giám định

NLTNHS

Năng lực trách nhiệm hình sự

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

TCGĐ

Trưng cầu giám định

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng


Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Bảng thống kê số lượng GĐVTP và GĐVTP
theo vụ việc

79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, công tác bổ trợ tư pháp ngày càng được Đảng và
Nhà nước quan tâm, nâng cao về chất lượng, hiệu quả, góp phần không nhỏ trong lĩnh
vực tố tụng hình sự. Nắm vững được tầm quan trọng của công tác bổ trợ tư pháp như
vậy, một trong những phương hướng và mục tiêu cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đặt
ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020, đó là: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý,
khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó,
xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh
mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp” [2].
Trong những công tác bổ trợ tư pháp, gồm: công tác luật sư, tư vấn pháp
luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại thì
giám định tư pháp là một trong những công tác quan trọng và thường xuyên phải
thực hiện trong quá trình giải quyết các vụán hình sự nói chung. Hầu hết các tội
phạm được quy định trong các chương của Bộ luật hình sự đều phải thực hiện công
tác giám định, như: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe thì giám định nguyên
nhân tử vong, tỷ lệ thương tích; các tội xâm phạm sở hữu thì định giá tài sản; các tội
xâm phạm quản lý kinh tế thì giám định hậu quả thiệt hại; các tội phạm về ma túy
thì giám định trọng lượng chất ma túy…

Nhiều vụ án hình sự nếu không có sự hỗ trợ chặt chẽ của công tác giám định
tư pháp có thể dẫn đến việc bế tắc, không xử lý được bị can như các vụ án kinh tế
cần giám định thiệt hại vật chất, những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe cần
giám định cơ chế hình thành dấu vết, tỉ lệ thương tật, nguyên nhân bị tử vong, giám
định năng lực trách nhiệm hình sự để xác định bị can…
Như vậy cho thấy, giám định tư pháp đóng vai trò rất lớn trong tố tụng hình sự
đặc biệt là trong giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, mặc dù
công tác giám định tư pháp đã được quan tâm cả về chủ trương lẫn cơ sở vật chất, được
nâng cao về phương tiện khoa học công nghệ hiện đại, nhưng trên địa bàn thành phố
Hà Nội công tác giám định vẫn còn tồn tại những bất cập, khó khăn như sau:

1


Dù công tác giám định được đầu tư nhiều về cơ sở vật chất, tuy nhiên việc
đầu tư về kinh phí cho các địa phương không đồng đều, dẫn đến việc có địa phương
được áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhưng cũng có địa phương còn phải
sử dụng các máy móc có công nghệ lạc hậu, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của
tình hình. Hay trường hợp đối tượng phạm tội Cố ý gây thương tích, theo quy định
tại Điều 104 Bộ luật hình sự và Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự về trường hợp
khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại thì ngoài đơn yêu cầu của bị hại, Cơ quan điều
tra phải căn cứ vào kết luận tỷ lệ thương tích của bị hại mới quyết định việc khởi tố
vụ án hay không. Tuy nhiên, có trường hợp bị hại không muốn đi giám định, hoặc
đi giám định chậm, thời gian giám định kéo dài…trong khi đó kẻ phạm tội ở bên
ngoài vẫn hung hãn, côn đồ, thậm chí còn đe dọa gây hoang mang lo lắng cho người
bị hại, nhưng không thể khởi tố vụ án kịp thời được vì chưa có kết quả giám định.
Ngoài ra, đối với các vụ án ma túy, hiện nay các cơ quan giám định chưa tách được
hàm lượng ma túy có trong số ma túy đưa giám định, dẫn đến việc khó xử lý đối với
các trường hợp đối tượng mua bán thuốc tân dược có chứa chất ma túy như: thuốc
Delcogen, Tiffy, Panadol… Đây là các loại thuốc tân dược thông dụng, có hàm

