1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình
nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.
Tác giả luận văn
2
Môc lôc
3
DANH MôC C¸C b¶ng
4
DANH MôC C¸C s¬ ®å
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất kinh doanh
Sơ đồ 2.2: Quy trình sản xuất kinh doanh chính của Công ty
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra những thế và
lực mới cả bên trong lẫn bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát
triển mới.Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng rộng mở, thu hút đầu tư nước
ngoài ngày càng tăng cao cộng với dân số nước ta là dân số trẻ, tốc độ đô thị
hóa ngày càng cao đã dẫn tới nhu cầu về xây dựng và bất động sản lớn. Tuy
nhiên, thời gian gần đây, kinh tế thế giới bị khủng hoảng, kinh tế trong nước
suy thoái gây khó khăn cho các ngành nghề đặc biệt là các doanh nghiệp
trong lĩnh vực xây dựng, bất động sản. Hiện nay, hàng ngàn doanh nghiệp xây
dựng bất động sản phá sản hoặc giải thể. Số còn lại phải đối mặt với nguy cơ
công nợ phải thu và hàng tồn kho tăng cao, đi kèm với nó là thanh khoản
kém, khó huy động vốn, khả năng sinh lời, khả năng hoạt động hạn chế.
Trong thời gian qua, chính phủ, các bộ ban ngành đã có rất nhiều động thái
nhằm vực dậy thị trường bất động sản. Tuy nhiên, các công ty kinh doanh
trong lĩnh vực này muốn tồn tại và phát triển thì không chỉ trông mong vào sự
cứu trợ từ nhà nước mà cần phải phát huy được sức mạnh nội tại của doanh
nghiệp. Đây không chỉ là một vấn đề thời sự quan trọng mà còn là chiến lược
dài hạn của các công ty xây dựng, bất động sản quan tâm.
Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm tiền thân là Xí nghiệp Xây
dựng Từ Liêm được thành lập từ năm 1974. Năm 2004, công ty được chuyển
đổi từ doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần (Nhà nước không nắm
giữ cổ phần) theo Quyết định số 3755/QĐ-UB ngày 16/06/2004 của UBND
Thành phố Hà Nội với mục tiêu trở thành một trong những doanh nghiệp xây
dựng và kinh doanh bất động sản hàng đầu Việt Nam. Trong quá trình phát
triển, Công ty đã đạt được những kết quả khả quan, là một công ty hàng đầu
6
trong lĩnh vực trong lĩnh vực xây lắp các công trình xã hội và dân dụng và
đầu tư xây dựng các khu Đô thị. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan mà hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn hạn chế.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả đã chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô
thị Từ Liêm" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Một là, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp xây dựng.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
Ba là, một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp sản xuất nói chung và Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị
Từ Liêm nói riêng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện
luận văn: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hóa,
phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh xử lý hệ thống.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất, làm sáng tỏ vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các công ty sản xuất.
Thứ hai, phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm trong thời gian qua, ưu
điểm và những hạn chế cần khắc phục.
7
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp xây dựng.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công
ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
tại Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có vị trí hết sức quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng mới, xây
dựng lại, cải tạo, hiện đại hóa, khôi phục công trình nhà máy, xí nghiệp,
đường xá, nhà cửa, công trình nhằm phục vụ cho đời sống, sản xuất của xã
hội. Chi phí cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ngân
sách nhà nước cũng như nguồn lực của doanh nghiệp.
Chi phí xây dựng cơ bản bao gồm: Xây dựng, mua sắm, lắp đặt thiết bị
và chi phí kiến thiết cơ bản khác, trong đó phần xây dựng, lắp đặt thiết bị do
các doanh nghiệp chuyên về thi công xây lắp đảm nhận thông qua hợp đồng
giao nhận thầu xây dựng. Sản phẩm của các công trình xây lắp là các công
trình đã xây dựng, lắp đặt hoàn thành có thể đưa vào sử dụng phục vụ cho sản
xuất và đời sống.
