Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

thạc sĩ triết học PHÁT HUY NGUỒN lực CON NGƯỜI ở TỈNH KONTUM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.16 KB, 97 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HOÀI THU

PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở
TỈNH KONTUM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 60. 22. 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HÒA

Huế, 2010


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ HOÀI THU




3

Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo
PGS.TS. Nguyễn Văn Hoà đã tận tình giúp đỡ
em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp này.
Đồng thời em cũng xin chân thành cảm
ơn các thầy, cô giáo trong khoa Lý luận
chính trị Trường Đại học khoa học Huế và
bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình thực
hiện luận văn cũng như trong suốt thời gian
hai năm học qua.
Học viên
Nguyễn Thị Hoài Thu


4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐ-ĐH

:

Cao đẳng - Đại học

ĐH

:


Đại học

TCCN

:

Trung cấp chuyên nghiệp

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông


5

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU..........................................................................................................6
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài......................................................................8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................11
6. Đóng góp của luận văn...........................................................................12
7. Kết cấu của luận văn...............................................................................12
NỘI DUNG.....................................................................................................13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI.........................................................................13
1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về con người............................13
1.1.1. Quan niệm về bản chất con người................................................13
1.1.2.Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử .......................................23
1.2. Quan niệm về nguồn lực, nguồn lực con người...................................27
1.2.1. Quan niệm về nguồn lực...............................................................27
1.2.2. Quan niệm về nguồn lực con người..............................................30
1.3. Vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
....................................................................................................................43
1.3.1. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu phát
huy nguồn lực con người........................................................................43
1.3.2. Vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.........................................................................................47
1.3.3. Vai trò của nguồn lực con người trong mối quan hệ với các nguồn
lực khác...................................................................................................49
1.3.4. Vai trò nguồn lực con người ngày càng tăng cùng với sự phát triển

kinh tế - xã hội........................................................................................52
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH KON TUM HIỆN NAY...................55


6
2.1. Thực trạng nguồn lực con người ở tỉnh Kon Tum hiện nay................55
2.1.1. Về số lượng nguồn lực con người................................................55
2.1.2. Chất lượng nguồn lực con người..................................................59
2.1.3. Về cơ cấu nguồn lực con người....................................................64
2.2. Khả năng sử dụng và huy động nguồn lực con người đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum hiện nay..........................................69
2.3. Định hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Kon
Tum.............................................................................................................76
2.3.1. Định hướng...................................................................................76
2.3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn lực con người ở Kon
Tum hiện nay..........................................................................................79
KẾT LUẬN....................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................95

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản, quyết định của lực lượng
sản xuất và của quá trình phát triển phát triển kinh tế xã hội. Khác với các nguồn
lực khác, nguồn lực con người là nguồn lực đặc biệt của quá trình sản xuất; trong
quá trình sản xuất các nguồn lực khác không có khả năng sáng tạo và tái sinh; trái
lại, nguồn lực con người nếu được đào tạo, bồi dưỡng phát huy một cách hợp lý thì
khả năng sáng tạo và tái sinh là vô tận. Khả năng sáng tạo và tái sinh của nguồn lực



7
con người là nguồn cội của mọi sự phát triển của xã hội.
Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận: nguồn lực con
người là lâu bền nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp tiến bộ của
nhân loại. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang trang mới với
những thành tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội, đặc biệt là trên lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, trong đó nhân tố đóng
vai trò quyết định dẫn đến sự ra đời của kinh tế tri thức, chính là nguồn lực con
người. Trước đây các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, vốn được
coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu tiên. Chính nguồn
lực con người mới được xem là nguồn lực quan trọng nhất. Vì vậy, để có được tốc
độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta là một quá trình biến đổi có tính chất lịch sử trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề mấu chốt để thực hiện sự biến đổi
này chính là phát huy nguồn lực con người. Phát huy nguồn lực con người là nhiệm
vụ hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát huy nội lực
trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà
nước” [10, tr.179]. Nguồn lực con người là vốn quý nhất. Vì thế, phát huy nguồn lực
con người luôn chiếm vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Kon Tum là đô thị loại ba có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực Tây Nguyên nói riêng
và cả nước nói chung. Vì vậy, hơn bất cứ địa phương nào trong khu vực, đòi hỏi
tỉnh phải phát huy nguồn lực con người với đầy đủ các phẩm chất như có đức, có
tài, thông minh, sáng tạo, có tri thức, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh.

Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển trong 25 năm đổi mới, nhất là 10
năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Kon Tum đã đạt được những
thành tựu to lớn và hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Kon Tum khóa XIII trình đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã ghi


8
rõ: “Các nguồn lực đã được chú trọng khai thác, phát huy tương đối hiệu quả. Tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao; các vùng kinh tế động lực đang được
hình thành và bước đầu phát huy tác dụng; bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều
khởi sắc. Nông nghiệp phát triển khá. Công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch
vụ giữ được tốc độ khá cao. Chất lượng nguồn nhân lực và đời sống nhân dân có
chuyển biến tích cực hơn” [3, tr.15]. Một trong những nguyên nhân tạo nên những
thành tựu trên là phát huy nguồn lực con người trong việc phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, bước vào giai đoạn hiện nay, Kon
Tum đã xác định: “Khai thác và sử dụng các nguồn lực để xây dựng tỉnh Kon Tum
ổn định, cơ bản thoát nghèo vào năm 2015 [3, tr.20]. Trong việc khai thác và sử
dụng các nguồn lực thì trước hết cần phải quan tâm đến nguồn lực con người nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Do vậy, trong
giải pháp của Đảng bộ tỉnh Kon Tum đưa ra trong nhiệm kỳ 2011 - 2015 đó là:
“Tập trung phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đáp ứng mục
tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xem đây là giải pháp chiến lược lâu
dài, vừa mang tính bức xúc trước mắt của địa phương [3, tr.26].
Cho nên với việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn lực con
người để có những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về chất, phát triển
nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh Kon Tum trở thành một nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tác giả đã chọn đề tài: “Phát huy nguồn lực con người ở
Kon Tum hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, vị trí của
nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội; về xây dựng, phát triển,
huy động và sử dụng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hoá đất nước. Tùy theo góc độ và khía cạnh xem xét, những công trình này đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong số đó có một số công trình liên quan đến
đề tài về nguồn lực con người như sau:
“Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội” của GS.TS Phạm Minh Hạc chủ nhiệm trong đó có một số đề tài nhánh trực