lượng ma túy rất nhỏ mục đích để chữa bệnh, được bán tràn lan trên thị trường
thuốc nên các đối tượng lợi dụng cơ chế này để mua hàng thùng về trưng cất, pha
chế thành chất ma túy tổng hợp.
Bên cạnh đó còn có một số trường hợp chất lượng giám định chưa đảm bảo,
kết luận còn chung chung, không rõ ràng, không trả lời cụ thể, kết luận lại ghi “chỉ
có giá trị tham khảo”, không khẳng định rõ đúng sai và có dấu hiện né tránh trách
nhiệm khiến cho các cơ quan tiến hành tố tụng khó khăn trong quá trình giải quyết
vụ án. Đặc biệt là cùng một nội dung giám định nhưng các cơ quan giám định lại có
kết quả khác nhau dẫn đến vụ án phải kéo dài…
Trước tiǹ h hiǹ h nêu trên , để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ngày
càng nâng cao về chất lượng cũng như hiệu quả, nhằm đáp ứng được yêu cầu cải
cách tư pháp thì việc cho ̣n đề tài “Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự (trên
cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” để nghiên cứu là mô ̣t yêu c ầu
cấ p thiế t và quan tro ̣ng trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay.

2


2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,mục đích của đề
tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng hình
sự Việt Nam.Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những
điểm hạn chế, bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật thực định, từ đó đề ra
các giải pháp hữu nhằm nâng cao hiệu quả giám định tư pháp trong tố tụng hình sự.
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết được các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề về lý luận, quy
định của pháp luật về hoạt động giám định tư pháp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động giám định tư pháp trong
các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Đề xuấ t những giải pháp khả thi, phù hợp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động giám định tư pháp.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có kết hợp với những bất cập
từ những quy định của pháp luật và thực tiễn các vụ án hình sự trên địa bàn thành
phố Hà Nội, luận văn sẽ đề ra được những giải pháp để sửa đổi các quy định của
pháp luật về giám định trong TTHS cho phù hợp với tình hình thực tiễn tội phạm
trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Về đề tài giám định tư pháp trong tố tụng hình sự là một lĩnh vực mới, chưa có
nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học.Luận văn phản ánh thực trạng sinh
động về giám định tư pháp trong 5 năm (từ 2010 – 2014). Từ đó tác giả tìm ra những
hạn chế, bất cập của hoạt động này trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự.Cuối
cùng luận văn sẽ trình bày những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa về mặt khoa học pháp lý, góp phần
hoàn thiện những quy định pháp luật còn bất cập và chưa hoàn thiện về giám định
tư pháp nói riêng và các hoạt động bổ trợ tư pháp trong tố tụng hình sự nói chung.

3


Đề tài có giá tr ị đối với cán bộ làm công tác thực tiễn, trong lĩnh vực chống
tội phạm trong các cơ quan tư pháp ... Đồng thời còn là tài liệu rất bổ ích cho đô ̣i
ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu tội phạm học, cán bộ làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy tư pháp hình sự.
4. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về giám định tư pháp qua
đó tập trung làm sáng tỏ về thực tiễn hoạt động giám định xảy ra trên điạ bàn thành
phố Hà N ội. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao chất

lươ ̣ng công tác giám định, từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu phục vụ công cuộc đấu
tranh nhằm hạn chế và đẩy lùi tình hình tội pha ̣m trên thành phố Hà Nội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài luận văn là phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp,
cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp
luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, luật tố
tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên
cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học
luật hình sự và tố tụng hình sự.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo
cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Ngoài ra, tác giả cũng
tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết
của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến công
tác giám định tư pháp.

4


5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
Chương 2: Qui định của pháp luật Việt Nam về giám định tư pháp trong tố
tụng hình sự
Chương 3: Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp
trong tố tụng hình sự


5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƢ PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại của giám định tƣ pháp
1.1.1. Khái niệm của giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
GĐTP là một hoạt động bổ trợ tư pháp, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc
lực cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng khi
giải quyết một số vụ án cụ thể để làm rõ các tình tiết có liên quan đến chuyên môn,
khoa học kỹ thuật. Hoạt động GĐTP ra đời và hoạt động hiệu quả đã đóng góp
không nhỏ vào việc giải quyết các vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác,
khách quan và đúng pháp luật. Ngược lại, nếu hoạt động GĐTP không có hiệu quả
thì việc giải quyết vụ án khó có thể chính xác và công bằng.
Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ“giám định” là “việc xem xét và kết luận
về một sự vật, hiện tượng mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định” [33]. Từ
điển Bách Khoa Việt Nam cũng có cách định nghĩa tương tự về nghĩa của từ giám
định trong ngành luật là “kiểm tra và kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề
mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định” [34].
Như vậy,“giám định” là việc sử dụng những kiến thức, phương tiện kỹ thuật,
kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu, xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận về một sự
vật, hiện tượng, từ đó giúp cho con người có những nhận thức khách quan để giải
quyết một vấn đề nào đó.
GĐTP là việc kiểm tra, xem xét và đi đến kết luận về một vấn đề nào đó theo
yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho việc xét xử và giải quyết các
tranh chấp của cơ quan này.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vấn đề luật pháp mà cụ thể là các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại…nếu