So với ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những nét đặc
thù riêng biệt thể hiện ở sản phẩm và quá trình sản xuất. Điều này có ảnh
hưởng đến công tác quản trị tài chính của ngành. Cụ thể:
Sản phẩm xây dựng mang tính riêng lẻ, đơn chiếc. Mỗi sản phẩm xây
dựng có yêu cầu về mặt thiết kế kỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây
dựng khác nhau. Vì vậy, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu tổ chức quản
lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với từng công trình cụ thể,
có như vậy việc sản xuất mới mang lại hiệu quả cao. Trong thực tế, chúng ta
không thể có hai công trình xây dựng giống nhau hoàn toàn cho dù nó có là
những căn hộ liền kề, nhà chung cư thì nó cũng có những nét khác biệt về vị
trí xây dựng, hướng, tầng,…
9
Do sản phẩm có tính đơn chiếc như vậy nên chi phí sản xuất và những
vấn đề liên quan cho từng công trình sẽ khác nhau. Vì vậy, việc tập hợp chi
phí, tính giá thành, giá bán,… từ đó xác định hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng được tính cho từng sản phẩm riêng biệt. Trước kia sản phẩm
xây dựng theo đơn đặt hàng nên ít phát sinh chi phí trong quá trình lưu thông.
Tuy nhiên, những năm gần đây các sản phẩm xây dựng đặc biệt là xây dựng
dân dụng ngày càng trở nên phong phú đa dạng hơn vì thế công tác quảng bá
và bán hàng ngày càng được coi trọng.
Sản phẩm xây dựng có giá trị lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công
kéo dài. Trong quá trình xây dựng chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại
sử dụng nhiều vật tư, nhân lực, vốn. Do đó, việc quản lý đòi hỏi phải lập dự
toán thiết kế và thi công để theo dõi, kiểm tra quá trình sản xuất, thi công,
đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm đảm bảo chất lượng công trình.
Do thời gian thi công kéo dài nên việc đánh giá hiệu quả thường không
xác định hàng tháng như trong sản xuất công nghiệp mà xác định theo thời
điểm khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay thực hiện bàn giao
thanh toán theo giai đoạn quy ước, tùy thuộc vào kết cấu kỹ thuật và khả năng
về vốn của đơn vị xây dựng.
Doanh nghiệp xây dựng thường có địa bàn rộng, sản phẩm xây dựng cố
định tại nơi sản xuất. các điều kiện để sản xuất (xe, máy, nhân công, thiết bị,
phương tiện thi công) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm,... Đặc điểm
này làm cho công tác quản lý rất phức tạp ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên
thời tiết. Thông thường các doanh nghiệp xây dựng sử dụng lực lượng lao
động thuê ngoài tại chỗ, nơi thi công công trình để giảm bớt chi phí di dời.
Công tác quản trị tài chính phải tổ chức tốt từ khâu lập dự án, thực hiện dự
án đến bán hàng thu tiền. Nó đòi hỏi phải thường xuyên kiểm kê vật tư tài sản
nhằm phát hiện những thiếu hụt, hư hỏng để có biện pháp xử lý kịp thời.
10
Sản xuất xây dựng cơ bản thường diễn ra ngoài trời, chịu sự tác động
trực tiếp của thiên nhiên, thời tiết nên việc thi công ở mức độ nào đó mang
tính thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần quản lý lao động,
vốn chặt chẽ, thi công nhanh, đúng tiến độ. Trong điều kiện thời tiết không
thuận lợi ảnh hưởng đến chất lượng công trình có thể phải đi làm lại và xử lý
các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất. Chính vì vậy các doanh nghiệp
trong lĩnh vực này cần phải chủ động thực hiện các giải pháp đối phó với
những ảnh hưởng từ thời tiết, có chế độ điều chỉnh cho phù hợp nhằm tiết
kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh.
1.2. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Đề đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp có thể
tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, để xây dựng một khái niệm
hoàn chỉnh về hiệu quả sản xuất kinh doanh từ giác độ các doanh nghiệp thì
phải xuất phát từ mục tiêu hoạt động của nó để xem xét và đánh giá. Mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp xét trong ngắn hạn là tối đa hóa lợi nhuận còn
trong dài hạn thì mục tiêu đó chính là việc tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp
và lợi ích cho chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu này, các nhà quản trị doanh
nghiệp phải xác định cho mình những chiến lược kinh doanh đúng đắn, xây
dựng từng kế hoạch trong ngắn, trung và dài hạn đáp ứng được với những
thay đổi của môi trường kinh doanh. Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là
phải phân bổ và quản trị có hiệu quả nguồn lực và luôn kiểm tra giám sát hiệu
quả hoạt động của mình. Chính vì thế, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cần thiết phải đánh giá đầy đủ ở mức độ phạm
vi toàn doanh nghiệp cũng như từng bộ phận của nó.