9
tiếp nghiên cứu những biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người
như “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” của GS. TS,
Nguyễn Minh Đường chủ biên, Hà Nội 1996; hay “Gia đình, nhà trường và xã hội
với việc phát hiện tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài”
của GS. TS, Nguyễn Trọng Bảo chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1996; “Vấn đề
phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm
Minh Hạc (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996); “Xây dựng nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Đà Nẵng” của Vương Quốc Được
(Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999); “Sử
dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa ở nước ta” của
Trần Kim Hải (Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1999); “Phát triển nguồn lao động trí tuệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Lê Thị Kim Phương (Luận văn Thạc sỹ triết
học, Đại học quốc gia Hà Nội, 1999); “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học
ở Việt Nam” của Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002); “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
của GS, TSKH, Vũ Huy Chương chủ biên, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002);
“Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Hữu
Dũng (chủ biên), (Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2003); “Quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện chiến lược phát triển,
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); “Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai
vấn đề và giải pháp” của Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng, (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2005); “Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam”của TS. Đoàn Văn Khái, (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005); “Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn.
Thực trạng và giải pháp” của Chu Tiến Quang (chủ biên), (Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005); “Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu “của GS.TS
Phạm Xuân Nam chủ biên, (Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2005); “Nguồn lực và
động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” của GS. TSKH, Lê Du Phong chủ biên, (Nxb lý luận Chính trị, Hà Nội,
2005); “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của TS. Nguyễn Thanh chủ biên, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005);


10
“Thị trường lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của TS. Nguyễn Thị
Thơm chủ biên, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); “Nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông” của Đinh Khắc Đính, (Luận văn
Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007); “Huy động và sử
dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” của
PGS.TS, Võ Văn Đức (chủ biên), (Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009); “Triết học
Mác và thời đại” của PGS.TS, Phạm Văn Đức, PGS.TS, Đặng Hữu Toàn, TS.
Nguyễn Đình Hòa (đồng chủ biên), (Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2009).
Ngoài ra các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều bài viết đăng
trên các tạp chí đề cập đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội như: Trên
lĩnh vực triết học Hoàng Chí Bảo có bài “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát
huy nguồn lực con người “(Tạp chí triết học số1, tháng 3/1993); “Nguồn lực con
người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của
Đoàn Văn Khái (Tạp chí triết học, số 4, tháng 12/1995); “Con người - yếu tố quyết

định nhất của lực lượng sản xuất” của Phương Kỳ Sơn,(Tạp chí triết học số 3
tháng 6/1997); “Mấy suy nghĩ về vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Công Toàn (Tạp chí
triết học số 5, tháng 10/1998); “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng nguồn
lực con người” của TS. Phạm Văn Đức,(Tạp chí triết học số 6, tháng 10/1999);
“Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc phát triển nguồn lực
con người” của TS. Phạm Văn Đức, (Tạp chí triết học số 6, tháng 12/2000); “Vấn
đề phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế “của Hoàng Thái Triển,
(Tạp chí triết học, số 2, tháng 4/2001); “Xây dựng và phát triển con người, nâng
cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” của PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt, (Tạp chí triết học số 6, tháng 6/2008); “Nhận
thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người trong thời kỳ đổi mới”
của ThS. Hoàng Thanh Sơn, (Tạp chí triết học, số 7, tháng 7/2008); “Vai trò của
con người và vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay” của Nguyễn Thành Trung, (Tạp chí triết học, số 7, tháng 7/2008);
“Phát triển giáo dục và đào tạo - một động lực để phát triển kinh tế tri thức ở nước
ta hiện nay” của PGS.TS, Nguyễn Văn Hoà, (Tạp chí triết học, số 4 năm 2009);
“Một số rào cản đối với phát huy tính sáng tạo của con người Việt Nam trước yêu


11
cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS, của Nguyễn Văn Hoà (Tạp chí triết học,
số 2, năm 2010).
Nhìn một cách tổng quát, những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vai
trò của con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đề cập đến việc làm thế nào
để sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người Việt Nam nhằm thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, bàn đến vai trò của giáo dục và đào tạo đối với việc phát huy nguồn lực
con người, đưa ra các giải pháp để bồi dưỡng, đào tạo nguồn lực con người Việt
Nam nhằm đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoặc đưa ra các giải
pháp để khai thác và sử dụng nguồn lực con người một cách tốt nhất . Nhưng nhìn

chung chưa có một công trình nào đề cập một cách cụ thể đến vấn đề phát huy nguồn
lực con người ở Kon Tum hiện nay. Thế nhưng, trên cơ sở những thành tựu đó chính
là những chỉ dẫn, gợi ý hết sức quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài: dưới góc độ của triết học Mác - Lênin, luận văn phân
tích và đánh giá thực trạng nguồn lực con người ở Kon Tum; trên cơ sở đó đề xuất
các định hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực này trong việc đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài:
- Vạch rõ cơ sở lý luận về phát huy nguồn lực con người trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn lực con người và nêu lên các định
hướng, giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Kon Tum hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã quy định phạm vi, đối tượng nghiên cứu
của đề tài là: Đối tượng nghiên cứu là con người và phát huy nguồn lực con người ở
tỉnh Kon Tum nhằm đưa kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển nhanh và bền vững.
- Phạm vi nghiên cứu là tập trung làm rõ vấn đề phát huy nguồn lực con người
trong phạm vi tỉnh Kon Tum hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát
huy nguồn lực con người, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu: trừu tượng hóa khoa học,