phát sinh những vấn đề vướng mắc liên quan đến kiến thức thuộc các lĩnh vực
chuyên môn thì các cơ quan THTT sẽ nhờ những cá nhân, tổ chức hoạt động trong

6


lĩnh vực chuyên môn xem xét, đánh giá và kết luận khách quan những vấn đề đó để
phục vụ cho việc giải quyết vụ án.
Pháp lệnh GĐTP năm 2004 là văn bản có tính pháp lý, hệ thống gần như
hoàn chỉnh ở nước ta về hoạt động GĐTP đã đưa ra khái niệm tại Điều 1 như sau:
Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn
những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự
do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết
các vụ án [31].
Luật Giám định tư pháp năm 2012 đã thay thế cho Pháp lệnh giám định tư
pháp năm 2004 có đổi mới, mở rộng một số điều luật. Theo đó khái niệm GĐTP cơ
bản được giữ nguyên một số phần, bổ sung thêm chủ thể thực hiện giám định là
“người giám định tư pháp” và mở rộng quyền yêu cầu giám định.
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến
thức,phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận
về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành
chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của
Luật này [19].
Hiện nay các nước trên thế giới đều có những quan niệm về GĐTP nói chung
và GĐTP trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Ở nước ta, theo luật hiện hành chỉ có khái
niệm GĐTP về những vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính, dân

sự và hình sự nhưng không quy định GĐTP trong tố tụng hình sự là gì.
Trong khoa học pháp lý hiện nay ở Việt Nam, có một số quan điểm về giám
định tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Quan điểm thứ nhất, giám định tư pháp trong tố tụng hình sự là việc nghiên
cứu các vật chứng, chứng từ, tử thi, tình trạng sức khỏe và đặc điểm thể chất của

7


người sống có ý nghĩa đối với vụ án, do người có hiểu biết chuyên môn tiến hành
theo yêu cầu của cơ quan điều tra bằng quyết định trưng cầu giám định.
Khái niệm này đã cụ thể hóa các hoạt động giám định trong tố tụng hình sự
nhưng phạm vi chủ thể của khái niệm này quá hẹp vì giám định tư pháp trong tố
tụng hình sự không chỉ được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan điều tra mà còn
theo yêu cầu của những người tiến hành tố tụng khác nữa (Viện kiểm sát, Tòa án,
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển…)
Quan điểm thứ hai cho rằng, trong tố tụng hình sự giám định là việc nghiên
cứu, phân tích, xét nghiệm do các nhà khoa học, kĩ thuật và chuyên môn khác tiến
hành theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án về những vấn đề
có liên quan đến vụ án hình sự. (Nguyễn Mạnh Hùng, Thuật ngữ pháp lý 2011). So
với quan điểm thứ nhất, quan điểm này phù hợp hơn với các quy định của BLTTHS
năm 2003 xét về mặt chủ thể có thẩm quyền trưng cầu giám định. Tuy nhiên khái
niệm này cũng chưa bao quát hết nội hàm các quy định của pháp luật tố tụng về chủ
thể có thẩm quyền trưng cầu giám định cũng như những nội dung khác liên quan
đến GĐTP trong TTHS.
Có thể nhận thấy, GĐTP trong tố tụng hình sự là hoạt động xuất hiện trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.GĐTP chỉ được tiến hành khi được TCGĐ
theo quy định của pháp luật TTHS. Nói cách khác, chỉ có hoạt động giám định tiến
hành theo trưng cầu của CQTHTT và NTHTT theo quy định của pháp luật nhằm phục
vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự thì mới là GĐTP trong tố tụng hình sự.