11
Một cách chung nhất dễ hiểu để có thể định nghĩa hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là so sánh giữa kết quả thu được và chi
phí bỏ ra để có kết quả đó. Như vậy, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực:
nguồn vật lực, nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính và cả nguồn lực thông tin
với mức tiết kiệm nhất nhưng cũng tạo ra hiệu quả cao nhất trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được
đánh giá cao hay thấp chỉ có thể thông qua việc xem xét mối quan hệ giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra. Từ đó có thể khái quát phạm trù hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo công thức sau:
H = K/C
Trong đó:
H là hiệu quả sản xuất
K là kết quả thu được
C là nguồn lực sử dụng để tạo ra kết quả đó
Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (Vật lực,
nhân lực, nguồn lực tài chính và thông tin) để đạt được mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp là gia tăng giá trị doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh được xác định bởi tỷ số hoặc phần chênh lệch giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Nếu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh
doanh theo số tương đối thì việc so sánh giá trị của H với 1 có thể cho thấy
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không. Nếu H > 1 thì kết quả thu
được nhiều hơn chi phí bỏ ra, chính vì thế H càng lớn hơn 1 càng tốt. Và
ngược lại, H < 1 cho thấy, doanh nghiệp chưa sử dụng tốt nguồn lực. Để tăng
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh (H) thì chúng ta phải có những biện
pháp làm giảm đầu vào, đầu ra không đổi; giữ đầu vào không đổi đồng thời
tăng đầu ra hoặc giảm đầu vào tăng đầu ra.
12
Ngoài việc xác định hiệu quả kinh doanh một cách định lượng như trên,
chúng ta cũng cần nghiên cứu hiệu quả kinh doanh trên cả khía cạnh định tính
nữa. Xét trên khía cạnh định tính hiệu quả kinh doanh đánh giá sự cố gắng, nỗ
lực, trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Chính vì thế, xem xét hiệu quả kinh doanh cần phải được đánh giá cả
về mặt định tính lẫn định lượng nhằm phản ánh toàn diện hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp đó.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh
Trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải trả lời
được ba câu hỏi lớn: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
Nếu như nguồn lực là vô hạn thì các doanh nghiệp sẽ giải quyết ba câu hỏi
này một cách đơn giản và dễ dàng. Tuy nhiên, nguồn lực thì hữu hạn mà nhu
cầu thì lại vô hạn. Các tài nguyên trên trái đất như đất đai, khoáng sản, nước,…
là có hạn và ngày càng khan hiếm do sự khai thác và sử dụng của con người.
Trong khi đó, quy mô dân số ngày càng tăng cùng với sự gia tăng ngày càng
đa dạng các nhu cầu của con người cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Nguồn tài
nguyên ngày càng khan hiếm đòi hỏi con người phải nghĩ đến việc lựa chọn
cách thức tối ưu để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng nguồn tài nguyên đó.
Ngoài ra, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật trong sản xuất giúp con
người tìm ra nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm. Khoa học công nghệ phát triển cho phép với cùng những nguồn lực đầu vào nhất định
ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này giúp các doanh
nghiệp có khả năng lựa chọn cơ cấu sản xuất kinh doanh sản phẩm tối ưu.
Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Sự tăng trưởng kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố
13
sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, hoàn thiện
công tác quản trị và cơ cấu kinh tế,… nâng cao chất lượng các hoạt động
kinh tế.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tức là nâng cao khả
năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất. Trong điều kiện khan hiếm
các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện
tiên quyết giúp doanh nghiệp thành công trên thương trường.
Hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay theo cơ chế thị trường, môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp không chỉ phải cạnh
tranh trên phạm vi một quốc gia mà còn chịu sức cạnh tranh từ các doanh
nghiệp khác trên thế giới. Việc giải quyết ba câu hỏi lớn: sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường,
cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự đưa ra các quyết định kinh
doanh của mình, tự hạch toán lỗ lãi. Lúc này mục tiêu lợi nhuận trở thành một
trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang tính chất sống còn của doanh
nghiệp. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt dẫn đến hệ quả là có nhiều
doanh nghiệp trụ vững, phát triển sản xuất kinh doanh nhưng không ít doanh
nghiệp giải thể, thua lỗ, phá sản,… Để có thể đứng vững trong cơ chế thị
trường các doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi
phí sản xuất, nâng cao uy tín,… nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Mỗi doanh nghiệp phải biết tận dụng lợi thế để tạo ra ưu thế riêng của
mình. Ưu thế đó có thể là chất lượng sản phẩm, sự đi đầu về kỹ thuật và công
nghệ, sự vượt trội về chất lượng đội ngũ lao động hay có thể là sự nhanh nhạy
và hiệu quả của công tác quản lý. Khai thác hiệu quả ưu thế cạnh tranh góp
phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó nâng tầm
uy tín và khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
14
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để mở rộng sản xuất: Mở rộng
sản xuất là một yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp, là cơ hội cho doanh
nghiệp tìm được vị trí cao hơn trên thương trường. Để thực hiện được điều
này có thể có nhiều phương thức khác nhau, tuy nhiên có một phương thức
truyền thống và hiệu quả đó là việc tích lũy tư bản tức là sử dụng hiệu quả sản
xuất kinh doanh của kỳ trước để mở rộng quy mô cho kỳ này. Ngoài ra doanh
nghiệp còn đảm bảo thị trường đầu ra cho sản phẩm, đảm bảo khả năng nội
lực nhằm tránh việc mở rộng không phù hợp gây lãng phí nguồn lực và làm
giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo đời sống cho người
lao động trong doanh nghiệp. Đối với mỗi cán bộ, nhân viên thì tiền công,
tiền lương là phần thu nhập chủ yếu nhằm duy trì cuộc sống của họ. Do đó
phấn đấu để tăng thêm thu nhập cho người lao động, để người lao động yên
tâm sản xuất là mục tiêu quan trọng của mỗi doanh nghiệp. Để làm được điều
này, các doanh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của
mình để duy trì sự tồn tại của chính doanh nghiệp cũng như cải thiện chất
lượng cuộc sống cho người lao động.
Tóm lại, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Nó trở thành
điều kiện tiên quyết, sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trên
thị trường. Xuất phát từ những lý do trên mà việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp.
1.2.3. Phân biệt các loại hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Thực tế cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù được sử
dụng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Tùy theo
cách tiếp cận và tiêu thức khác nhau chúng ta có thể phân loại hiệu quả sản
xuất kinh doanh theo các dạng khác nhau. Nếu xét theo mục tiêu tác động thì
15
chúng ta có thể chia hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra làm ba
loại: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế- xã hội.
Hiệu quả kinh tế: Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế có thể
vì một hay nhiều mục tiêu, tuy nhiên mục tiêu hàng đầu và của hầu hết các
doanh nghiệp đó chính là những mục tiêu về mặt kinh tế. Như đã nói ở trên,
tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp cho chủ sở hữu là mục
tiêu tiên quyết của các doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, hiệu quả
kinh tế của doanh nghiệp có thể hiểu trên các khía cạnh sau:
- Sự gia tăng doanh thu: Theo nhà kinh tế học người Anh Adam
Smith thì hiệu quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu thụ hàng
hóa. Nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng có cùng quan điểm với Adam
Smith. Ở đây, hiệu quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Theo các nhà kinh tế học, doanh nghiệp sẽ đạt được doanh
thu tối đa nếu doanh thu cận biên bằng 0. Rõ ràng quan điểm này hoàn toàn
bỏ qua ảnh hưởng của chi phí đầu vào với doanh thu đầu ra. Nếu cùng một kết
quả nhưng có hai mức chi phí khác nhau thì hiệu quả của doanh nghiệp là như
nhau nếu theo quan điểm này.
o Tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi
phí: Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
thể được đánh giá dựa trên quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và
phần tăng thêm của chi phí. Hiệu quả có thể biểu hiện quan hệ so sánh tương
đối giữa kết quả đạt được với chi phí tiêu hao. Hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được coi là có hiệu quả khi tỷ lệ gia tăng của kết quả cao
hơn tỷ lệ gia tăng của chi phí và không hiệu quả khi tỷ lệ gia tăng của kết quả
thấp hơn tỷ lệ gia tăng của chi phí. Nói một cách khác là doanh thu cận biên
phải lớn hơn chi phí cận biên và doanh nghiệp tối đa hóa được lợi nhuận khi
doanh thu cận biên bằng với chi phí cận biên. Tuy nhiên sản xuất kinh doanh
là một quá trình, trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với
nhau, chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm hiệu quả kinh doanh thay
đổi. Khi xem xét tính hiệu quả kinh doanh chỉ dựa trên phần kết quả và chi
phí gia tăng mà chưa đánh giá sự vận động của cả tổng thể bao gồm các yếu
tố sẵn có và yếu tố tăng thêm.
16
o Hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra: Theo cách tiếp cận này, hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xem
xét dựa trên hiệu số giữa kết quả đạt được và toàn bộ các nguồn lực hay chi
phí doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi
hiệu số này dương chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thu được kết quả lớn hơn những chi phí mà doanh nghiệp đó đã bỏ ra để tiến
hành hoạt động kinh doanh đó, chứng tỏ doanh nghiệp đang có hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Hiệu số này càng lớn càng thể hiện độ hiệu quả
đó. Nếu hiệu số này bằng không tức là toàn bộ kết quả đạt được chỉ đủ bù đắp
chi phí, nếu hiệu số này nhỏ hơn không chứng tỏ kết quả đạt được còn thấp
hơn chi phí bỏ ra nghĩa là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
chưa mang lại hiệu quả.
Việc đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp hết sức phức tạp, bản
thân kết quả và chi phí kinh doanh nhiều khi không phản ánh được chính xác.
Nguyên nhân của điều này là do có những kết quả và chi phí không được đo
lường bằng những đơn vị thông thường như uy tín, chi phí cơ hội. Mặt khác
kết quả và chi phí khó đo lường ở một thời điểm cụ thể, hiệu quả kinh doanh
ngắn hạn và dài hạn có thể không tương đồng với nhau thậm chí mâu thuẫn.
Chẳng hạn doanh nghiệp chú trọng vào mục tiêu trước mắt mà bỏ qua một số
phân khúc thị trường, các bạn hàng truyền thống về ngắn hạn có thể đem lại
hiệu quả kinh doanh song về dài hạn chưa chắc hiệu quả sản xuất kinh doanh
đã bền vững.
Hiệu quả xã hội: Phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
được các mục tiêu xã hội nhất định như giải quyết công ăn việc làm trong
toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế; giảm số người thất nghiệp; nâng cao
trình độ văn hóa và đời sống tinh thần của người lao động trên cơ sở giải
quyết tốt các quan hệ trong phân phối; đảm bảo nâng cao sức khỏe, vệ sinh
môi trường… Trong phạm vi hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
hiệu quả xã hội được xem là một trong các mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra
17
và thực hiện mục tiêu đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Đầu
tiên phải kể đến đó là việc góp phần giải quyết công ăn việc làm cho cán bộ
công nhân viên nhờ việc tăng quy mô sản xuất, từ đó nâng cao chất lượng đời
sống người lao động qua tăng thu nhập, phúc lợi cho người lao động trong
việc khuyến khích các hoạt động xá hội, vui chơi… Tiếp theo là việc tạo điều
kiện cho người lao động tham gia các khóa học đào tạo và đào tạo lại nhằm
nâng cao trình độ và năng lực. Các hoạt động thiết thực đó là một phần đóng
góp vào hiệu quả xã hội chung của ngành, của vùng và trên cả nước.
Hiệu quả kinh tế- xã hội: Phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã
hội để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Hiệu quả kinh tế - xã hội
gắn liền với nền kinh tế hỗn hợp và được xem xét dưới góc độ quản lý vĩ mô.