12
điều tra khảo sát, thống kê, thu thập số liệu, tổng hợp, phân tích để rút ra các kết
luận cần thiết.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ thực trạng nguồn lực con người ở tỉnh Kon Tum, qua đó đề xuất

các định hướng và các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người để
đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương một cách bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc phát huy nguồn lực con người
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy nguồn lực con người
ở tỉnh Kon Tum hiện nay


13

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về con người
1.1.1. Quan niệm về bản chất con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của mọi trào lưu triết học. Các học thuyết
triết học, từ thời cổ đại cho đến nay, đã đặt ra và tìm cách lý giải bằng nhiều cách
khác nhau về những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của con người. Triết học Mác
là triết học xuất phát từ con người và vì con người, là học thuyết về sự giải phóng
con người, vì sự phát triển toàn diện con người.
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về những khía cạnh
bản chất của con người. Triết học duy tâm cổ đại giải thích nguồn gốc con người
một cách thần bí, cho con người là do lực lượng siêu nhiên sinh ra và điều khiển.
Xuất phát từ thế giới quan duy tâm thừa nhận bản nguyên của thế giới là”tinh
thần vũ trụ tối cao” Brahman, Upanshad cho rằng: Con người bao gồm thể xác và
linh hồn. Khi nhận thức được Brahman, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại
và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể xác và mọi khổ não

của đời sống trần tục. Linh hồn con người (Atman) chỉ là biểu hiện, là một bộ phận
của “tinh thần tối cao”. Thể xác chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh
hồn. Về bản chất, linh hồn con người là đồng nhất với “linh hồn tối cao”, cũng như
vạn vật trong vũ trụ chỉ là biểu hiện của Brahman.
Khổng Tử cho rằng: Con người là kết quả bẩm thụ tinh khí của âm dương trời
đất mà thành. Vì vậy con người phải tuân theo “thiên lý”, hợp với đạo trung hòa.
Con người sống hay chết, giàu hay nghèo, thành hay bại... đều do “thiên mệnh” quy
định. Tiếp theo Khổng Tử là Đổng Trọng Thư đã phát triển quan điểm duy tâm về
nguồn gốc con người, đã nhân cách hóa “trời” của Khổng Tử, mệnh trời của Khổng
Tử được Đổng Trọng Thư đẩy đến mặt cực đoan. Ông đưa ra quan niệm thiên nhân
cảm ứng. Ông cho rằng mọi hiện tượng tự nhiên - xã hội và trật tự của nó đều được
xuất phát và sắp đặt theo ý chí của trời. Hoạt động của con người dưới trần thế có


14
thể gây nên những “xúc cảm” ở trời, khiến trời có thể “ban ơn” hay “trừng phạt”.
Song song tồn tại với quan niệm của Nho giáo là quan niệm của Phật giáo. Họ
cho rằng con người là “tự kỉ nhân quả “mà thành chứ không do thượng đế hay
Brahman sinh ra. Con người chính là nguyên nhân của chính mình. Xét ở một khía
cạnh nào đó thì quan điểm trên rơi vào một vòng luẩn quẩn duy tâm thần bí. Bởi vì
quan niệm nhân - quả trong phật giáo dù có mượn được từ kết quả quan sát sự vật
khách quan thì cũng đã bị rút mất nội dung vật chất của quá trình đó, chỉ còn lại cái
thuần túy tinh thần và chuyển hóa thành thần bí.
Triết học duy vật mộc mạc cho con người là một bộ phận cấu thành của tồn
tại, của thế giới, là một bản nguyên vật chất xác định. Trong đó, triết học phương
Tây cổ đại giải thích bản nguyên ấy là nước, lửa, không khí..., là nguyên tử, còn
triết học phương Đông cổ đại thì cho rằng, con người do các yếu tố tự nhiên như
đất, nước, lửa, không khí... tạo thành và đưa ra quan điểm “thiên nhân hợp nhất”,
coi “con người là một tiểu vũ trụ”, tức là một bộ phận của tự nhiên, mang các tính
chất của tự nhiên và chịu sự chi phối của tự nhiên.

Bước sang giai đoạn mới triết học chính thống của của xã hội phong kiến Tây Âu
thời kỳ trung cổ là chủ nghĩa kinh viện, với đặc điểm chủ yếu của nó là phục tùng thần
học; theo chủ nghĩa tín ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học, với tri thức thực nghiệm
và với triết học tự do. Mục đích cao nhất của triết học kinh viện là đặt cơ sở lý luận
cho thế giới quan tôn giáo, do đó nó đã xuyên tạc bóp méo triết học tiến bộ thời cổ.
Đại biểu cho thời kỳ này là Ôguytanh cho rằng: Chúa trời là lực lượng siêu
nhiên sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Do vậy chúa định đoạt số phận của
con người. Chúa có quyền lực thần thánh có thể ban phước lành hoặc trừng phạt
con người theo ý chúa. Con người phải phục tùng tuyệt đối, trung thành và tin vô
điều kiện những điều do chúa đặt ra. Sang thời kỳ phục hưng, do yêu cầu phát triển
của xã hội, các nhà tư tưởng thời kỳ này đã đứng lên chống lại những tư tưởng của
giáo hội, bóc trần các học thuyết tôn giáo hoang đường, giải phóng tư tưởng loài
người khỏi xiềng xích trung cổ, dọn đường cho khoa học và giáo dục phát triển.
Trong triết học cổ điển Đức, quan điểm về con người đã phát triển mạnh mẽ cả
hai khuynh hướng duy tâm lẫn duy vật. Đối với Hêghen nhà triết học cổ điển Đức có
cống hiến vô cùng to lớn trong phép biện chứng, có ảnh hưởng rất lớn đối với triết
học Mác. Hêghen lấy “tinh thần thế giới” làm cơ sở để giải thích các vấn đề của tự