GĐTP là công việc đòi hỏi người làm công tác này là những giám định viên
tư pháp có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có kiến thức về pháp luật, phẩm chất
chính trị, có hiểu biết về các lĩnh vực khoa học khác nhau để đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của các CQTHTT trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án nói
chung và các vụ án hình sự nói riêng.
Đối với các vụ án hình sự, giám định viên sẽ làm công tác chuyên môn và
đưa ra kết luận về các vấn đề đã được trưng cầu giám định như: nguyên nhân cái
chết, mức độ thương tích, công cụ gây thương tích, thành phần, tính năng các mẫu

8


vật, tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo. Kết quả của công tác này thể hiện bằng
bản kết luận giám định.Đây chính là một tài liệu, chứng cứ khoa học để các cơ quan
tố tụng giải quyết được vụ án.Đồng thời, bản KLGĐ còn là tài liệu khoa học bổ ích
cho những nghiên cứu về pháp y học, y học, điều tra hình sự, tội phạm học và
những ngành khoa học liên quan khác.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Giám định tư pháp trong tố tụng hình
sự là việc người giám định tư pháp, người có kiến thức chuyên môn trong những
lĩnh vực khác nhau, sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự theo quyết định trưng cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan khác được thực
hiện một số hoạt động tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo
quy định của pháp luật.
Tóm lại, GĐTP là một biện pháp bổ trợ vô cùng cần thiết và hữu hiệu trong
hoạt động tố tụng hình sự. Hiểu và nắm rõ được bản chất cũng như vai trò của
GĐTP sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết các vụ án hình sự và phòng ngừa
tội phạm nói chung.
1.1.2. Đặc điểm của giám định tư pháp trong tố tụng hình sự

GĐTP trong TTHS là hoạt động của cơ quan chuyên môn nhằm đưa ra kết
luận có tính chất khoa học về các vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, phục vụ
cho quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động này được tiến hành bởi các cơ
quan chuyên môn theo trình tự, thủ tục, thời hạn do BLTTHS quy định. Các cơ
quan chuyên môn sẽ sử dụng tri thức khoa học để nghiên cứu, kết luận các vấn đề
cần giám định nhằm xác lập, thu thập, củng cố, kiểm tra và đánh giá các tài liệu,
chứng cứ phục vụ cho khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Từ
những phân tích trên có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của GĐTP trong TTHS
như sau:
Thứ nhất đây là hoạt động được thực hiện theo một quy trình bơi quy định
của BLTTHS do cơ quan, người có thẩm quyền trưng cầu trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự hoặc người có yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.

9


Hoạt động giám định phải được thực hiện theo một quy trình do pháp luật tố
tụng hình sự quy định hết sức chặt chẽ về thủ tục, thời hạn, hình thức, chủ thể trưng
cầu giám định, người có quyền yêu cầu giám định, trường hợp giám định...Các thủ
tục này được quy định trong BLTTHS và trong Luật Giám định tư pháp.
Thứ hai đây là hoạt động không mang tính hành chính, mệnh lệnh – phục
tùng mà mang tính khoa học, chất lượng, giá trị của kết luận giám định không phụ
thuộc vào cấp hành chính mà phụ thuộc vào trình độ, năng lực và uy tín của tổ
chức, người giám định.
GĐTP là hoạt động mang tính khoa học, chuyên môn cao. Tính chuyên môn
khoa học trong quá trình thực hiện giám định thể hiện ở việc người thực hiện giám
định hoàn toàn độc lập và chủ động lựa chọn phương pháp giám định phù hợp và tự
chịu trách nhiệm về KLGĐ mà không bị ràng buộc, áp đặt bởi các cơ quan chủ
quản. Kết quả giám định và giá trị sử dụng của chúng cũng không phụ thuộc vào
cấp hành chính hay lần giám định mà phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của tổ

