1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp.
Giai cấp công nhân Việt Nam đang cùng cả dân tộc đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhờ thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta đang đứng
trước những vận hội to lớn hơn bao giờ hết. Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu
và tiên phong của dân tộc, giai cấp công nhân có vinh dự và trách nhiệm nặng
nề là nhân lên vận hội mới của dân tộc bằng đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ phát
triển nền công nghiệp với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, nhằm
đáp ứng, thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là
đứng vững và đi lên trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh quyết liệt của thị
trường thế giới làm cơ sở cho tự chủ về kinh tế.
Chính vì vậy, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách của Đảng và Nhà nước, của toàn thể xã hội.
Qua 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có từng bước chuyển biến quan
trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng ngày càng nâng
lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức, lao động
có tay nghề, đời sống công nhân từng bước được nâng lên, ngày càng phát
2
huy được vai trò lãnh đạo của mình thông qua đội tiên phong là Đảng cộng
sản Việt Nam.
Mặt khác, giai cấp công nhân vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá và những câu hỏi luôn được đặt ra đó là: Tại sao
sau bao nhiêu năm công nghiệp hoá mà công nhân của ta còn nhiều hạn chế
về chất lượng và số lượng như vậy? Tại sao khi làn sóng đầu tư nước ngoài ồ
ạt vào Việt Nam thì vấn đề nổi lên là thiếu nhân lực trầm trọng? Tại sao giai
cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản, lãnh đạo xã hội phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà những hệ giá trị của giai cấp công nhân về căn
bản lại gặp nhiều trở ngại đến vậy ? Giai cấp công nhân còn nhiều hạn chế
trong việc nhận thức và phát huy vai trò nòng cốt liên minh công –nông- trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hầu như giai cấp công nhân hiện nay trong việc giác ngộ ý thức về giai
cấp về bản lĩnh chính trị không còn được coi trọng và phát huy, họ bận rộn
với vòng xoáy của cơ chế thị trường, của công nghiệp hoá, giai cấp công nhân
hiện nay đang phải vật lộn với cơm, áo, gạo, tiền…, họ không còn thời gian
để quan tâm đến những biến động xã hội, đến những vấn đề chính trị hàng
ngày đang biến đổi, ngay cả hiểu biết về chính sách pháp luật liên quan đến
chính quyền lợi của họ cũng còn nhiều hạn chế.
Tưởng chừng chỉ có giai cấp công nhân ở giai đoạn trước mới bị bóc
lột sức lao động nặng nề, nhưng một thực tế đang diễn ra trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay là đại bộ phận giai cấp công nhân làm trong
các nhà máy xí nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc
các công ty nước ngoài vẫn bị bóc lột sức lao động nặng nề (thậm chí là hành
hạ, nhục mạ công nhân nếu họ phạm lỗi), trong khi đó đồng lương họ hưởng
không tương xứng với sức lực họ bỏ ra.
3
Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng chúng ta thấy
hiện nay tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ giai cấp công nhân
còn thấp. Một bộ phận giai cấp công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng
và hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng một trong những
nguyên nhân nổi bật nhất đó là chưa quan tâm thoả đáng đến việc xây dựng
và phát huy giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta sẽ tiếp tục
tạo ra những chuyển biến lớn trong cơ cấu giai cấp, mà điển hình sẽ là xu thế
nhiều bộ phận của giai cấp và tầng lớp khác nhau sẽ gia nhập vào giai cấp
công nhân, bởi đất nước đang phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chính vì lẽ đó, phát triển
giai cấp công nhân về chất lượng, số lượng cần được coi là mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa. Không có sự phát
triển, hoàn thiện của giai cấp công nhân Việt Nam, thì không thể có thành
công trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là cần phải có những khảo sát cụ thể
về giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Để từ đó, thấy được
những ưu điểm và nhược điểm của công nhân Việt Nam trước những điều
kiện mới của hoàn cảnh lịch sử; thấy được sự lớn mạnh của giai cấp công
nhân cả về chất và lượng, qua đó chỉ ra thế mạnh cần phát huy và những tồn
tại cần khắc phục của giai cấp này, sao cho phù hợp với yêu cầu của nền sản
xuất mới. Tạo ra điều kiện vững chắc cho giai cấp công nhân Việt Nam vượt
qua được những thách thức của thời đại, vươn lên làm chủ nền công nghiệp
hiện đại và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
4
“Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1996- 2010” là một
đề tài mang ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, giai cấp công nhân là vấn đề lý
luận ngày càng thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
dưới nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là sự soi xét của lý luận vào thực tiễn
với xu hướng phát triển mới của công nhân. Kết quả là sự ra đời của nhiều các
công trình khoa học đã trình bày một cách cơ bản, hệ thống quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về giai cấp công
nhân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự thống nhất biện chứng giữa hai yếu
tố này; thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam hoặc trên địa bàn một số
tỉnh cụ thể trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trên cơ sở
đó đưa ra mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng giai cấp công
nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó
có những công trình khoa học, tác phẩm đã được công bố và xuất bản:
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, lần thứ
VII, VIII, IX, X, đã liên tiếp khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam thông qua chính Đảng của nó. Đồng thời xác định những mục
tiêu cơ bản để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh.