15
nhiên - xã hội. Theo ông con người cũng như các sự vật xung quanh ta đều là hiện
thân của “tinh thần tuyệt đối”, là kết quả của sự tha hóa “tinh thần tuyệt đối” mà có.
Thông qua quá trình tư duy logic, Hêghen lý giải các giai đoạn phát triển của “tinh
thần tuyệt đối”. Ông cho rằng nét nổi bật trong quá trình ấy là sự tác động giữa con
người với tự nhiên. Ở đây con người vừa là chủ thể đồng thời lại vừa là kết quả của
quá trình hoạt động của mình như trong quan niệm của Senlinh. Hêghen cho rằng:
Tư duy và trí tuệ của con người chỉ có thể hình thành và phát triển để đạt được đến
“tuyệt đối” trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới để biến tự nhiên từ cái đối
lập với con người trở thành cái của mình và đồng nhất với mình. Cũng vì vậy mà
hoạt động của con người được coi là phương thức để đạt được “tinh thần thế giới”.

Trong cách lý giải của Hêghen thì con người hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới
cũng chỉ là sự “tồn tại khác” của “tinh thần tuyệt đối” mà thôi. Hoạt động đó được
coi như là công cụ để “tinh thần tuyệt đối “nhận thức chính mình và trở về với chính
mình.
Đại biểu cho phái dân chủ cấp tiến nhất của giai cấp tư sản ở Đức vào giữa
thế kỷ XIX Lutvich Phoiơbắc lại phát triển cao hơn nữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy vật vô thần lên đến đỉnh cao.
Quan điểm duy vật nhân bản là nét nổi bật trong triết học của Phoiơbắc. Theo
ông con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển tự nhiên. Giữa
con người và tự nhiên nằm trong thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời. Ở con
người đã chứa đựng tất cả những gì đã có trong tự nhiên. Trong mỗi con người cụ
thể là một sự thống nhất giữa vật chất và tinh thần. Do đó chỉ có thể giải quyết
được quan hệ giữa vật chất và tinh thần trong nhân bản học.
Ông cho rằng triết học nghiên cứu con người không thể dựa vào ý thức trừu
tượng, những thế lực siêu tự nhiên như quan niệm của Hêghen, mà phải xuất phát
từ bản thân con người - những cá thể người đang sống và làm việc chứ không phải
loài người nói chung. Song chủ nghĩa duy vật nhân bản khi phê phán chủ nghĩa duy
tâm đã tuyệt đối hóa con người tự nhiên, con người sinh vật, không thấy được bản
chất xã hội - lịch sử cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn của con người.
Tóm lại, vấn đề con người đã được đặt ra từ rất sớm, ngay từ thời cổ đại vấn
đề con người đã được đặt ra trong triết học như là một đối tượng trung tâm để xem
xét, lý giải cả phương Đông lẫn phương Tây, từ triết học HiLạp cổ đại đến triết học


16
cổ điển Đức. Tuy nhiên, các quan điểm trước C.Mác về con người chưa thoát khỏi
tính chất duy vật siêu hình hoặc duy tâm thần bí. Tuy vậy, lịch sử triết học đã để lại
những tiền đề quý giá về nguồn gốc, bản chất con người làm cơ sở, tiền đề, điều
kiện cho triết học Mác kế thừa, phát triển để đưa ra quan điểm khoa học về con
người. Triết học Mác không chỉ đem lại quan niệm khoa học hoàn chỉnh về bản

chất con người; mà còn vạch rõ cơ sở khoa học để phát huy nguồn lực con người,
con đường cách mạng và khoa học để giải phóng triệt để con người; cải tạo, xây
dựng con người một cách toàn diện. Hơn nữa vấn đề con người là vấn đề trọng tâm
xuyên suốt của triết học Mác, bởi sự hình thành và phát triển của triết học Mác
không hề mang mục đích khoa học tự thân, mà nhằm luận giải khoa học cho sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản thế giới cho việc phát huy nguồn lực con người
trên con đường đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân
loại khỏi ách áp bức bóc lột.
Con người là sự thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội
Khác với các nhà tư tưởng trước mình, khi xem xét vấn đề bản chất con
người, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin không xem xét vấn đề bản chất
con người một cách chung chung, cô lập, trừu tượng mà bằng cách tiếp cận con
người hiện thực dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật triệt để và phương pháp biện
chứng. Triết học Mác đã chỉ ra rằng, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa cái
sinh vật và cái xã hội, là thực thể sinh vật-xã hội. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai
yếu tố cơ bản cấu thành con người về mặt tự nhiên - sinh học và mặt xã hội - văn
hóa. Về mặt tự nhiên trước hết con người là một cơ thể sống, bộc lộ đầy đủ các quá
trình sinh học, như các hiện tượng sinh lý, di truyền, thần kinh, điện - hóa và các
quá trình khác. C.Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, là sản
phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật như tiến hóa luận của Đácuyn đã
khẳng định. Như mọi động vật khác, con người là một bộ phận của thiên nhiên, tìm
thức ăn, nước uống...từ trong tự nhiên, như mọi động vật khác con người phải “đấu
tranh” để tồn tại, ăn uống, sinh con đẻ cái. Con người là một thực thể sống với tất
cả những đặc điểm sinh lý, cấu trúc của cơ thể và những nhu cầu tự nhiên của nó,
con người cũng chịu sự chi phối của các quy luật sinh học như: Quy luật về sự phù
hợp giữa cơ thể với môi trường, về quá trình trao đổi chất, về biến dị và di truyền...
Khi xem xét về con người triết học, C.Mác không phủ nhận mặt tự nhiên, sinh vật ở


17

con người mà coi “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “con người là
một bộ phận của giới tự nhiên”.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, nhưng trong mối quan hệ với
giới tự nhiên con người hoàn toàn khác với con vật. Hoạt động sản xuất của con
người không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh học mà còn nhằm phát triển xã hội
nữa. Con vật cũng sản xuất nhưng hoạt động của nó hoàn toàn mang tính bản năng,
bầy đàn: Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình còn con người thì tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên. Trong quá trình sống cả con người lẫn con vật đều phải quan
hệ với môi trường, con người ngoài việc khai thác tự nhiên, cải tạo tự nhiên, còn
phải sáng tạo cái mà giới tự nhiên không có. Chính phát hiện quan trọng này đã nêu
lên tính tất yếu của sự hài hòa giữa con người với tự nhiên.
Như vậy, cái tự nhiên là cái vốn có trong bản chất con người. Nó là cái không
bao giờ mất đi mà tồn tại vĩnh viễn trong con người. Vấn đề là phải làm như thế
nào cho cái sinh vật ngày càng nhân tính hóa, nhân loại hóa.
Tính loài của con người không phải là tính loài trừu tượng. Nó cũng có nghĩa là
“tính xã hội” và loài người chính là “xã hội người”. Con người có tính xã hội trước
hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã hội. Do
hoạt động lao động sản xuất mà con người đã tạo nên “thế giới thứ hai”. Thế giới đó
chính là sự thể hiện hoạt động và giao tiếp của con người thông qua các mối quan hệ
xã hội. Nhưng hoạt động đó là hoạt động có ý thức mang tính mục đích rõ rệt.
Thông qua lao động con người không ngừng làm thay đổi tự nhiên, cải biến tự
nhiên theo mục đích và nhu cầu của mình. Song vấn đề không dừng ở đó chính nhờ
lao động có ý thức con người thấy “cần phải nói với nhau một điều gì đấy “. Như
vậy, chính lao động và trong lao động, ngôn ngữ được hình thành và phát triển. Và
chính hoàn cảnh con người do con người sáng tạo ra lại tác động trở lại con người
làm cho con người hoàn thiện hơn về thể chất cũng như tinh thần.
Như vậy, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội
thì trong con người cũng có hai mặt không thể tách rời: mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Về mặt xã hội - văn hóa, con người là một nhân cách văn hóa, bộc lộ các tố
chất tâm lý - ý thức, tính cách, tính khí..., là chủ thể các quan hệ xã hội, lao động,

giao tiếp, sinh hoạt tinh thần... và các quá trình hình thành, phát triển của con người
không thể không tuân theo các quy luật xã hội - văn hóa.


18
Đương nhiên, triết học Mác không tách biệt mặt tự nhiên và mặt xã hội mà nhìn
nhận con người tồn tại, phát triển trong tính toàn vẹn thống nhất của cả hai quá trình,
nhờ sự tương tác thống nhất giữa cơ chế di truyền sinh học và cơ chế nhập thân văn
hóa trong môi trường xã hội. Cơ chế di truyền quyết định quá trình tiến hóa sinh học
của con người, tạo nên cơ sở sinh học cho sự tiến hóa xã hội. Quá trình gia nhập hoạt
động xã hội và bối cảnh văn hóa lịch sử của cộng đồng xã hội đã quyết định sự hình
thành, phát triển những tố chất xã hội - văn hóa của con người, đồng thời chế ước,
cải biến mặt sinh học, làm cho cái sinh học thích nghi với hoạt động xã hội.
Sự thống nhất giữa mặt tự nhiên - sinh học với mặt xã hội - văn hóa còn thể
hiện ở môi trường sống của con người. Đó không chỉ đơn thuần là môi trường tự
nhiên - sinh học, mà ngày càng chủ yếu là môi trường xã hội - văn hóa. Môi trường
là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người, theo nghĩa rộng
nhất bao gồm cả môi trường tự nhiên - sinh học và môi trường xã hội - văn hóa. Là
một bộ phận của tự nhiên, con người tồn tai trong hệ thống tương tác của tất cả các
lực lượng, các quá trình cơ, lý, hóa, sinh học của tự nhiên, trước hết là giao tiếp và
thích nghi với tự nhiên. Đương nhiên con người không chỉ tương tác với môi
trường tự nhiên bằng sự cộng hưởng thuần sinh học, mà còn tìm ra những khía
cạnh văn hóa tinh thần, thậm chí khoa học hiện đại đã phát hiện ra sự tương tác
giữa “nhịp điệu vũ trụ” với “nhịp điệu sinh học” của con người. Mặt khác, con
người tồn tại trong môi trường xã hội - văn hóa, thông qua các quá trình xã hội mà
thích nghi với tự nhiên. Xét đến cùng, xã hội là một bộ phận, một dạng kết cấu vật
chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ xã hội loài người hình thành, tồn tại và phát
triển không ở đâu khác ngoài giới tự nhiên, trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên.
Nhưng về bản chất thì môi trường xã hội chủ yếu được nhìn nhận ở các giá trị văn
hóa của nó, tức là nó chứa đựng trình độ người của con người được không ngừng

sáng tạo và nhân lên trong lịch sử. con người giao tiếp và thích nghi với tự nhiên
không chỉ bằng bản năng, mà còn bằng và ngày càng chủ yếu bằng văn hóa. Đương
nhiên giữa tự nhiên và xã hội phải hài hòa, vì với môi trường tự nhiên - sinh học
thuận lợi cũng chưa chắc nảy sinh môi trường xã hội - văn hóa phát triển cao, còn
nếu môi trường tự nhiên - sinh học bị hủy hoại quá giới hạn, thì môi trường xã hội văn hóa không thể thay thế hay cứu vãn được. C.Mác đã khẳng định: “Chừng nào mà
loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau” [Theo


19
12, tr.434].
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội” [Theo 12, tr.435]. Đây là luận điểm cực kỳ quan trọng của triết học Mác luận điểm dẫn đến bước ngoặt về chất trong lịch sử triết học về xã hội, về con
người. Trước hết, con người là một nhân cách - một chỉnh thể đơn nhất, với cái
riêng do đặc điểm di truyền, điều kiện riêng của mỗi người quy định. Nhờ những
phẩm chất riêng mà phân biệt được cá nhân này với cá nhân khác về trí tuệ, tình
cảm, ý chí, động cơ hành động, tính cách... Với quan niệm đó, C.Mác cho rằng,
“con người là một cá nhân đặc thù nào đó và chính tính đặc thù của nó làm cho nó
thành ra một cá nhân và một thực thể xã hội cá thể hiện thực” [Theo 12, tr.435].
Rằng cá nhân là chủ thể đích thực, năng động của sự phát triển xã hội, là đơn vị tồn
tại cuối cùng của xã hội và là tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử. Do vậy “bản thân
xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản
xuất ra xã hội như thế” [Theo 12, tr.435]. Song, con người cá nhân không thể tách
khỏi con người xã hội ngay trong từng nhân cách. Bởi lẽ, mỗi nhân cách là một
chỉnh thể năng động, phát triển thống nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái đơn
nhất. Những phẩm chất riêng có trong kinh nghiệm sống, trong phương thức thể
hiện tâm lý xã hội của mỗi người chỉ có ý nghĩa khi được đặt trong quan hệ với cái
đặc thù của một giai đoạn xã hội lịch sử cụ thể, của từng tiểu cộng đồng, như dân
tộc, giai cấp, tập đoàn xã hội, tập thể nhóm, xã hội, gia đình..., cũng như thể hiện
được theo tiêu chí phổ biến ở những đặc trưng chung của nhân loại. Những phẩm
chất xã hội của con người mang dấu ấn của thời đại lịch sử và quan hệ xã hội cụ

thể. Trong xã hội có giai cấp, chính quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
đã quyết định sự phân chia các thành viên trong xã hội thành những giai cấp khác
nhau. Trong xã hội có giai cấp thì bản chất con người không thể thoát khỏi bản chất
giai cấp, bản chất này in đậm dấu ấn trong từng cá nhân. Vì thế nói đến bản chất
con người trong xã hội có giai cấp tức là nói đến bản chất giai cấp của nó. Đối với
các quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa cái tổng hòa và cái chi phối quyết định trong
cái tổng hòa đó đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luận giải rất kỹ càng,
từ đó làm sáng tỏ bản chất con người.
Các quan hệ xã hội bao gồm nhiều loại. Nếu xét mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội, hay giữa cá nhân và con người và cộng đồng xã hội thì có quan hệ gia đình -


20
họ tộc, quan hệ làng xã, quan hệ giai cấp, quan hệ Dân tộc - Đất nước - Tổ quốc,
quan hệ nhân loại. Nếu xét về tính chất các quan hệ xã hội thì có quan hệ sản xuất
và các quan hệ khác, như quan hệ chính trị, quan hệ văn hóa, quan hệ đạo đức,
quan hệ tôn giáo... Nếu xét về sự vận động của các quan hệ xã hội trong thời gian
thì có các quan hệ hiện tồn và các quan hệ hình thành trong quá khứ nhưng đã bị
đảo lộn, biến đổi hoặc được kế thừa trong sự phát triển trong hiện tại. Như vậy, các
quan hệ xã hội rất đa dạng, phong phú, luôn đan xen với nhau, tác động lẫn nhau,
trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ quyết định, chi phối các quan hệ xã hội khác.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng
từ đó tạo nên bản chất con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta nói chung và ở Kon Tum nói riêng để
phát huy nguồn lực con người, chúng ta cần phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng con
người Việt Nam với các tiêu chí sau: giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa; có tinh thần
quốc tế chân chính. Bởi có như vậy, chúng ta mới có được nguồn lực quan trọng
nhất, mạnh mẽ nhất, ổn định nhất và bền vững nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Việc không ngừng gia tăng tính tự giác, năng lực làm chủ, sáng tạo

của mỗi người, việc phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, kết hợp với sức
mạnh của tập thể lao động, của cả dân tộc trên cơ sở một nền tảng tinh thần vững
chắc phải được coi là định hướng chiến lược cho việc bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên không chỉ có những quan hệ hiện tồn mới quyết định nên bản chất
của những người đang sống mà họ còn kế thừa những tư tưởng của thế hệ trước. Do
đó khi xem xét bản chất con người thì không được tách rời giữa quá khứ và hiện tại.
Vì thế bản chất con người không phải là trừu tượng, nhất thành bất biến, nó cũng
không phải là sự kết hợp đơn thuần những mặt khác nhau mà là một thể thống nhất
của những mặt đối lập. Hơn nữa, tính xã hội của con người hoàn toàn khác về chất
với tập tính bầy đàn của một số loài động vật “xã hội”, chẳng hạn kiến, ong... Tính
xã hội của con người là xã hội - văn hóa, là tập tính có ý thức, được hình thành ngay
khi con người bước từ cuộc sống bầy đàn sang cuộc sống xã hội và phát triển theo
tiêu chí ngày càng “tách” khỏi động vật và “thoát” khỏi động vật. Như vậy, chỉ với
tiêu chí này, chúng ta đã thấy rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa cá nhân và xã


21
hội.
Cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là lợi ích. Lợi ích là cái khách
quan cần thiết để thỏa mãn nhu cầu con người, quyết định phương thức thích hợp
giữa ý chí và hành động của con người. Lợi ích là một thể thống nhất đa dạng,
trong đó lợi ích kinh tế - vật chất là cái quyết định. Lợi ích là yếu tố liên kết các cá
nhân, là “chất kết dính” giữa người với người, là động lực của mọi hoạt động lịch
sử. Do đó, muốn phát huy nguồn lực con người thì phải hướng đến nhiều lợi ích
chính đáng của con người. Đây chính là cơ sở lý luận để chúng ta giải quyết mối
quan hệ giữa các lợi ích. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích vừa là điều
kiện vừa là động lực để phát triển và phát huy nguồn lực con người. Nguồn lực con
người sẽ được phát huy mạnh mẽ khi chúng ta giải quyết các chính sách xã hội trên
cơ sở phát triển kinh tế gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Chỉ có

thể trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảm bảo công bằng, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi công dân với đáp ứng nhu cầu trước mắt và chăm lo lợi ích
lâu dài cho người lao động giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội, thì nguồn
lực con người mới trở thành động lực, thành năng lực nội sinh. Do đó, trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải hướng tới mục tiêu cải thiện và
nâng cao đời sống cả vật chất và tinh thần cho mỗi người dân trong nước để trên cơ
sở đó tạo ra một đội ngũ những người lao động có chất lượng, một nguồn nhân lực
dồi dào. Chúng ta chỉ đạt được mục tiêu đó khi có sự kết hợp hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế nhanh với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động, nâng
cao trình độ học vấn và văn hóa cho người lao động, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
cho con người. Hơn nữa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội luôn mang tính lịch
sử. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, cá nhân “hòa tan” vào xã hội. Trong xã hội
có giai cấp, cá nhân được từng bước phát triển, khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo
xã hội. Mỗi bước phát triển của xã hội đã tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát
triển của cá nhân. Song, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở khách quan
của việc tuyệt đối hóa “cái Tôi” của cá nhân, nhất là dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Lịch sử xã hội loài người tất yếu phát triển đến xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó có
sự kết hợp hài hòa giữa cá nhân và xã hội; sự phát triển tự do và toàn diện của cá
nhân vừa là điều kiện, vừa là mục đích của sự phát triển xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích mang tính đối kháng giai cấp, song điều đó


22
không tước bỏ sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân
loại. Khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp, mỗi con người là một thành viên của một
giai cấp nhất định và mang địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó. Địa vị này mang
tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất quy định, mặc dù mọi thành
viên của giai cấp có thể ý thức được, hoặc không thể ý thức được điều đó. Song con
người còn mang tính nhân loại - một thuộc tính vốn có, được hình thành trong suốt
chiều dài lịch sử của cuộc sống cộng đồng, mà cộng đồng rộng lớn và phổ biến nhất

chính là nhân loại. Tính nhân loại thể hiện trong sự sáng tạo, trong những giá trị văn
hóa chung, những quy tắc chuẩn mực của đời sống xã hội với tư cách những đạo lý
phổ quát, như nhân đạo, dân chủ, công bằng xã hội, hòa bình, bảo vệ môi trường sinh
thái ... Yêu cầu khách quan của cuộc sống cộng đồng xã hội - văn hóa buộc con
người phải nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, khai thác sự phong phú của
cả cộng đồng để làm phong phú cho mình. Nhưng, một khi trong xã hội còn chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ đối kháng giai cấp thì con người còn mang
tính giai cấp, không bao giờ có “lợi ích nhân loại thuần khiết”; lợi ích luôn được
phản chiếu qua lăng kính giai cấp, trong cả nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất
con người song không có nghĩa là chủ nghĩa Mác coi nhẹ mặt tự nhiên của nó. Tuy
vẫn là những nét chung nhưng mặt sinh học trong con người không còn nguyên
dạng như con vật mà đã có cải tạo hoặc phát triển ở trình độ cao hơn con vật. Bằng
hoạt động lao động sáng tạo, con người đã vượt lên trên các động vật khác không
chỉ ở trong quan hệ xã hội mà cả trong mối quan hệ sinh học, thậm chí mặt sinh học
trong con người cũng không tồn tại bên cạnh mà tồn tại ngay trong mặt xã hội. Bởi
vì trong con người khó phân biệt đâu là mặt sinh học, đâu là mặt xã hội. Chỉ có
trong nhận thức ta mới phân biệt được chúng.
Con người là một động vật đặc biệt, đặc biệt là cấu tạo của bộ óc. Khác với
con vật, con người ngoài tính di truyền còn có tính kế thừa về mặt xã hội, và những
kinh nghiệm của thế hệ trước muốn truyền lại cho thế hệ sau chỉ có thể thông qua
con đường giáo dục. Và cùng với ánh sáng di truyền học hiện đại đã bác bỏ quan
điểm sai lầm cho rằng những yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần cũng được ghi lại
trong các ren di truyền. Luận điểm đã một thời biện hộ cho sự phân chia giống
người thượng đẳng, hạ đẳng và dẫn đến chỗ phủ nhận vai trò của hoàn cảnh, của


23
giáo dục đối với sự hình thành nhân cách con người. Yếu tố di truyền chỉ là cơ sở,
khả năng cho sự phát triển năng lực và phẩm chất của con người. Và chỉ bằng con

đường rèn luyện và giáo dục mới làm cho mọi người có điều kiện tiếp thu tất cả các
thành tựu của nền văn hóa vật chất, tinh thần của xã hội loài người. Do đó, muốn
phát huy nguồn lực con người chúng ta cần phải quan tâm đến giáo dục và đào tạo;
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế hiện nay, hơn bao giờ hết, giáo dục và đào tạo có sự mệnh vô cùng quan trọng
trong việc tạo dựng và phát huy nguồn lực con người. Đối với nước ta nói chung và
đối với Kon Tum nói riêng để phát huy nguồn lực con người thì phải tiếp tục phát
triển giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội. Vì chất lượng của con
người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, nên chăm lo phát triển giáo dục và đào
tạo là chăm lo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với tư cách là động lực cho
sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người phát triển cao
về trí tuệ, về tay nghề, về kỹ năng và kỹ xảo. Hơn nữa giáo dục và đào tạo còn giúp
chúng ta phát huy nội lực - trình độ trí tuệ dân tộc. Hàm lượng trí tuệ trong lao
động do giáo dục mang lại là cái làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt
của sản xuất, nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận để phát triển lực lượng sản xuất.
Có thể nói chủ nghĩa Mác với cách nhìn bản chất - khoa học về bản chất con
người đã xóa tan lớp “sương mù mờ ảo”, thần bí vây quanh con người, vạch ra bản
chất đích thực, đầy sức thuyết phục về con người, quan niệm của các ông đã có giá
trị to lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Quan niệm này đã trở thành cơ sở lý luận
cho nhiều ngành khoa học đang nghiên cứu về con người. Đồng thời nó cũng là cơ
sở vững chắc cho việc phát huy nguồn lực con người - nguồn lực quyết định của
lực lượng sản xuất, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao
năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. Tư tưởng khẳng định “trong
tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” của
các ông còn cho thấy con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ con người - tự
nhiên - xã hội mà còn là chủ thể của lịch sử, sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân
mình.
1.1.2.Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng lịch sử xã hội là do chính hoạt



24
động của con người làm nên chứ không phải do sự sáng tạo của một lực lượng siêu
nhân nào. Đó chính là kết quả của quá trình con người cải tạo tự nhiên - xã hội và
cải tạo chính bản thân mình.
Về vai trò của con người triết học Mác đã khẳng định con người là chủ thể
hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất vật chất. Triết học Mác khẳng
định lao động là điều kiện chủ yếu, quyết định sự hình thành, phát triển của con
người. Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tặng phẩm
của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng
tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình Sự hình
thành, phát triển của con người là một quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật
chất cùng với các dạng thức hoạt động thực tiễn phong phú khác. Từ vai trò quyết
định của quá trình sản xuất ra những nhu cầu đầu tiên đối với sự tồn tại và phát
triển của con người và hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hành vi lịch sử đầu
tiên. C.Mác viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và
đó là hành vi lịch sử - một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng
giống như hàng nghìn năm về trước người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ
chỉ nhằm để duy trì đời sống con người” [17, tr.40].
Con người vừa là sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến hóa của tự nhiên và
lịch sử xã hội,vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi thành tựu văn hóa trên trái đất. Bằng
hoạt động thực tiễn, con người còn sáng tạo ra chính bản thân mình với tư cách là
tổng hòa các những lực lượng bản chất người được phát triển không ngừng trong
lịch sử. Lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo môi trường sống
phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. C.Mác đã khẳng định rằng,
“nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và
thực tại của nó “[Theo 12, tr.437], làm cho tự nhiên “có tính người”, tự nhiên được
“nhân loại hóa”. Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó hữu cơ với lịch sử phát triển

của xã hội loài người. Chính vì vậy theo C.Mác, con người luôn đứng trước “một tự
nhiên có tính chất lịch sử và một lịch sử có tính chất tự nhiên “ [Theo 12, tr.438].
Lao động trước hết làm cải biến con người - bản năng tự nhiên thành con
người - bản năng xã hội. Triết học Mác và tiếp đó là khoa học hiện đại đã chứng
minh rằng, thông qua lịch sử hình thành và phát triển nền sản xuất vật chất, nhờ lao


25
động mà một loài sinh vật mới ra đời, đó là con người có lý tính, mang bản chất xã
hội. Lao động đã làm biến đổi bản chất tự nhiên - sinh học của tổ tiên loài người để
hình thành các tố chất xã hội - văn hóa. Mỗi bước tiến của lịch sử phát triển nền sản
xuất vật chất là một bước nhờ có lao động đã cải tạo bản năng sinh học của con
người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển bản năng con người lên những nấc
thang mới về chất - bản năng xã hội. Lao động là điều kiện chủ yếu, quyết định sự
hình thành và phát triển tố chất xã hội - văn hóa của con người. Trong lao động, tất
yếu hình thành các quan hệ xã hội cơ bản, và thông qua hoạt động giao tiếp nảy
sinh do nhu cầu lao động mà hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí
và cả phương pháp tư duy của con người... Trên ý nghĩa cao cả nhất thì lao động
sáng tạo ra chính bản thân con người.
Nhờ có lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập với tự
nhiên, trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa sáng
tạo chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao động. Con người bắt đầu lịch
sử của mình từ đó. Nhờ công cụ lao động, tư liệu của mọi tư liệu - sức mạnh vật chất
đầu tiên mà con người tách khỏi tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư cách là chủ thể
hoạt động thực tiễn xã hội. Bước nhảy vọt từ động vật sang xã hội được thực hiện
nhờ các yếu tố mới về chất trong lối sống của con người, đó chính là nhờ lao động.
“Lao động sáng tạo ra bản thân con người” là kết luận về lý luận nguồn gốc loài
người của Ph.Ănghen dựa trên thành tựu của các khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội. Điều đó khẳng định vai trò chủ đạo của lao động, cả trong sự hình thành ý thức
con người lẫn sự liên kết những con người với nhau mà cơ sở của chúng là lao động

chung, là nền sản xuất xã hội. Đồng thời, bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người
hòa nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên
thứ ba”, “tự nhiên thứ n”... Hơn nữa, con người không chỉ sáng tạo ra của cải, mà
còn sáng tạo ra cả tri thức và đời sống tinh thần. Như vậy, sáng tạo là thuộc tính tối
cao của con người. Bản chất con người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa
của nó.
Có thể khẳng định rằng, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo
đuổi mục đích của mình. Vì vậy, con người với tư cách là chủ thể đã tạo nên một nền
sản xuất xuyên suốt tiến trình lịch sử loài người, đưa loài người đi từ phương thức
sản xuất này đến phương thức sản xuất khác tiến bộ hơn bằng các cuộc cách mạng xã


×