chức giám định, người giám định và phương pháp khoa học được áp dụng.
Thứ ba các kết quả giám định đưa ra phải dựa trên các căn cứ khoa học, có
độ tin cậy cao nhưng vẫn bị thay thế bằng các kết quả giám định khác.
Hoạt động GĐTP trong TTHS được thực hiện trên cơ sở các phương pháp
khoa học, trình tự thủ tục tiến hành giám định cũng trên cơ sở khoa học nên kết quả
giám định được đưa ra cũng phải dựa trên các căn cứ khoa học đã được thừa nhận.
Tuy nhiên không phải tất cả các kết luận giám định đều là bất di bất dịch mà kết
luận giám đinh vẫn được bổ sung hoặc thay thế bởi các kết quả giám định khác.
Luật Giám định tư pháp quy định trong trường hợp cơ quan THTT không đồng ý
với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận giám định chưa rõ hoặc
chưa đầy đủ thì phải giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục đã quy định.
Có thể nói với những đặc điểm trên, kết quả giám định luôn được các
CQTHTT coi là một nguồn chứng cứ đặc biệt quan trọng và hữu ích trong việc giải
quyết vụ án hình sự. Nguồn chứng cứ này vừa khách quan của vụ án đồng thời đảm
bảo tính hợp pháp của hoạt động chứng minh. Đây là cơ sở, căn cứ để định tội danh
và áp dụng khung hình phạt đối với người phạm tội.

10


1.1.3. Phân loại
1.1.3.1. Căn cứ vào quy định của pháp luật về sự cần thiết phải xác định các
sự kiện trong vụ án: Giám định bắt buộc và giám định khi xét thấy cần thiết
Giám định bắt buộc là trường hợp khi xuất hiện một hoặc một số tình tiết
liên quan đến vụ án mà luật TTHS đã quy định thì CQTHTT bắt buộc phải TCGĐ,
nếu không trưng cầu là vi phạm thủ tục tố tụng hình sự. Đó là các trường hợp quy
định tại khoản 3 điều 155 BLTTHS 2003.
Giám định khi xét thấy cần thiết: là trường hợp khi xuất hiện những tính tiết
nhất định trong vụ án, tuy luật không quy định bắt buộc phải giám định nhưng cơ
quan THTT nhận thấy việc giám định là rất cần thiết để giải quyết vụ án một cách

chính xác và TCGĐ thì giám định viên sẽ tiến hành việc giám định. Đó là các
trường hợp:
+ Cần có KLGĐ làm căn cứ để quyết định tiến hành một hoặc một số hoạt
động tố tụng hình sự.
+ Cần có KLGĐ để có chứng cứ nhằm củng cố, hỗ trợ cho các chứng cứ
khác phục vụ cho việc xử lý vụ án.
+ Cần có KLGĐ để làm căn cứ xây dựng giả thuyết điều tra.
1.1.3.2. Căn cứ vào tình huống và kết quả giám định: giám định lần đầu,
giám định bổ sung, giám định lại
Giám định lần đầu là việc tiến hành giám định lần đầu tiên đối với một vấn
đề nào đó của vụ án cần được làm rõ theo quyết định TCGĐ của cơ quan điều tra
hoặc tòa án.
Giám định bổ sung là giám định tiếp theo lần giám định trước nhằm bổ sung
KLGĐ trước đó hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các tình tiết đã
được kết luận trước đó. Ngoài ra, giám định bổ sung còn được trưng cầu trong
trường hợp khi ra quyết định TCGĐ lần trước đó, Điều tra viên không đưa ra hết
những câu hỏi đối với giám định viên. Giám định bổ sung có thể do người trước đó
tiến hành hoặc do người giám định khác tiến hành.
Giám định lại là việc giám định được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan

11


THTT trong trường hợp có căn cứ xác thực nghi ngờ KLGĐ không đảm bảo tính
khách quan hoặc có mâu thuẫn với các KLGĐ khác.
Nội dung giám định lại là toàn bộ những yêu cầu giám định lần trước và
người giám định trước đó không được tiến hành việc giám định lại mà phải do
người giám định khác tiến hành.
1.1.3.3. Căn cứ vào số lượng, thành phần người tham gia giám định: giám
định cá nhân, giám định tập thể