Với tư cách là tế bào của nền kinh tế, là khâu quan trọng, cơ sở trong
nền kinh tế. Các doanh nghiệp ngoài mục tiêu kinh tế là lợi nhuận là tối đa
hóa giá trị doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cũng cần trách nhiệm thực hiện
các mục tiêu xã hội. Nghĩa vụ đóng góp ở mức độ nào là do pháp luật quy
định cho từng loại hình doanh nghiệp (kinh doanh hay công ích) cũng như
cho từng hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Mặt khác, xã hội càng phát
triển thì nhận thức của con người đối với xã hội cũng dần thay đổi, nhu cầu
của người tiêu dùng không chỉ ở công dụng của sản phẩm dịch vụ mà còn cả
các điều kiện khác như thân thiện với môi trường, an toàn thực phẩm,… Vì
vậy càng ngày các doanh nghiệp càng nhận thức được vai trò, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Bởi chính sự nhận
thức và đóng góp của doanh nghiệp vào thực hiện các mục tiêu xã hội lại làm
tăng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp và tác động tích cực, lâu dài đến kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
18
Mỗi một công ty có thể sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu khác nhau để
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh khác nhau của mình. Hiệu quả kinh
doanh của một công ty ở những thời điểm khác nhau có thể cũng không giống
nhau. Do đó, người ta coi các chỉ số đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh là
những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
trong một thời kỳ nhất định.
Thông thường người ta đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp dựa vào các nhân tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh
là lao động và vốn.
1.3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
Trước hết, chúng ta hiểu lao động là hoạt động có mục đích của con
người, là quá trình sức lao động tác động lên đối tượng lao động thông qua tư
liệu sản xuất nhằm tạo nên những vật phẩm, những sản phẩm theo mong muốn.
1.3.1.1. Hiệu suất sử dụng lao động:
Hiệu suất sử dụng
Doanh thu thuần
Tổng số lao động bình quân
lao động
Chỉ tiêu này cho biết một lao động bình quân là ra bao nhiêu doanh thu
=
thuần trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy vấn đề sử
dụng nguồn nhân lực càng có hiệu quả.
1.3.1.2. Sức sinh lời của lao động
Sức sinh lời
Lợi nhuận sau thuế
Tổng số lao động bình quân
của lao động
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động bình quân trong kỳ góp phần tạo
=
cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao
phản ánh khả năng sinh lời từ người lao động càng lớn.
1.3.1.3. Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương
Hiệu quả sử dụng
chi phí tiền lương
=
Doanh thu thuần
Tổng quỹ lương
19
Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương cho biết: để thực hiện một đồng
doanh thu bán hàng thì cần chi bao nhiêu đồng lương. Chỉ tiêu này phản ánh
mức doanh thu đạt được trên một đồng chi phí tiền lương. Chỉ tiêu này càng
lớn thì hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
1.3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
1.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
* Vòng quay toàn bộ vốn
Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được
bao nhiêu vòng. Công thức xác định như sau:
Vòng quay vốn
Doanh thu thuần
Vốn kinh doanh bình quân
kinh doanh
Thông qua chỉ tiêu này, chúng ta có thể biết được một đồng vốn đưa vào
=
kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Từ đó, đánh giá được khả
năng sử dụng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nhìn chung nếu vòng quay toàn
bộ vốn lớn thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp cao và ngược
lại.
* Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (ROAE)
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản hay vốn kinh doanh
không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của
vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Tỷ suất sinh lời
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Tài sản hay vốn kinh doanh bình quân
kinh tế của tài sản
* Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (ROA)
=
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bỏ ra sử dụng trong kỳ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Công thức xác định:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân
20
1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả từng phần vốn
Tùy theo các tiêu thức khác nhau mà vốn kinh doanh của doanh nghiệp có
thể được chia làm các loại khác nhau. Xét theo tính chất luân chuyển chúng ta
có vốn lưu động và vốn cố định, theo tiêu chí thời gian chúng ta có vốn ngắn
hạn và vốn dài hạn, theo chủ thể có vốn vay và vốn chủ sở hữu.
Chúng ta sẽ đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trên góc độ đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, hiệu quả
sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn lưu động
- Vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là số lần hàng tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho được xác định theo công thức:
Số vòng quay
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
hàng tồn kho
Thông thường, nếu số vòng quay hàng tồn kho cao hơn so với các
=
doanh nghiệp trong ngành cho thấy việc tổ chức và quản lý hàng tồn kho của
doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và
giảm lượng vốn bỏ vào hàng tồn kho.