Đặc biệt là Nghị quyết số 20- NQ/TW ngày 28/01/2008- Hội nghị lần thứ sáu
Ban chấp hành Trung ương khoá X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Đồng chí Lê Duẩn, trong cuốn “Giai cấp công nhân Việt Nam và Liên
minh công nông”, Nxb Sự thật, 1976, cũng một lần nữa nhấn mạnh vị trí, vai
trò của giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng nhất trong khối liên minh.
5
Trần Văn Giàu ‘Giai cấp công nhân Việt Nam. Sự hình thành và phát
triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình”, Nxb Sự thật,
H.1974, đã khái quát sự ra đời của giai cấp công nhân và các phong trào đấu
tranh từ tự phát đến đấu tranh tự giác.
PTS. Bùi Đình Bôn, “Giai cấp công nhân Việt Nam, mấy vấn đề lí luận
và thực tiễn”, Nxb Lao động, 1997. Tác giả đã phân tích, rút ra những vấn đề
có tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển giai cấp công nhân. Đặc
biệt tác giả nêu được những biện pháp cơ bản nhằm phát huy sứ mệnh lịch sử,
giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp công nhân đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đào Thanh Hải, “Đảng, Nhà nước đối với vai trò và vị trí của giai cấp
công nhân và Tổ chức công đoàn Việt Nam”, Nxb Lao động, 2005, chỉ rõ xây
dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân - tổ chức công đoàn việt nam và
quy định của nhà nước về địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn việt nam .
Vũ Huy Khôi, “Giai cấp công nhân Việt Nam với công tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ đổi mới”, bước đầu đưa ra một số suy nghĩ về công tác
xây dựng Đảng, về trách nhiệm của giai cấp công nhân trong công tác hệ
trọng này, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng
Đảng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Cù Thị Hậu, “Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là
giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam: tham luận tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2006. Tác giả chỉ rõ
những thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình hiện
nay như việc làm, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao,
điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng. Tiếp đó, bài
viết chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của giai cấp công nhân hiện nay. Tác giả
6
nêu kiến nghị về cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện xây dựng, phát
huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
“Giai cấp công nhân Việt Nam và Liên minh công nông”, Nxb Sự
Thật. Hà nội, 1976, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai
trò của giai cấp công nhân trong khối liên minh công- nông- trí.
PGS-TS. Đỗ Ngọc Ninh, TS Nguyễn Văn Giang, “Tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2008. Đã đề ra được những giải pháp
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng để Đảng có năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
PGS, TSKH Nguyễn Viết Vượng “Giai cấp công nhân và tổ chức công
đoàn Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia,
2010. Khái quát sự ra đời và phát triển của tổ chức công đoàn, đặc biệt là
những vấn đề lí luận và thực tiễn về vai trò của công đoàn Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
TS Nguyễn Văn Giang chủ biên “Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp
công nhân trong giai đoạn hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2009.
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn ba địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, tác
giả đã nêu bật thực trạng giai cấp công nhân ở ba địa bàn trên qua đó đề ra
một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây
dựng giai cấp công nhân hiện nay.
TS Nguyễn An Ninh “Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2008. Cuốn sách đã phân tích xu hướng công
nhân hoá trong thời kỳ đổi mới của đất nước, đồng thời cũng nêu ra những
giải pháp nhằm chủ động tích cực hướng xu hướng này phù hợp với mục tiêu
phát triển của đất nước.
7
PGS,TS Cao Văn Liên “Lịch sử Việt Nam”, Nxb Thanh niên, Hà nội
2009, đã đề cập đến giai cấp công nhân thời cận đại và thời kỳ đổi mới.
Đại học Quốc gia Hà nội- Trung tâm Đào tạo -Bồi dưỡng giảng viên lí
luận chính trị: “Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2010.
Nội dung cuốn sách đề cập đến những vấn đề lí luận và thực tiễn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phân tích thực trạng của giai cấp công nhân hiện nay, đưa
ra những quan điểm về xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới.
Nguyễn Thị Xuân “Kinh tế tri thức và vấn đề phát huy nguồn lực con
người Việt Nam cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí khoa học
xã hội số 6, năm 2005.
Văn Tạo,“Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam của Văn kiện
Đại hội X của Đảng”, Tạp chí cộng sản tháng 05/2006, khẳng định giai cấp công
nhân phần nào được tri thức hoá, công nhân không chỉ đơn thuần là làm thuê mà
đã phần nào được làm chủ; giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò tiên phong trong
lĩnh vực sản xuất, thông qua chính đảng của mình đã lãnh đạo thành công công
cuộc đổi mới.
Thạc sĩ Dương Thị Thanh Xuân “Giải pháp nâng cao ý thức chính trị cho
công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, tạp chí xây dựng
Đảng số 10/2005. Bài viết khẳng định giai cấp công nhân trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đang hình thành và không ngừng lớn mạnh, bài viết đặt ra
vấn đề cần quan tâm đến số lượng và chất lượng công nhân trong các doanh
nghiệp này vì họ là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay dưới góc độ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về quá trình Đảng lãnh
đạo xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
8
Vì vậy mà tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển giai
cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1996- 2010”. Làm luận văn thạc sĩ lịch sử, Chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Làm rõ phương pháp, cách thức tiến hành chủ trương xây dựng và phát
triển giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đánh giá những thành tựu, hạn chế và đề ra một số giải pháp chủ yếu tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Khẳng định cơ sở lí luận và thực tiễn khách quan yêu cầu xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
Nêu lên chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
của Đảng, cách thức và biện pháp tiến hành.
Thành tựu, hạn chế và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
trong thời kỳ 1996-2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: nghiên cứu đường lối chủ trương và quá trình tổ chức,
chỉ đạo thực hiện đường lối xây dựng và phát triển giai cấp công nhân của Đảng,
những thành công, hạn chế.
* Phạm vi nghiên cứu: Thời gian luận văn đề cập từ năm 1996 đến
năm 2010
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
9
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân
Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết
hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với các phương pháp lôgíc, tổng hợp, phân
tích, so sánh.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Chỉ ra được thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, qua đó thấy được những vấn đề cấp thiết cần tập trung giải
quyết để xây dựng một giai cấp công nhân vững mạnh.
Hệ thống được quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1996-2010.
Thấy được sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cả về chất và lượng
trong giai đoạn (1996- 2010)
Đưa ra các phương hướng, giải pháp cơ bản để phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào hoạt động nghiên cứu, phổ
biến các công trình, nhằm tăng cường công tác xây dựng giai cấp công nhân.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng ta về giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới.
Luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức cũng như thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ
công tác giảng dạy, nghiên cứu về giai cấp công nhân ở các trường Trung cấp,
Cao đẳng và Đại học.
10
Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện các
chủ trương chính sách trong quản lý, phát triển đội ngũ công nhân ở các địa
bàn nơi tập trung công nhân, làm tài liệu tham khảo cho những nhà lãnh đạo
các doanh nghiệp tìm giải pháp khắc phục những khó khăn về giai cấp công
nhân thuộc doanh nghiệp mình quản lí.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
chia thành 3 chương:
Chương 1: Chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh bàn về giai cấp
công nhân
Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển giai
cấp công nhân trong đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (19962010)
Chương 3: Kết quả và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với xây dựng giai cấp công nhân hiện nay
11
NỘI DUNG
Chương 1: CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH BÀN VỀ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Chủ nghĩa Mác –Lênin bàn về giai cấp công nhân
Một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và Ph.Ănghen là đã sớm
nhận thức được vai trò của giai cấp vô sản và biết tách giai cấp vô sản ra từ
khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và những xu hướng lịch
sử của nó. Từ đó, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chỉ ra
những hình thức và phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những
vấn đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được C.Mác,
Ph.Ănghen luận chứng một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm
và được V.I.Lênin tiếp tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Ngay
từ cuối năm 1844, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền
của Hê-ghen”, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản và những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ quan hệ bóc lột, Tư bản
chủ nghĩa, thiếp lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản” và bộ “Tư Bản” thí lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân đã được phát triển đến một mức độ nhất định. “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản” là một sự khái quát về lý luận phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân giữa thế kỷ thứ XIX. Bộ “Tư Bản” đã giải phẫu xã hội tư bản chủ
nghĩa vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp tục phát
triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp công nhân trong
việc tạo ra những giá trị vật chất, trong việc thủ tiêu phương thức sản xuất tư
12
bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới. Đến thời kỳ này, nhiều phạm trù, khái
niệm cơ bản nhất đã được xác lập và về sau nó sẽ được tiếp tục phát triển.
Đến năm 1845, khi bắt tay vào việc nghiên cứu giai cấp công nhân,
trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C. Mác đã đặt câu hỏi: “Vấn đề là ở
chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực sự là gì và phù hợp với sự tồn tại ấy
của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”[6, tr.56].
Trong các tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê
ghen”(1844), “Tình cảnh những người lao động ở Anh” (1844-1845), “
Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” (1847), “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” (1848)... C. Mác và Ph. Ănghen đã bàn và sử dụng nhiều từ đồng
nghĩa để biểu đạt khái niệm giai cấp công nhân: “giai cấp công nhân”, “giai
cấp vô sản”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai
cấp công nhân hiện đại”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân
công xưởng, nhà máy”, “giai cấp công nhân đại cơ khí” và trong những hoàn
cảnh cụ thể, các ông còn diễn đạt bởi các ngôn từ: “lao động làm thuê”, “giai
cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp
của những người hoàn toàn không có của”, “giai cấp công nhân làm thuê thế
kỷ XIX”... Tất cả những thuật ngữ trên dù hình thức biểu đạt có khác nhau
nhưng đều tựu chung một nghĩa, đó là chỉ giai cấp công nhân.
Nói tóm lại C. Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: giai cấp vô sản là giai cấp
những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân
nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống; các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, ngược lại
giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Nền công nghiệp lớn,
hiện đại đã tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội mà nếu không có nó thì
không thể thủ tiêu được chế độ người bóc lột người, chỉ có giai cấp công nhân
là con đẻ của đại công nghiệp là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại,
13
phát triển cùng với phát triển đại công nghiệp, là giai cấp có tầm nhìn xa trông
rộng, có hệ tư tưởng tiên tiến, có đội tiên phong là Đảng Cộng sản dẫn đường,
mới có khả năng hoàn thành công cuộc cách mạng vĩ đại, thủ tiêu chế độ
thống trị của giai cấp tư sản.
C.Mác và Ph. Ănghen đã khẳng định giai cấp công nhân có khả năng tổ
chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản nhằm
xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới và trong phạm vi từng quốc gia, từng dân tộc.
Theo hai ông, sứ mệnh tổ chức lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng
sản của giai cấp công nhân để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp,
giải phóng toàn thể nhân loại, không phải là ý muốn chủ quan, một sự áp đặt
khiên cưỡng mà là do những điều kiện khách quan từ địa vị kinh tế -xã hội
của giai cấp công nhân gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại,
mang tính chất xã hội hoá quy định.
V.I.Lênin, là người kế tiếp sự nghiệp của C.Mác. Trong điều kiện mới
Lênin đã phát triển lý luận Mác-xít về giai cấp công nhân như là “điều chủ
yếu của học thuyết Mác” [59, tr.1]. “Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh vì
một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của
phong trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động” [57,
tr.380]. Lênin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều
kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau: là người đào mồ chôn chủ
nghĩa tư bản và người sáng tạo ra xã hội mới; là người lãnh đạo phong trào
cách mạng giải phóng của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại; Lợi ích
giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên
14
chính vô sản. Trong những điều kiện nhất định, giai cấp công nhân có thể
tham gia lãnh đạo cách mạng tư sản, như là sự chuẩn bị tiền đề cho cách
mạng vô sản. Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Chủ
nghĩa Mác Lênin là điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự
nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”; Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là tất yếu
khách quan. Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin
với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Bên cạnh đó, khi phân biệt bản chất cách mạng của giai cấp công nhân
gắn vai trò, sứ mệnh mệnh lịch sử của nó với sự biến dạng bản chất ấy như sự
tha hoá, đánh mất mình của giai cấp vô sản trong tình trạng bị nô dịch bởi chủ
nghĩa tư bản, các nhà kinh điển đã sử dụng những thuật ngữ đối ngược nhau:
“giai cấp vô sản cách mạng” và tầng lớp “vô sản lưu manh”, những phần tử
cặn bã của xã hội tư sản. Đồng thời, cũng để phân biệt giai cấp công nhân
cách mạng với bộ phận công nhân đã khuất phục và trở thành công cụ của giai
cấp tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kìm hãm
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong trật tự của “chủ nghĩa công liên”
vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản
thao túng, các ông cần sử dụng thuật ngữ “công nhân quý tộc”. Vậy là, theo
các ông “ công nhân quí tộc” và tầng lớp ‘vô sản lưu manh” không còn là bộ
phận của giai cấp công nhân nữa mà hoặc đã trở thành bộ phận của giai cấp
tư sản hoặc là tầng lớp cặn bã của xã hội.
Tất cả những diễn đạt nêu trên về giai cấp công nhân của các nhà kinh
điển được đặt trong hoàn cảnh lịch sử từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX, trên cơ sở các ông đã đưa vào hai tiêu chí để phân định giai cấp công
nhân với các giai tầng xã hội khác:
15
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: giai cấp
công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và
xã hội hoá, quốc tế hoá cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công
nhân hiện đại vời người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công
trường thủ công. C. Mác viết: “Trong công trường thủ công và trong nghề
thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng
thì người công nhân phải phục tùng máy móc” [7, tr.605]. Đối với C. Mác và
Ph. Ănghen, giai cấp công nhân là tập đoàn người, bao gồm những người
công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát triển
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp: “Các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản
là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [7, tr.610 ]; “ công nhân
cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy...Công nhân
Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại...” [8, tr.11]. Là sản
phẩm của đại công nghiệp, nên giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng
sản xuất tiên tiến, hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, và, do
đó nó có những phẩm chất riêng mà không có giai tầng nào có được. Đó là:
tính tiên tiến, hiện đại; ý thức tổ chức kỷ luật cao, tác phong công nghiệp, tinh
thần khoa học và thái độ cách mạng triệt để; tinh thần quốc tế cao cả và trong
sáng...
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Giai cấp
công nhân là những người làm thuê thế kỷ XIX, do không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị
thặng dư. Và chính vì vậy mà giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng
với giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, tức giai cấp tư bản, mà lớn lên thì giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại, tức là giai cấp chỉ có thể kiếm được
16
việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản, cũng phát triển theo. Những công nhân ấy buộc phải tự bán mình để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như
bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường...” [7, tr.605 ].
Nói tóm lại, Giai cấp công nhân trong điều kiện mới là giai cấp thống
trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách
thống trị của chủ nghĩa tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong
cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Các nhà kinh điển đã chỉ rõ:
chỉ có một giai cấp nhất định– chính là giai cấp công nhân thành thị, công
nhân nhà máy, công nhân công nghiệp- mới có khả năng lãnh đạo được toàn
thể quần chúng lao động và những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để
lật đổ ách tư bản, trong cuộc đấu tranh sáng tạo ra xã hội mới, chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Ngoài ra, qua tổng kết thực tiễn các phong trào công nhân ở châu Âu
cuối thế kỷ XIX, các ông đã chỉ ra nguyên nhân thất bại của nhiều cuộc đấu
tranh của công nhân, đó là vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn đồng
minh tự nhiên” của mình là nông dân. Chính lẽ đó Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ
ra: liên minh công- nông-trí là một tất yếu khách quan nhằm tạo ra một sức
mạnh to lớn, nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách
mạng. Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của
liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao
động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản,
tiểu chủ, nông dân, trí thức…” [58, tr.452].
Tóm lại, những luận điểm về giai cấp công nhân của C.Mác,
Ph.Ănghen, V.I.Lênin như trên phân tích đã đưa ra năm điểm chính về giai
cấp công nhân:
17
Một là, khái niệm về giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là
những người (tập đoàn người) làm thuê, do không có tư liệu sản xuất buộc
phải bán sức lao động, làm thuê cho các nhà tư bản và bị các nhà tư bản bóc
lột giá trị thặng dư.
Là sản phẩm của nền đại công nghiệp, nên giai cấp công nhân là hiện
thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, có phẩm chất mà không giai tầng nào có
được.
Hai là, chỉ ra vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong các phong trào
đấu tranh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và trong việc tạo ra những giá trị
vật chất, thủ tiêu phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội
mới.( đây chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân)
Ba là, Giai cấp công nhân có tầm nhìn xa trông rộng, có hệ tư tưởng
tiên tiến, tác phong kỷ luật cao, có đội tiên phong là Đảng Cộng sản dẫn
đường, thông qua đội tiên phong lãnh đạo các phong trào đấu tranh đi đến
thắng lợi.
Bốn là, nêu lên phương thức, cách thức lao động sản xuất của công
nhân và vị trí của công nhân trong mối quan hệ với tư sản.
Năm là, qua thực tiễn các phong trào đấu tranh các ông chỉ ra cần phải
liên minh với giai cấp nông dân, trí thức, tạo ra sức mạnh tổng hợp đáp ứng
được yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
Những quan điểm của C.Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lênin về giai cấp công
nhân và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, về những điều
kiện khách quan và chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình là những chỉ dẫn có giá trị bền vững không thể tách
rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản- đội tiền phong chiến đấu, có tổ chức
và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân gắn liền với sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
18
1.2. Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam bàn về công nhân
Xuất phát từ lòng yêu nước và ước muốn giải phóng cho đồng bào
mình khỏi áp bức, bất công, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm con đường cứu nước.
Trên hành trình vĩ đại ấy, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, nhận rõ
vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân thế giới nói chung và công nhân Việt
Nam nói riêng. Người chỉ ra khái niệm giai cấp công nhân trong hoàn cảnh
lịch sử thế kỷ XX như sau: “ Tất cả những người không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công
nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kể họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai
cấp công nhân. Chủ chốt của giai cấp ấy là những công nhân ở các xí nghiệp
như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa…Những công nhân thủ công nghệ, những
người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông… cũng thuộc về giai cấp công
nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho đặc tính của
giai cấp công nhân” [36, tr.211-212].
Nghiên cứu và kế tục chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân, Hồ
Chí Minh sớm nhận rõ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Trong quá trình
hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhận rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là giai cấp duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo công cuộc giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng loài người thoát khỏi ách thống trị của
chủ nghĩa đế quốc. Người khẳng định: “chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp
dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn thực
dân, với lí luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào cộng
sản quốc tế, giai cấp công nhân đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng và đáng
tin cậy của nhân dân Việt Nam” [38, tr.9].
Từ đó, Hồ Chí Minh ra sức chuẩn bị thành lập đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Người đã sáng lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội vào tháng 6 năm 1925, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
19
vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam, dẫn đến sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Trong cuốn Đường cách
mệnh và trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, quan
điểm của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân được khẳng định: giai cấp công
nhân là gốc cách mạng, là lực lượng, là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam, là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam,
lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho các hoạt
động của Đảng; Giai cấp công nhân cần phải đoàn kết với giai cấp nông dân
và các thành phần dân tộc khác để đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện dân
chủ và đi tới xã hội cộng sản; Giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ
mật thiết với giai cấp công nhân quốc tế. Đặc tính của giai cấp công nhân
là: “…kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp
tiên tiến nhất trong lực lượng sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư
bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm
nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác- Lênin. Đồng thời
tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy,
về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ
vai trò lãnh đạo.” [36, tr.212]
Người nhấn mạnh củng cố và phát triển Đảng đồng thời phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong những năm đấu tranh giành và giữ
vững chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng giai
cấp công nhân Việt Nam. Người nhắc nhở đảng viên phải tích cực hoạt động
phong trào công nhân, tăng cường kết nạp công nhân vào Đảng. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Phải tăng cường khối liên minh công nông, nòng cốt của lực lượng
cách mạng “Liên minh công nông là nền tảng của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà…giai cấp công nhân đoàn kết với những người thợ thủ công và
những người buôn bán nhỏ…giai cấp công nhân đoàn kết chặt chẽ với giới trí
20
thức để giúp họ phục vụ cách mạng, phục vụ chủ nghĩa xã hội… Nước ta là
một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc” [37, tr.586]. Đồng thời Người nhấn
phát triển các tổ chức công hội, nông hội bởi công hội là một tổ chức cách
mạng của quần chúng công nhân, song không nên đặt những tiêu chuẩn cao
như kết nạp đảng viên, khi làm công tác phát triển hội, cốt sao đưa được nhiều
công nhân vào hội. Người chỉ rõ: không chỉ tăng cường giáo dục giác ngộ
công nhân mỏ và các ngành kinh tế quan trọng mà phải chú ý cả đến công
nhân thất nghiệp, thợ thủ công và công nhân nông nghiệp. Công hội phải
được tổ chức thành hệ thống. Công nhân phải liên hệ với nông dân, Hội công
nhân phải ủng hộ các cuộc đấu tranh của nông dân, Công hội phải tham gia
Hội phản đế đồng minh để phát huy vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc.
Tư tưởng này được đi vào thực tiễn và thể hiện hết sức sinh động trong
quá trình xây dựng lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay
công- nông trong cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong suốt cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến vấn đề giáo dục ý thức lao động, ý
thức làm chủ nước nhà của công nhân và nhân dân lao động. Từ khi miền
Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
giành thời gian đi thăm và nói chuyện với công nhân nhiều nhà máy, xí
nghiệp, công trường. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở công nhân nêu cao ý thức
làm chủ nước nhà, thi đua phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Người thường nhấn mạnh: Lao động là tiêu chuẩn đánh giá trình độ giác ngộ
của người công nhân, đánh giá ý thức làm chủ nước nhà của người công nhân.
Lao động phải có năng suất cao. Muốn nâng cao năng suất lao động, trước hết
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, biết cách quản lý tốt, có quyết tâm vượt
khó khăn. Người phê bình thói lười lao động, làm không đụng xác, vác không
21
đụng vai, học chẳng ham, cày chẳng biết, nhưng lại muốn ăn ngon, mặc đẹp,
thích hưởng thụ hơn cống hiến.
Và Người đặc biệt nhấn mạnh xây dựng đạo đức cách mạng trong cán
bộ đảng viên và trong nhân dân, trong đó có công nhân lao động. Trong
những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh và
Đảng ta rất coi trọng phát triển công nghiệp quốc doanh, cải tạo và phát triển
thủ công nghiệp nhằm đưa công nhân lên làm chủ sản xuất, làm chủ nhà máy,
xí nghiệp, tăng cường xây dựng giai cấp công nhân về số lượng cũng như về
chất lượng. Người nói: “Các chú phải nhớ công nhân trẻ tốt lắm. Họ nghe
theo Đảng, Công đoàn và Đoàn Thanh niên. Nhưng chúng ta phải tôn trọng
họ, tin tưởng họ, thông qua những việc làm cụ thể mà giáo dục họ, bồi dưỡng
cho họ về phẩm chất, đạo đức cách mạng… bồi dưỡng văn hoá, khoa học kỹ
thuật và kiến thức quản lý xí nghiệp cho họ,…Làm cho họ vừa “hồng” vừa
“chuyên” đó là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài nữa.” [39, tr.570] Hay khi căn
dặn cán bộ lãnh đạo, Người nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa, những người hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp
cách mạng của Đảng, lao động quên mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, lao động kỷ luật, có kỹ thuật, có sáng tạo, đạt năng suất cao, có ý
thức bảo vệ chế độ mới, xây dựng ý thức mình vì mọi người, mọi người vì
mình, chống tư tưởng tư sản, chống chủ nghĩa cá nhân: “Ngày nay Nhà nước
của ta là nhà nước dân chủ, cho nên giai cấp công nhân vừa là chủ vừa là giai
cấp lãnh đạo” [38, tr.298], “…phải làm thế nào xứng đáng là lãnh đạo, để
người ta tin cậy. Nếu ta sản xuất xấu, chẳng những mất công, tốn nguyên liệu
mà lại mất cả uy tín nữa. Do đó, cần phải làm tốt.” [38, tr.459]
Để xây dựng giai cấp công nhân ngày càng tiến bộ, Hồ Chí Minh rất
chú ý đến xây dựng tổ chức Công đoàn. Người coi Công đoàn là nơi tập trung
đoàn kết giáo dục, giác ngộ đội ngũ công nhân lao động. Những bài nói
22
chuyện của Người khi đi thăm các cơ sở sản xuất công nghiệp, khi huấn thị
cho cán bộ Công đoàn, những lần về thăm Trường Cao cấp Công đoàn Việt
Nam (nay là Đại học Công đoàn Việt nam) (1957, 1959, 1962) làm việc với
Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam (tháng 7/1969), Người đều nhấn
mạnh: Công đoàn phải tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và giáo
dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng, giáo dục công dân
hiểu thái độ của người làm chủ nước nhà, vận động quần chúng lao động
tham gia xây dựng nền kinh tế quốc dân, tổ chức cho công nhân thi đua lao
động sản xuất, Công đoàn chăm lo đến việc cải thiện dần đời sống nhân dân,
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho công nhân lao động.
Hồ Chí Minh còn nêu rõ tiêu chuẩn, nhiệm vụ của người cán bộ Công
đoàn trong đó nhấn mạnh đến vấn đề hiểu biết sản xuất, nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng của công nhân, phải giỏi về chính trị, thạo về kinh tế, gần gũi
quần chúng, học tập kinh nghiệm của quần chúng để phát huy sức mạnh sáng
tạo của quần chúng công nhân. Cán bộ Công đoàn phải là trung tâm đoàn kết,
phải có trách nhiệm cao vì lợi ích giai cấp, lợi ích cách mạng, phải nêu gương
cho công nhân nói theo.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục, bồi dưỡng thế hệ công
nhân trẻ, nâng cao trình độ về mọi mặt cho công nhân theo tinh thần “trí
thức hoá công nhân”. Người đặc biệt quan tâm đến đến đội ngũ công nhân trẻ
có trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, có lập trường giai cấp và bản
lĩnh chính trị. Với tầm nhìn xa trông rộng về sự phát triển khoa học kỹ thuật,
về hiện đại hoá, Hồ Chí Minh khuyên giai cấp công nhân cần cù, khiêm tốn
học tập để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Người chỉ
ra rằng “dốt mới xấu, không biết mà đi học không xấu”.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
chỉ rõ: Giai cấp ông nhân Việt Nam thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
23
tưởng Hồ Chí Minh, thông qua Đảng tiền phong của mình thực hiện sứ mệnh
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; là
hạt nhân liên minh công –nông- trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc ở nước
ta và “…chỉ có giai cấp công nhân mới có thể là giai cấp tiên phong, giai cấp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam”.
Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề xây dựng giai cấp
công nhân, luôn cho rằng: xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên xác định 6 đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời xác định 7
phương hướng cần thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đã
xác định công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại và từng bước xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội .Trong đó, nhấn mạnh “Phát triển giai cấp công nhân về số
lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt là coi trọng một đội ngũ công nhân lành
nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lí giỏi và các nhà khoa
học, kỹ thuật có trình độ cao”. [18, tr.141]
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính vì vậy mà phải tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng, bằng cách: Kiên định mục
tiêu độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội; kiên định và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung,
dân chủ; thường xuyên giáo dục bồi dưỡng, quan điểm, ý thức tổ chức của
công nhân; tăng cường khối đoàn kết toàn dân.
24
Để phát huy vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta chủ trương xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác
ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng
và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức kỷ
luật lao động, xây dựng khối liên minh công nông- trí và tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, có bước tiến trong
nhận thức về lí luận giai cấp công nhân trong đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện
đại hoá, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới “Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp, xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính
chất, vị trí của giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến
đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã
hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu
dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc”. [14, tr.85]
Đảng ta đặc biệt quan tâm củng cố khối liên minh công-nông- trí,
coi đó là cơ sở, nền tảng của động lực phát triển đất nước: “Động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội” [14, tr.86].
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chú trọng đến
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển nền kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đối với
25
giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng, tổ chức; nâng cao giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [15, tr.87]. Đặc
biệt, tháng1 năm 2008, Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoá X), đã ra Nghị quyết chuyên đề về “ Tiếp
tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”. Kế thừa quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và
phát triển quan điểm về giai cấp công nhân ở các kỳ Đại hội trước, Nghị
quyết đã đưa ra một quan niệm mới về giai cấp công nhân: “Giai cấp công
nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh
doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [14, tr.130]. Và 1 lần nữa khẳng
định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản” [15, tr.27].
Những quan điểm nêu trên thể hiện sự kiên định của Đảng ta với
chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, về vị trí,vai trò của công nhân trong bất kỳ giai đoạn cách
mạng nào và đặc biệt trong thời kỳ đại mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Xây dựng giai cấp công nhân nước ta vững mạnh là nhiệm vụ
quan trọng cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi
người công nhân và toàn dân tộc.