Giám định cá nhân là việc giám định do một người tiến hành độc lập giải
quyết toàn bộ yêu cầu giám định theo quyết định trưng cầu của CQTHTT.
Giám định tập thể là việc nhiều người cùng một lĩnh vực chuyên môn hoặc ở
nhiều lĩnh vực chuyên môn cùng tiến hành giám định một vấn đề nào đó.
Giám định tập thể được CQTHTT trưng cầu trong trường hợp sau:
+ Yêu cầu giám định đòi hỏi nhiều người giám định ở các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau giải quyết.
+ Khối lượng tài liệu, vật chứng, mẫu vật lớn cần có kết luận kịp thời cho
công tác điều tra vụ án hình sự.
+ Vấn đề giám định rất phức tạp, đòi hỏi kết luận giám định của một tập thể
người giám định để đảm bảo tính chính xác, tin cậy.
+ Cần giám định lại một yêu cầu giám định do một GĐV cao cấp hoặc một
tập thể GĐV đã tiến hành giám định.
1.1.3.4. Căn cứ vào vấn đề cần giám định liên quan tới một hoặc nhiều lĩnh
vực khoa học: giám định chuyên khoa, giám định tổng hợp.
Giám định chuyên khoa là việc một hoặc nhiều người giám định của một
chuyên khoa đảm nhiệm việc giám định.
Giám định tổng hợp là việc nhiều người giám định thuộc nhiều chuyên khoa
đảm nhiệm việc giám định.Việc giám định tổng hợp được tiến hành bằng nhiều
phương pháp thuộc các chuyên khoa khác nhau trên cùng một đối tượng giám định
hoặc trên nhiều đối tượng giám định có liên quan với nhau để cùng giải quyết một
yêu cầu giám định cụ thể.

12


1.1.3.5. Căn cứ vào lĩnh vực chuyên môn giám định
Giám định pháp y là việc sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học
kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về phương diện y học những vấn đề có liên quan đến
sự kiện chết người, thương tích...theo văn bản trưng cầu của CQTHTT nhằm phục

vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Hoạt động GĐTP trong lĩnh vực pháp y nhằm mục đích nghiên cứu ứng
dụng hầu hết tất cả những khoa học kỹ thuật vào việc xác định mức độ tổn hại sức
khỏe, phẩm giá con người, nguyên nhân tử vong bởi những hành vi xâm hại đến
thân thể khi CQTHTT yêu cầu giám định làm căn cứ cho việc khởi tố vụ án, xác
định tội danh, định khung hình phạt…Do vậy đối tượng của giám định pháp y là
những thương tích trên cơ thể sống; tử thi; dấu vết, tang vật như: tóc, lông, máu,
tinh dịch, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu; vật gây thương tích như bom, mìn, súng,
đạn, vật sắc nhọn, vật sắc, vật tày; trên hồ sơ, tài liệu.
Thông qua việc giám định này, CQTHTT sẽ xác định được công cụ gây
thương tích, số lượng người có mặt tại hiện trường…để từ đó có cơ sở để thực hiện
các bước tiếp theo của quá trình tố tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, xác định
tội danh, định khung hình phạt…
Giám định pháp y tâm thần: là một bộ phận của tâm thần học, phát triển cùng
với sự phát triển chung của ngành tâm thần học. Giám định pháp y tâm thần là việc
sử dụng kiến thức trong lĩnh vực y học tâm thần để xem xét những vấn đề có liên
quan đến cá nhân như vấn đề về sức khỏe tâm thần, xác định chính xác những đối
tượng bị nghi rối loạn tâm thần có bị bệnh tâm thần hay không, mức độ nặng nhẹ, từ
đó xác định năng lực trách nhiệm hành vi phạm pháp.
Mục đích của giám định pháp y tâm thần nhằm giám định tình trạng sức
khỏe- sức khỏe tâm thần của bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng. Giám
định khả năng chịu trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự dựa trên 2 tiêu chuẩn:
+ Tiêu chuẩn y học: đó là vấn đề chuẩn đoán bệnh (họ bị bệnh gì? mức độ
nặng, nhẹ?)
+Tiêu chuẩn pháp luật: xem xét khả năng nhận thức hành vi (có, hạn chế hay

13


mất khả năng nhận thức), xem xét khả năng kiềm chế hành vi. Nên đối tượng của

giám định pháp y tâm thần là trạng thái tâm thần và hồ sơ tài liệu của con người.
Giám định kỹ thuật hình sự: là việc sử dụng những kiến thức, phương pháp
khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn trong khoa học hình sự để xác định hoặc
truy nguyên các hiện tượng vật chất như con người, sự vật, hiện tượng…có liên
quan đến vụ án hình sự.
Hoạt động giám định trong lĩnh vực này thực hiện các nhiệm vụ truy nguyên
nhằm làm sáng tỏ một vụ việc có tính hình sự với mục đích xác định và chứng minh
sự đồng nhất của các hiện tượng vật chất đang có liên quan đến vụ việc với những
hình thức vật chất đã được xác định, thu thập trong quá trình điều tra.
Đối tượng của hoạt động giám định kỹ thuật hình sự là: các loại dấu vết (dấu
vết súng, đạn, dấu vết vân, máu…), chất ma túy, chữ ký, chữ viết, tài liệu, các chất
hóa học, chất độc, gen…
Giám định xây dựng: là hoạt động của cá nhân, tổ chức có năng lực giám
định sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ để kết
luận về chuyên môn trong lĩnh vực xây dựng những vấn đề cú liên quan đến vụ án,
đặc biệt là những vụ án về xây dựng.
Giám định môi trường: đánh giá nguồn tác động và đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các hoạt động và các yếu tố đến môi trường.
Giám định trong lĩnh vực môi trường: bao gồm các hoạt động lấy mẫu và
phân tích môi trường, không khí, nước, đất. Hoạt động này đã góp phần trong công
tác xác định mức độ vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ môi
trường, từ đó đưa các biện pháp xử lý hành chính, hình sự nhằm tăng cường hiệu
lực pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường
Giám định văn hóa: việc sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ chuyên ngành để giám định các loại hình tác phẩm văn học- nghệ
thuật và văn hóa phẩm, đưa ra kết luận về chuyên ngành văn hóa có liên quan đến
vụ án do người GĐTP thực hiện.
Giám định văn hóa nhằm phục vụ cho việc xem xét, phân tích các tác phẩm

14



văn học, nghệ thuật, văn hóa phẩm có mang nội dung đồi trụy, phản động, chống
phá Đảng và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phù hợp với thuần
phong mỹ tục hay không? Có phải là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, là nguyên bản,
nguyên gốc hay bản sao, đồ giả? Trên cơ sở đó đưa ra những kết luận về chuyên
môn theo trưng cầu của cơ quan THTT, phục vụ đắc lực cho công tác điều tra tội
phạm về văn hóa.
Đối tượng của giám định văn hóa là: sách, báo, tạp chí, tài liệu văn bản được
đánh máy, sao chép dưới mọi hình thức, bản vẽ kỹ thuật, bản vẽ thiết kế. Giám định
các loại tranh, tác phẩm mỹ thuật các thể loại như đồ họa, khắc kẽm, khắc gỗ, sơn
khắc, sơn dầu, sơn mài, khảm trai…Giám định phim ảnh, băng đĩa ghi âm, ghi hình,
ghi mã số, giám định đồ thủ công các thể loại và chất liệu…
Giám định giao thông công chính: do GĐV có đủ năng lực cũng như điều
kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật tiến hành để kết luận về những vấn đề về chuyên ngành
giao thông công chính có liên quan đến vụ án như việc giám định chất lượng công
trình cầu đường, giám định tính chất an toàn giao thông, giám định chất lượng
phương tiện giao thông, giám định chất lượng cây xanh trồng trên hè phố…
Đối tượng của hoạt động giám định này là: hạ tầng giao thông đường bộ, đường
thủy, đường không, đường sắt, cầu cống, bến phà, nhà ga. Giám định hạ tầng kỹ thuật
đô thị như vỉa hè, đường đô thị, hệ thống cấp thoát nước, công viên, cây xanh.
Như vậy tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, những căn cứ phân loại khác
nhau mà GĐTP được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Việc phân loại này có ý
nghĩa trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động GĐTP, xác định trách nhiệm
của các ngành, các cấp, cơ quan chủ quản. Hơn nữa, việc phân loại này cũng giúp
CQTHTT lựa chọn cá nhân, cơ quan, tổ chức phù hợp để TCGĐ.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của giám định tƣ pháp trong tố tụng hình sự
1.2.1. Vai trò của giám định tư pháp
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực như hiện nay, đời
sống của người dân cũng được nâng cao, trình độ dân trí cũng ngày một phát

triển.Bên cạnh những mặt tích cực của quá trình đó mang lại thì tình hình tội phạm,