Ngược lại, nếu số vòng quay hàng tồn kho thấp thì điều này chứng tỏ
hàng tồn kho chậm luân chuyển, vốn bị ứ đọng, sản phẩm chậm tiêu thụ nên
làm giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
- Số ngày 1 vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay một ngày hàng tồn kho được xác định theo công thức:
Số ngày một vòng quay
Số ngày trong kỳ (360 ngày)
Số vòng quay hàng tồn kho
hàng tồn kho
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày trung bình để thực hiện một vòng quay
=
hàng tồn kho. Nói cách khác, chỉ tiêu này cho biết số ngày hàng tồn kho nằm
trong kho. Nếu số ngày này càng ngắn thì chứng tỏ hàng tồn kho quay vòng
21
nhanh, doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi vốn, hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp được đánh giá là tốt và ngược lại.
- Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản
phải thu thành tiền mặt và được xác định theo công thức:
Vòng quay các
Doanh thu bán hàng trong kỳ
Số dư bình quân các khoản phải thu
khoản phải thu
Số dư bình quân các khoản phải thu được tính bằng phương pháp bình
=
quân số học khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán.
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn cho thấy tốc độ thu hồi các
khoản phải thu nhanh. Do đó, doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều tài sản
lưu động cho các khoản phải thu hay các khoản mà doanh nghiệp bị khách
hàng chiếm dụng ít. Ngược lại, vòng quay các khoản phải thu càng nhỏ chứng
tỏ một phần vốn của doanh nghiệp đã bị khách hàng chiếm dụng.
- Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền bình quân là chỉ tiêu phản ánh số ngày cần thiết để thu được
các khoản phải thu. Số ngày này chính là các khoảng thời gian kể từ khi
doanh nghiệp xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền bán hàng và được xác
định theo công thức:
Kỳ thu tiền
Số dư bình quân các khoản phải thu
=
Doanh thu bán hàng bình quân 1 ngày
trung bình
Kỳ thu tiền bình quân của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chính
sách tín dụng thương mại cũng như mục tiêu mở rộng thị trường của doanh
nghiệp. Do vậy, khi xem xét chỉ tiêu này cần đặt trong mối liên hệ với sự tăng
trưởng doanh thu của doanh nghiệp. Nếu việc chấp nhận thời gian bán chịu dài
hơn cho khách hàng làm tăng doanh số bán ra, tăng doanh thu và từ đó gia tăng
lợi nhuận, chứng tỏ chính sách bán chịu của doanh nghiệp là hợp lý và có hiệu
quả. Ngược lại, nếu chính sách bán chịu không làm tăng doanh số bán ra, không
22
tăng được doanh thu thì đó là biểu hiện xấu và rủi ro thanh khoản sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, doanh nghiệp không nên để kỳ thu tiền bình quân quá dài so với
các doanh nghiệp khác trong ngành vì trong điều kiện hiện nay dễ dẫn tới nợ
khó đòi gây mất vốn. Vì thế, thực hiện chính sách bán hàng linh động cũng là
nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động hay số vòng
quay của vốn lưu động thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm).
Công thức xác định như sau:
Vòng quay vốn
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
lưu động
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn lưu động đầu tư trong kỳ sẽ tạo ra
=
bao nhiêu đồng doanh thu. Như vậy, nếu trong kỳ, vốn lưu động quay vòng
nhanh tức bình quân một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo ra càng nhiều
doanh thu, điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp là cao.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn cố định
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng
vốn cố định của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Hiệu suất sử dụng
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân
vốn cố định
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham gia vào quá trình
=
sản xuất kinh doanh thì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu
này càng cao cho thấy vốn cố định của doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả,
tham gia vào nhiều kỳ luân chuyển. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp cho thấy
23
doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, chưa khai thác thành
công các tài sản cố định của mình.
- Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định
Tỷ lệ doanh lợi
Lợi nhuận sau thuế
Vốn cố định bình quân
trên vốn cố định
Chỉ tiêu này phản ánh, bình quân một đồng vốn cố định trong kỳ góp
=
phần tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy
khả năng sinh lời của vốn cố định càng cao hay hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp càng cao.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
Đối với chủ sở hữu, các nhà đầu tư thì chỉ tiêu này có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng vì nó gắn liền với lợi ích kinh tế của họ. Nó là cơ sở đánh giá kết
quả kinh doanh trong một thời kỳ nhất định và là căn cứ để các nhà đầu tư,
nhà quản lý đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai.