15


tệ nạn xã hội ngày một gia tăng và diễn biến phức tạp hơn trước. Để giúp các
CQTHTT thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, GĐTP mặc dù là hoạt động
bổ trợ nhưng lại góp phần không nhỏ vào hoạt động TTHS nói chung và quá trình
giải quyết vụ án hình sự nói riêng.
Những phân tích dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò của hoạt
động trong tố tụng hình sự.
1.2.1.1. Góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án
 Góp phần xác định dấu hiệu của tội phạm
Dấu hiệu của tội phạm là sự tiếp nhận ban đầu, có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định một hành vi xảy ra trên thực tế có phải là tội phạm hay không, là căn
cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không
khởi tố vụ án hình sự (Điều 63 BLTTHS 2003).
Trong quá trình giải quyết vụ án, khi chưa xác định được dấu hiệu tội phạm thì
mọi việc tiến hành các hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế, ngăn
chặn, đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm đều có thể dẫn đến oan sai, vi phạm
quyền dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Vì vậy
việc xác định dấu hiệu tội phạm là một nhiệm vụ quan trọng của CQĐT, đó là cơ sở để
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định trong quá trình THTT. Theo điều 100 BLTTHS
2003 “chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm”. Như vậy,
dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Trong nhiều trường hợp việc xác định dấu hiệu tội phạm đòi hỏi phải có sự
đánh giá khách quan, khoa học từ những nhà chuyên môn có kiến thức nghiệp vụ và
kinh nghiệm.Và GĐTP là một trong những công cụ hữu hiệu được CQĐT sử dụng
để hỗ trợ xác định dấu vết tội phạm.
Ví dụ: CQĐT nhận được tin báo từ nhân dân có một xác chết trôi sông.

Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng ở đây là tổ chức khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi để xác định nguyên nhân cái chết. Nếu có căn cứ xác định nạn
nhân chết đuối bình thường thì cơ quan tố tụng sẽ tìm và trao trả nạn nhân cho gia
đình theo quy định. Nếu quá trình khám nghiệm tử thi, tìm dấu vết phát hiện có dấu

16


hiệu thương tích hoặc nạn nhân chết trước khi rơi xuống nước, tức là có dấu hiệu
của tội phạm, CQĐT sẽ khởi tố hình sự vụ án và truy tìm, điều tra thủ phạm.
KLGĐ sẽ tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc của sự việc, giải thích những hiện
tượng đã xảy trong thực tế như: KLGĐ về nguyên nhân chết người, nguyên nhân
cháy… Đây là cơ sở để CQĐT xác định vụ việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hay
không, từ đó đưa ra những quyết định tố tụng cần thiết.
Đối với những vụ việc có liên quan đến ma túy, chất độc, chất phóng xạ, tiền
giả hay buôn lậu… chỉ có thể xác định dấu hiệu tội phạm thông qua việc xác minh
nguồn gốc, xuất xứ, thành phần hóa học, chất lượng vật phẩm.
Tương tự với các vụ việc cố ý gây thương tích, tai nạn giao thông… cần phải
xác định mức độ tổn hại sức khỏe để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
Nếu tỉ lệ thương tật dưới 11% đối với những vụ việc có tính hình sự nhưng không
có những tình tiết ở vào 10 điểm từ a đến k điều 104 BLHS, hoặc những trường hợp
tai nạn giao thông mà tỷ lệ thương tật dưới 31% sẽ không có quyết định khởi tố vụ
án hình sự. Hay giám định xác định giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi nguy hiểm
cho xã hội gây ra đã đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa (như một
số tội phạm tham nhũng: điều 278, 279, 280 BLHS) là căn cứ pháp lý để cơ quan có
thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Với tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm thì việc
xác định đó có phải là một trong những loài động vật nằm trong danh mục những
loài quý hiếm cần được bảo vệ hay không là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đến việc khởi tố vụ án hình sự.

Nếu có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT khởi tố vụ án để tiến hành điều tra làm
sáng tỏ vụ án. Ngược lại, nếu không có dấu hiệu tội phạm thì sẽ không giải quyết
theo trình tự tố tụng hình sự, như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức cho cơ
quan THTT. Trong quá trình giải quyết vụ án nếu CQĐT đã ra quyết định khởi tố
vụ án mà phát hiện sự việc không có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định đình chỉ
quyết định khởi tố vụ án, đình chỉ điều tra hoặc quyết định tố tụng khác.
Tóm lại, khởi tố hay không khởi tố một vụ án hình sự liên quan đến nhân

17


×