- Vòng quay vốn chủ sở hữu
Vòng quay vốn
Doanh thu thuần
Vốn chủ sở hữu bình quân
chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa doanh thu thuần và vốn chủ sở
=
hữu bình quân của doanh nghiệp. Nó cho thấy, mỗi đồng vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp bình quân góp phần tạo ra bao nhiều đồng doanh thu thuần.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho các
chủ doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh
giá mức độ thực hiện mục tiêu này. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn
chủ sở hữu thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Công thức xác định:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
24
Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp thì chỉ tiêu này được coi là chỉ tiêu
quan trọng bậc nhất. Và mục tiêu của các nhà quản trị doanh nghiệp luôn cố gắng
nâng cao nó. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn chủ sở hữu càng cao thì doanh
nghiệp càng nâng cao được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Như chúng ta đã biết, kết quả đạt được và chi phí bỏ ra của một doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu
tố. Tùy theo mỗi tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia các nhân tố này
thành các loại khác nhau. Thông thường chúng ta có thể chia các nhóm nhân
tố như sau:
1.4.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
1.4.1.1. Điều kiện tự nhiên
Có thể nói, môi trường tự nhiên, sinh thái có tác động rất lớn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ảnh hưởng này cực kỳ lớn lao đối
với các ngành nghề như xây dựng, du lịch, khai khoáng,… Môi trường tự nhiên
thuận lợi sẽ là một lợi thế rất lớn trong kinh doanh. Mặt khác, môi trường tự
nhiên không thuận lợi sẽ gây khó khăn tới doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đối với ngành xây dựng là một ngành chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi môi trường tự nhiên. Bất kỳ một yếu tố nào từ thay đổi về
thời tiết, nắng, mưa, gió,… đều ảnh hưởng tới thời gian, chất lượng của công
trình từ đó làm thay đổi hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1.2. Nhân tố môi trường quốc tế và khu vực
Các xu hướng chính trị trên thế giới, các chính sách bảo hộ, đầu tư trên
thế giới, tình hình chiến tranh, sự mất ổn định về mặt chính trị, tình hình phát
triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới,… ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp tới hoạt động mở rộng thị trường cũng như việc lựa chọn các
25
yếu tố đầu vào, lựa chọn nhà đầu tư, vốn đầu tư của doanh nghiệp. Chính vì
thế nó tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi
trường kinh tế, chính trị trong khu vực và quốc tế ổn định là cơ sở để các
doanh nghiệp trong khu vực tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thuận
lợi, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện nền
kinh tế khu vực và thế giới gặp khủng hoảng, chính trị tại quốc gia lân cận
mất ổn định dẫn tới suy giảm dòng vốn đầu tư vào thị trường, giảm khả năng
tiếp cận các yếu tố đầu vào, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngược
lại, nếu kinh tế khu vực và thế giới ổn định, tăng trưởng cao dẫn tới thị trường
hàng hóa tiền tệ lưu thông tốt, cơ hội mở rộng thị phần và tiếp cận vốn đầu tư
dồi dào là cơ hội cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Toàn cầu hóa ngày càng trở thành xu hướng của thế giới hiện đại. Các
quốc gia dù muốn hay không đều phải tham gia ngày càng nhiều vào việc hội
nhập quốc tế. Trong những năm qua, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng
vào môi trường quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế mang lại cho các doanh
nghiệp những thuận lợi tuy nhiên cũng không ít thách thức. Theo lộ trình gia
nhập WTO cũng như các tổ chức, hiệp hội mang tính chất quốc tế, Việt Nam
phải từng bước giảm hàng rào thuế quan, mở cửa thị trường trong nước từng
bước cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài với tiềm lực tài chính hùng
mạnh và kinh nghiệm lâu đời. Đồng thời các doanh nghiệp trong nước cũng
có những cơ hội tiếp cận những công nghệ hiện đại, nguồn vốn nước ngoài và
mở rộng thị phần quốc tế. Nhìn chung, câu chuyện hội nhập là câu chuyện ra
khơi, chấp nhận đương đầu với sóng to để có cơ hội bắt cá lớn.
Ngoài ra, việc phát triển khoa học kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên thế giới vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm. Đối với lĩnh vực xây dựng, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản