Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Các tác phẩm hồ chí minh và văn kiện ĐCS việt nam về CNXHKH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.33 KB, 51 trang )

Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

MỞ ĐẦU
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương
đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất
để cùng nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là
phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước,
ngày 18.11.1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương ra
chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam.
Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi
tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng
nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong
xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng
Cộng sản Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc
thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa
bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn
đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa
nhận vai trò lãnh đạo.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận
Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của
khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do,
hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

1


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH


1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài

Mặt trận Tổ Quốc là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước
ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của
Các đồn thể nhân dân khơng phải tự Các đồn thể nhân dân đặt ra mà là do
chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận Tổ Quốc, ngay sau khi nhân dân giành
được chính quyền, Mặt trận Tổ Quốc đã trở thành một bộ phận cấu thành của
hệ thống chính trị. Tuy vai trị, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động
của từng bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều
là cơng cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục
đích chung là: Phấn đấu xây dựng đất nước hồ bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Mặt trận Tổ Quốc
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là một bộ phận không thể thiếu
được của hệ thống chính trị đất nước. Mặt trận Tổ Quốc có vai trị rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đồn kết tồn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..."
Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong q
trình đó cịn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã
hội, các tôn giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội
đang đặt ra cho cơng tác vận động quần chúng nói chung và cơng tác của Mặt
trận Tổ Quốc nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc
tập hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế
lực thù địch đang thực hiện chiến lược diễn biến hồ bình và nhiều âm mưu
chia rẽ khối đại đồ kết dân tộc, hịng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của

nhân dân. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận Tổ Quốc trong hệ thống

2


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Mặt trận Tổ Quốc nói riêng là một lý luận có vị trí quan trọng, là bộ phận cấu
thành nên tư tưởng CNXHKH của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đã xây dựng lý luận về
Mặt trận Tổ Quốc và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã kế thừa những tư tưởng
đó, biến nó trở thành một lý luận phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước Việt
Nam. Những tư tưởng đó chính là kim chỉ nam, là định hướng cho đường lối
cách mạng những nước XHCN nói chung và Việt Nam nói riêng. Cho nên đó
là vấn đề cần được nghiên cứu, tổng kết để bổ sung vào kho tàng lý luận
CNXHKH và lý luận về con đường quá độ lên CNXH của các đảng cộng sản
trong đó có đảng cộng sản Việt Nam.
ĐCS Việt Nam cùng nhân dân Việt Nam đã vận dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Tổ
Quốc, đang ra sức phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp tục đưa sự
nghiệp đổi mới có bước phát triển mới, sáng tạo mơ hình phát triển kinh tế chính trị đậm nét Việt Nam, đưa nước ta tiến bước vững chắc trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, một thực
tế nữa đó là bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn tồn tại những quan
điểm đi chệch với quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí
Minh tạo ra những khó khăn nhất định.
Từ những cách hiểu như trên, tác giả tiến hành nghiên cứu vấn đề này
trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc, xác thực những tư tưởng của Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đặc biệt về Mặt trận Tổ Quốc với mong muốn

đưa ra được những nhận xét đánh giá sâu sắc nhất. Qua tất cả những cơ sở
ban đầu đó tác giả nhận thấy đây là một vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết
không thể không nghiên cứu trong công cuộc xây dựng nước ta hiện nay. Là
một sinh viên chuyên ngành CNXHKH thì việc nghiên cứu lý luận về Mặt
trận Tổ Quốc là phù hợp với ngành học và cần thiết cho việc bổ sung kiến
thức cho bản thân và cơng việc sau này. Chính vì thế mà tác giả chọn đề tài:
3


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

“Về Mặt trận trong tác phẩm “Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ hai của Đảng” của Hồ Chí Minh và trong “Văn kiện Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ IV”, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX” của
Đảng ta – đối chiếu và so sánh.” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần mơn:
“Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện Đảng cộng sản Việt Nam về
CNXHKH”
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện
của Đại hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mà trọng tâm đề tài nghiên cứu là
làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam về Mặt trận
Tổ Quốc.
Khách thể nghiên cứu của đề tài: quá trình sáng tạo, bảo vệ và phát
triển lý luận về Mặt trận có những vấn đề liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến
những quan điểm tư tưởng cụ thể đó.
Đối tượng nghiên cứu: hệ thống các quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam về Mặt trận.
Đối tượng khảo sát: Lý luận về các quan điểm về Mặt trận của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam được trình bày trong rất nhiều các tác
phẩm kinh điển. Ở mỗi tác phẩm đều đi sâu vào một hoặc một số quan điểm

của lý luận về Mặt trận. Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu các quan điểm về
Mặt trận của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam trong ba tác phẩm
được học ở chương trình học tập chun ngành:
“Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng”
của Hồ Chí Minh (1951),
“Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV”, của Đảng Cộng Sản
Việt Nam (1976),
“Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX” của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. (2011)
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Lý luận về Mặt trận trong những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã
được rất nhiều nhà kinh điển đề cập với dung lượng khá lớn và mang tính
4


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

khái quát cao. Giới khoa học trong nước có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về
lý luận về Mặt trận như:
- Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay /
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Sùng, Vũ Hồng Cơng... - H. : Chính trị Quốc gia,
2002
Tóm tắt nội dung: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân
chủ cơ sở. Các đoàn thể nhân dân trong đời sống xã hội và việc đảm bảo dân
chủ ở cơ sở hiện nay. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trị của
đồn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở
- Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân
cấp phường trong điều kiện kinh tế thị trường / Dương Xuân Ngọc chủ biên. H. : Chính trị quốc gia, 1995.
Tóm tắt nội dung: Đặc điểm, chức năng của phường - cấp quản lý nhà
nước cơ sở. Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đồn thể

nhân dân trong phường dưới điều kiện kinh tế thị trường và phương hướng,
mục tiêu, giải pháp đổi mới mối quan hệ đó.
- Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đồn thể nhân dân cấp xã ở
nước ta hiện nay / Dương Xuân Ngọc (ch.b), Hồng Chí Bảo, Nguyễn Chí
Dũng... - H. : Chính trị quốc gia, 1998.
Tóm tắt nội dung: Khái lược lịch sử hình thành cấp xã, hệ thống chính
trị xã. Cơ sở lý luận của việc xác định và giải quyết mối quan hệ giữa Đảng,
chính quyền và các đồn thể nhân dân cấp xã: quan điểm của Đảng, nội dung,
phương thức thực hiện và vấn đề đổi mới hiện nay
- Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường / Chủ nhiệm đề tài:
Nguyễn Viết Vượng. - H. : Chính trị quốc gia, 1994.
Tóm tắt nội dung: Những thay đổi của nền kinh tế thị trường và hoạt
động của các tổ chức xã hội (các đoàn thể nhân dân) trong điều kiện mới.
Hướng thay đổi hoạt động của các tổ chức này cho phù hợp với nền kinh tế
thị trường.

5


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

- Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay /
B.s: Phan Xuân Sơn (ch.b), Lưu Văn Sùng, Vũ Hồng Cơng... - Tái bản có
sửa chữa. - H. : Chính trị Quốc gia, 2003.
Tóm tắt nội dung: Trình bày các vấn đề trong đời sống chính trị - xã hội
ở cơ sở hiện nay của nước ta như vấn đề dân chủ, các đoàn thể nhân dân trong
đời sống xã hội, những vấn đề đặt ra cho việc đổi mới, các giải pháp phát huy
vài trò của đồn thể nhân dân...
- Vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay : LA TS Chính trị học: 62.31.20.10 /

Nguyễn Thị Hiền Oanh. - H., 2005.
Tóm tắt nội dung: Luận chứng về vai trò của mặt trận tổ quốc (MTTQ)
trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Phân tích đánh giá hiện
trạng về hoạt động của MTTQ Việt nam trong thời kỳ đổi mới. Đề xuất một
số giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ phát triển mới.
- Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiện nay : LATS Chính trị học: 62.31.20.01 / Nguyễn Thọ
Ánh. - H., 2010.
Tóm tắt nội dung: Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đề xuất quan điểm và các
giải pháp tổ chức thực hiện chức năng này.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở
nước ta hiện nay : LATS Chính trị học: 62.31.20.01 / Nguyễn Thị Lan. - H.,
2008.
Tóm tắt nội dung: Làm rõ khái niệm đồng thuận xã hội và vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội. Phân
tích, đánh giá thực trạng về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc xây dựng sự đồng thuận xã hội, làm rõ những hạn chế và nguyên nhân,
đồng thời đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận
xã hội.
6


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

4. Mục tiêu - Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các quan điểm về Mặt trận của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam mà rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn

đề đối với việc học tập và nghiên cứu bộ mơn CNXHKH nói chung và mơn
Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng.
Tiểu luận thực hiện những nhiện vụ sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu Cơ sở lý luận về Mặt trận và hoàn cảnh ra đời các
tác phẩm.
Thứ hai: Đối chiếu và so sánh những nội dung cơ bản về Mặt trận trong
tác phẩm “Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng”, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV” và “Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Thứ ba: Ý nghĩa các quan điểm về Mặt trận của Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng Sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
5. Phương pháp tiếp cận và nghiên cứu
Để tiện cho việc phục vụ nghiên cứu, học tập tác giả tôn trọng những
vấn đề theo các thời kỳ lịch sử, bám sát các tư tưởng có trong các tác phẩm
của các nhà kinh điển và văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên,
vì khối tư liệu lớn, khn khổ của đề tài có hạn, nhiều chỗ tác giả cũng chỉ có
thể tóm tắt những tư tưởng cơ bản. Tác giả đã sử dụng:
Phương pháp luận: để nghiên cứu được đề tài này tác giả tuân thủ các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá xem xét vấn đề. Đặc biệt
tác giả sử dụng những nguyên lý, phạm trù cơ bản như: bản chất và hiện
tượng, nguyên nhân và kết quả; quy luật lượng-chất, quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập, mỗi quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng… để tiến hành
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chung: phân tích-tổng hợp-so sánh, logic-lịch
sử, trừu tượng hóa, khái qt hóa để nghiên cứu.

7



Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

Phương pháp cụ thể: nghiên cứu tài liệu để làm rõ những quan điểm
của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đối chiếu kinh nghiệm hiện
thực của CNXH thế giới và của nước ta, nhiều vấn đề mới theo chủ đề này tác
giả cũng chưa thể đưa vào được và hy vọng sẽ có những cơng trình tiếp theo,
nghiên cứu sâu hơn, bổ sung thêm những khía cạnh mới về Mặt trận ở thời kỳ
quá độ lên CNXH trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa của đề tài
Trong đề tài, tác giả đã nghiên cứu một cách khái quát, toàn diện lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận. Từ đó
tạo ra nền tảng về tư tưởng lý luận soi sáng cho Đảng ta chỉ ra con đường
cách mạng Việt Nam trong lý luận về Mặt trận, nhằm tạo động lực mạnh mẽ
để thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh”, vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Góp phần nhỏ vào việc hệ thống hóa các quan điểm lý luận của C.Mác,
Ph.Ănghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, chống lại
sự xuyên tạc, sự lầm lạc trong công tác lý luận.
Kết quả nghiên cứu của đề tài tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho các cơng trình nghiên cứu khác có liên quan và trực tiếp
phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
chia làm 3 chương, 7 tiết.

8


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH


NÔI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về Mặt trận và hoàn cảnh ra đời các tác phẩm
1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Mặt trận
Là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền dân chủ XHCN, Mặt trận
có chức năng: tích cực tham gia vào q trình xây dựng, hồn thiện nền dân
chủ XHCN và quá trình giám sát, kiểm tra, phản biện xã hội trong khuôn khổ
pháp luật xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng cộng cản nhằm thỏa
mãn lợi ích cơng dân chính đáng của hội viên nói chung và lợi ích đặc thù của
hội viên đồn thể mình nói riêng.
Trong q trình xây dựng và phát triển CNXHKH, dù cịn rất ít thực
tiễn của nhà nước vơ sản (chỉ mới có thực tiễn Cơng xã Pa-ri 72 ngày đêm)
nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
các tổ chức chính trị - xã hội của GCCN và nhân dân lao động khác trong
cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN nói chung. Vấn đề tổ chức giai cấp
công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản đã đặt ra trước các nhà
sang lập ra chủ nghĩa Mác như một vấn đề lịch sử quan trọng nhất. Hai ông
nhấn mạnh ý nghĩa quyết định trong cách mạng của các mặt thuộc nhân tố
chủ quan như sự tổ chức và sự nhất trí trong những vấn đề chính trị. Khi phân
tích cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Pari (năm 1848) Ph.Ăngghen viết: “Nếu
như 40000 cơng nhân Pari đã có thể đạt được những kết quả to lớn như thế
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù trội hơn họ bốn lần về số lượng thì tồn thể
cơng nhân Pari sẽ có thể làm được gì nếu họ hành động một cách nhất trí và
có phối hợp với nhau”. [2, 116]. Các ông luôn luôn chú ý xây dựng các tổ
chức của công nhân để giác ngộ và tổ chức công nhân nhằm đưa công nhân
trở thành giai cấp tự giác trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và xã hội.
Chính các ơng đã chủ động tham gia và cảm hóa các tổ chức chính trị của
cơng nhân để đưa họ đến với tư tưởng CNCS.
Trong những năm 1847-1848, xuất phát từ những điều kiện thực tế
khách quan chỉ rõ giai cấp cơng nhân Đức hãy cịn yếu, chưa trưởng thành về

chính trị để thành lập một đảng độc lập, Mác và Ăngghen coi việc tham gia
9


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

phong trào dân chủ chung là cần thiết, đồng thời hai ông cố gắng lãnh đạo
phong trào đó. Một sách lược khác có thể đưa các đại biểu của Đồng minh
những người cộng sản đến chủ nghĩa bè phái. Vì vậy, đến mùa xuân năm
1848 hai ông gia nhập Đảng dân chủ, bởi vì đó là phương sách duy nhất có
thể có để giai cấp cơng nhân nghe được tiếng nói của hai ông.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và nhất là sau thắng lợi của
CMXHCN tháng Mười Nga 1917, Lênin rất quan tâm tới việc phát huy vai
trị của cơng đồn. Khi nói về tổ chức cơng đồn-tổ chức rộng lớn nhất của
giai cấp công nhân, trong bài “Về nhiệm vụ của cơng đồn” và trong diễn văn
ngày 20 tháng Giêng 1919 đọc tại Đại hội II tồn Nga các cơng đồn, Lê-nin
đã tập trung nhấn mạnh vị trí và vai trị quan trọng của cơng đồn trong hệ
thống chung của các tổ chức quần chúng của nhân dân lao động. Người cương
quyết chống lại khẩu hiệu “sự trung lập” của các cơng đồn đối với Chính
quyền Xơ-viết. Nhiệm vụ của các cơng đồn là giáo dục các tầng lớp quần
chúng lao động kém giác ngộ, mở rộng cơ sở xã hội của Chính quyền xơ-viết,
vận động quần chúng tham gia công tác quản lý kinh tế và xây dựng nền sản
xuất mới. Lê-nin nói: “Nếu chúng ta khơng giải quyết được vấn đề này, nếu
chúng ta không biến các công đồn thành những cơ quan giáo dục quần chúng
đơng hơn gấp mười lần hiện nay, để họ tham gia trực tiếp cơng việc quản lý
nhà nước, thì chúng ta sẽ khơng hồn thành đến cùng được sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa cộng sản”. [20, 553]
1.2 Hoàn cảnh ra đời các tác phẩm
1.2.1 Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng diễn ra trong một bối
cảnh trong nước và quốc tế có nhiều chuyển biến lớn. Từ năm 1950, phong
trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Phong trào giải phóng dân tộc
vẫn tiếp tục phát triển làm rung chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế quốc.
Phong trào bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.

10


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

Về phía chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ. Cho tới lúc này, Mỹ đã
căn bản hoàn thành việc chia lại thị trường thế giới tư bản dưới sự khống chế
của Mỹ. Mỹ còn ra sức tiếp tay cho các đế quốc khác trong cuộc chiến tranh
xâm lược thuộc địa, chuẩn bị điều kiện hất cẳng bọn thực dân cũ, thay bằng
chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Mâu thuẫn giữa Mỹ và các nước đế quốc
ngày càng sâu sắc. Trong quan hệ với Đông Dương, để cứu nguy cho Pháp
đang sa lầy trong cuộc chiến tranh và thực hiện ý đò can thiệp sâu vào Đông
Dương, Mỹ đã quyết định tăng cường viện trợ cho Pháp và quân đội bù nhìn.
Tình hình quốc tế trên đây có tác động vào Đơng Dương về hai mặt. Sự
ủng hộ về tinh thần và giúp đỡ về vật chất củu các nước XHCN cho cuộc
kháng chiến của ba nước Đông Dương là một nhân tố tích cực. Song song với
những nhân tố mới tích cực, việc Mỹ cấu kết với Pháp, tăng cường can thiệp
vào Đông Dương… cũng gây cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhiều
phức tạp. Điều đó địi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương, chính sách phù
hợp với tình hình mới.
Ở trong nước, sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình
có những chuyển biến căn bản. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đưa
nhân dân ta từ người mất nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm

xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên
đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã liên tiếp thu được nhiều thắng
lợi, thực dân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến khó tránh khỏi thất bại.
Thế và lực của cuộc kháng chiến từ sau chiến thắng Biên giới có bước phát
triển vượt bậc. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới lại có
những u cầu mới, địi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và
thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên.
Ở hai nước bạn Lào và Campuchia, cuộc kháng chiến cũng giành được
những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Là người tổ chức và lãnh đạo cách
mạng của cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, từ năm 1930 đến nay, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã ln làm trịn vai trị và sứ mệnh lịch sử của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Đảng cũng bộc lộ một số thiếu sót, hạn
11


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

chế ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, cuộc kháng chiến của ba
nước Đông Dương tuy cùng chung một mục tiêu, cùng một chiến trường,
nhưng mỗi nước đã có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình đó đang
địi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ
nghĩa Mác-Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và
chủ động góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập nhằm đáp
ứng những đòi hỏi bức thiết đó. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951. Về dự Đại hội có 158
đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên
đang sinh hoạt trong Đảng bộ tồn Đơng Dương. Đến dự Đại hội cịn có đại
biểu của Đảng cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng đánh dấu một mốc quan
trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại
hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài
của cách mạng, và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận
cách mạng nước ta.
1.2.2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt
Nam
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ phát xít sụp đổ, cuộc tổng
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thêm trầm trọng, Liên Xô ngày càng cường
thịnh, phong trào dân chủ lên cao. Thế giới chia làm hai phe: phe dân chủ
chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo, phe đế quốc phản dân chủ do Mỹ cầm
đầu. Phe dân chủ ngày một mạnh, phe đế quốc ngày một suy. Cán cân lực
lượng giữa hai phe đã nghiêng hẳn về phe dân chủ. Muốn thoát khỏi nạn
khủng hoảng, đế quốc Mỹ và các đế quốc khác đang ra sức chuẩn bị chiến
tranh thứ ba và mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược. Nguy cơ chiến tranh
đã rõ rệt. Nhiệm vụ trung tâm của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới lúc
này là đấu tranh bảo vệ hoà bình. Dưới sự lãnh đạo của Liên Xơ đứng đầu là
thống chế Xtalin, phe dân chủ mở rộng thành mặt trận hồ bình thế giới, kiên

12


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

quyết chống bọn gây chiến. Phong trào hồ bình sâu rộng, mạnh mẽ chưa
từng có trong lịch sử. Đế quốc gây ra chiến tranh thứ ba tức là tự sát.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV diễn ra trong bối cảnh cuộc
Kháng chiến chống Mỹ đã đạt được thắng lợi. Sau đại thắng mùa xuân 1975,
đất nước ta bắt đầu một kỷ ngun mới - kỷ ngun hịa bình thống nhất độc
lập và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn

20 năm chia cắt từ Hiệp định Geneve 1954 bằng việc hiệp thương của hai nhà
nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam từ sau 30 tháng 4 năm 1975 là Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền nam Việt Nam. Quá trình thống nhất
đất nước diễn ra hết sức khẩn trương, tồn diện trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trước hồn cảnh lịch sử trong nước và thế
giới có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có nhiều khó khăn thách thức, Đảng
Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV tại thủ đô Hà
Nội từ 14 đến 20-12-1976. Dự đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5
triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội tổng kết, đánh giá ý nghĩa thắng lợi và
những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đại hội thảo luận và nhất trí quyết định những vấn đề lớn của đất nước:
Quyết định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn
mới; quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5
năm (1976-1980); quyết định đường lối xây dựng Đảng để nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới; đổi tên Đảng Lao
động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội thông qua điều lệ sửa đổi và bầu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IV gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Ban
Chấp hành Trung ương Đảng bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức, 3
ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư, Ban Bí thư
gồm 9 thành viên.
Thực hiện đường lối của Đại hội IV, cả nước sôi nổi thực hiện kế hoạch
5 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1976-1980). Miền Nam tiến hành công
cuộc cải tạo các thành phần kinh tế, miền Bắc đẩy mạnh nhiệm vụ củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ngày 20-7-1977, Việt Nam trở thành
13


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH


thành viên thứ 149 của Liên hiệp quốc. Với những hậu quả nặng nề của chiến
tranh, những khó khăn thử thách mới phát sinh, nhất là nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc rất nặng nề, cùng với những sai lầm khuyết điểm chủ quan nóng vội
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, chậm chuyển đổi cơ chế quản lý, đã làm cho
đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối những năm
70 của thế kỷ XX.
Hội nghị lần VI (9-1979) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chủ
trương “Phải sửa đổi và cải tiến các chính sách hiện hành, nhất là chính sách
về lưu thơng, phân phối, nhằm làm cho sản xuất bung ra”. Có thể coi đây là
chủ trương khởi đầu của q trình tìm tịi con đường đổi mới ở Việt Nam.
1.2.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam
Đại hội diễn ra trong bối cảnh kết thúc thế kỷ 20 và bước sang thế kỷ
21, dân tộc ta đứng trước những thời cơ và nhiều thách thức lớn. Toàn cầu
hóa diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm
hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa
các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa, bảo vệ mơi trường,
phịng chống tội phạm, thiên tai và đại dịch...
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp vào thời điểm có ý
nghĩa trọng đại. Thế kỷ XX đã kết thúc. Thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Toàn Đảng,
toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của
Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
1991 - 2000 và 15 năm đổi mới.
Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và
khuyết điểm thời gian qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới. Chủ đề của
Đại hội là: phát huy sức mạnh tồn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới

đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thơng qua tại Đại hội VII
14


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong
hoàn cảnh đó, nhằm hoạch định đường lối cho sự phát triển của đất nước
trong những năm 2001 - 2005 và 2001 - 2010.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng từ ngày 19 đến 22-42001 họp tại Hà Nội. Tham dự đại hội có 1.168 đại biểu, thay mặt cho gần 2,5
triệu đảng viên cả nước. Đại hội IX đánh giá Việt Nam trong thế kỷ 20 và
triển vọng trong thế kỷ 21, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những
thắng lợi vĩ đại.
Đại hội đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 và tổng kết rút ra 4 bài học lớn của 15 năm đổi
mới. Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 2010) và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
(2001 - 2005); thơng qua tồn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
bổ sung, sửa đổi gồm 12 chương, 48 điều.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX gồm 150 ủy
viên, Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 15 ủy viên, Ban Bí
thư gồm 9 thành viên, Ủy ban Kiểm tra gồm 9 thành viên. Đồng chí Nơng
Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.
Ngay sau Đại hội IX, trong năm 2001, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp các hội nghị tồn thể và có những quyết định quan trọng, cụ thể
hóa đường lối và chiến lược của đại hội. Tháng 7-2004, Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 10 (1-2004) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đề ra những nhiệm vụ và giải

pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo chuyển biến mạnh mẽ xây dựng
nền văn hóa đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội.

15


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

Chương 2: Đối chiếu và so sánh những nội dung cơ bản về Mặt trận
trong tác phẩm “Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
hai của Đảng”, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV” và “Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”
2.1 Vị trí vai trị và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ Quốc trong hệ thống
chính trị và đời sống xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai
trị của Mặt trận khơng phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính
lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
Tuy vai trị, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu
thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và
giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã
xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt nam là một bộ
phận khơng thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.

"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể thành viên có vai trị rất
quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đồn kết tồn dân, tạo nên sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận dân tộc thống nhất đóng vai trị
hết sức quan trọng. Mặt trận là nơi tập hợp, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo,
các tầng lớp nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí độc lập

16


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

tự do, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc. Kể từ khi Hội phản đế Đồng Minh (Mặt trận phản đế Đông Dương)
ra đời ngày 18 – 11 – 1930 đến nay, trải qua nhiều thời kỳ với những tên gọi
khác nhau, nhưng Mặt trận ln là nền tảng của khối đại đồn kết tồn dân
tộc. Kế thừa vai trị lịch sử của các tổ chức tiền thân, MTTQVN ngày nay là
tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị-xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tiếp tục phát
huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.1.1 Trong “Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
hai của Đảng”
Về vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất, năm 1962 Hồ Chí Minh đã
tổng kết:
“Đồn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng

Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa. Đồn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi trong
công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”. [9, 604 ]
Đối với mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (từ 1960), Người đã
khẳng định: “Một Mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một
lực lượng tất thắng. Hiện nay đồng bào ta ở Miền Nam cũng có “Mặt trận dân
tộc giải phóng” với chương trình hành động thiết thực và phù hợp với nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đốn rằng đồng bào miền Nam
nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà”. [9, 349]
Trong suốt quá trình hành động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã
dày cơng xây dựng, vun đắp cho sự lớn mạnh và sự phát triển của Mặt trận
dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của Mặt trận đối với cách mạng
Việt Nam. Đánh giá vai trò của Mặt trận khơng phải chỉ trong CMDTDCND,
mà cịn trong CMXHCN, Người nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ
17


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

nhân dân cũng như trong các mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống
nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”. [9,
605]
Nǎm 1936, trong cuộc Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã lập
Mặt trận Dân chủ Đông Dương.Phong trào Mặt trận Dân chủ lúc đó khá mạnh
mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai. v.v.. Tháng 5-1941, Trung
ương họp Hội nghị lần thứ Tám. Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng
trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; lập Mặt
trận Việt Minh. ” Trong công việc to tát kháng chiến kiến quốc, Mặt trận Liên

Việt - Việt Minh, Cơng đồn, Nơng hội và các đồn thể quần chúng có một
tác dụng rất to lớn. Chúng ta phải giúp cho các đoàn thể ấy phát triển, củng cố
và hoạt động thực sự” [8, 156]
2.1.2 Trong “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV”
Trong nghị quyết hội nghị lần thứ hai, ban chấp hành trung ương
ĐCSVN khóa VII (Số 2-NQ-HNTW, tháng 11/1991): …Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân ở nước ta bao gồm rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp,
tạo thành cơ sở chính trị, chỗ dựa vững chắc của Nhà nước, Vai trị, vị trí của
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng quan trọng, càng được mở rộng,
với nền dân chủ ngày càng phát triển, với nền kinh tế nhiều thành phần, với
nền văn hoá phát huy những giá trị nhân văn cao quý của dân tộc và của nhân
loại. Nhà nước phải dưa vào Mặt trận và các đồn thể, tơn trọng và tạo mọi
điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua đồn thể của minh tham gia
xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước …Cải cách bộ máy Nhà nước còn bao
hàm một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà
nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng quản lý, giám sát bảo vệ Nhà nước.
Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để phát huy quyền làm
chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của
bản thân Nhà nước. …Trong quá trình ra quyết định và quản lý, điều hành,
Quốc hội Hội đồng nhân dân, Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp cần
lằng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đồn thể. Nhà nước cần có
18


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà
nước với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. …Nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình bằng Nhà nước, bằn các Đồn thể nhân dân, bằng các tập

thể lao động và thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị, chỗ dựa vựng
chắc của Nhà nước. Nhà nước tơn trọng quyền đại diện cho lợi ích chính
đáng, hợp pháp của các đoàn thể và tạo mọi điều kiện để các đoàn thể tham
gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước…
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện
và lâu dài. Đi đôi với việc tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, Đảng
hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở miền
Nam. Đó là các đảng bộ miền Nam được củng cố, tôi luyện thành những bộ
tham mưu dày dạn trên tiền tuyến lớn; là khối liên minh công nông mà Đảng
ta đã dày công xây đắp trong cách mạng dân tộc dân chủ; là đội quân chính trị
quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, hai lực lượng chiến đấu cơ bản
trong chiến tranh cách mạng; là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam do Đảng ta lãnh đạo, mặt trận yêu nước bao gồm các đoàn thể của cơng
nhân, nơng dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, các tổ chức tôn giáo và
đại biểu các dân tộc; là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hồ miền Nam
Việt Nam, đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng động viên và tập hợp
đơng đảo các tầng lớp nhân dân miền Nam kháng chiến cứu nước, và tranh
thủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân và chính phủ
nhiều nước trên thế giới.” [6,129]
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV (Do đồng chí Lê Duẩn trình bày, ngày 14 tháng 12
năm 1976): Nhân dân ta, dân tộc ta có truyền thống đồn kết rất đáng tự hào.
Từ khi có Đảng, truyền thống ấy ngày càng phát huy mạnh mẽ trong Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam đã làm trịn nhiệm vụ vẻ vang là động viên
và tập hợp các tầng lớp nhân dân, các dân tộc anh em, các lực lượng cách
19



Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

mạng, yêu nước và tiến bộ ở cả hai miền dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc để
xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chiến đấu cứu nước, hồn thành giải phóng
miền Nam, tạo nên một sức mạnh vĩ đại để đánh thắng quân thù. Đại đoàn kết
trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.1.3 Trong “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”
Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương
cao ngọn cờ đại đồn kết tồn dân, đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện đại đồn kết các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành
phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong
Đảng và người ngồi Đảng, người đang cơng tác và người đã nghỉ hưu, mọi
thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở
nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống u
nước, ý chí tự lực, tự cường và lịng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc
lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái
với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về
quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau,
hướng tới tương lai. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững
chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Xây dựng khối đại đồn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành.
Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX (ngày 19-4-2001): “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết
toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy quyền và trách nhiệm làm chủ
của nhân dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước,
thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác, đạo đức, lối sống của cán
20


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và cơ quan nhà nước, giải quyết
những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.” [7, 222]
2.2 Phương thức hoạt động Mặt trận
Trong quá trình hoạt động, Mặt trận có thể sử dụng những phương thức
khác nhau:
Tuyên truyền giáo dục đường lối chính sách của ĐCS và pháp luật của
nhà nước đối với hội viên và quần chúng của mình
Hoạt động theo quy định của hiến pháp trong việc tham gia tổ chức,
xây dựng, quản lý nhà nước
Xây dựng các chương trình hành động và tổ chức cho quần chúng hội
viên thực hiện chương trình đó
Tham gia các hoạt động phối kết hợp với các tổ chức khác trong nền
dân chủ dưới sự lãnh đạo của ĐCS
Thực hiện một cách có hiệu quả vai trị kiểm tra nhân dân và phản biện
xã hội đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống dân chủ XHCN
Tự hồn thiện mình để nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng nhu
cầu hoàn thiện dân chủ chủ XHCN.
2.2.1 Trong “Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
hai của Đảng”
Theo Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trước hết
phải coi trọng giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng lập trường, quan

điểm giai cấp công nhân cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng. Bởi vì, Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng mà khơng có chủ nghĩa làm
cốt cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Đối với tổ
chức cơ sở đảng, Người yêu cầu: “Phải học tập tinh thần của Chủ nghĩa MácLênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của Chủ nghĩa MácLênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” [11, 250].
Đồng thời, phải giáo dục, động viên, tổ chức cho nhân dân thực hiện tốt
đường lối, chủ trương của Đảng. Lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền,
cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện
21


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

vọng chính đáng của nhân dân. Cơng việc càng khó khăn thì sự lãnh đạo
càng phải liên hợp chặt chẽ với quần chúng, càng phải liên hợp chặt chẽ chính
sách chung với chỉ đạo riêng.
“Để lãnh đạo tốt, các cấp ủy phải thật đoàn kết, thật dân chủ, phải thực
hành chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” [14, 496]
Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự
đoàn kết và thống nhất. Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ
thực sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ từ Trung ương đến cơ sở. Nhưng,
dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và
cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng ta. Trước khi đi xa, Người căn
dặn: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn kết,
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác". Chỉ trên cơ sở đồn kết Đảng mới có sự thống nhất về ý chí
và hành động, triệu người như một để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, vượt qua
bất cứ khó khăn trở ngại nào.

Phát huy vai trị của các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị - xã
hội tham gia tích cực vào cơng tác xây dựng đảng, nhất là việc góp ý kiến,
phê bình cho cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.
“Đồng bào Kinh, hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê đăng
hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh
em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau” [10, 379]
“... Tơi khun đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay
cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay.
Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác đều dịng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con lạc
cháu hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào
lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hố họ. Có như thế mới
thành đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang...” [10, 139]
22


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

“Để phát triển những thuận lợi và khắc phục những khó khăn, điều cần
thiết nhất cho chúng ta là đoàn kết. Ai cũng biết hiện nay chúng ta có hai lớp
cán bộ kháng chiến và kháng bộ khác. Nhưng chúng ta phải biết rằng nay hai
lớp ấy đều là cán bộ của chính quyền nhân dân, tức là như anh em một nhà.
Cho nên chúng ta cần phải xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết
với nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, để cùng phục vụ nhân dân. Đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể
khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi mà làm trịn nhiệm vụ nhân
dân giao phó cho chúng ta.” [13,75]
Mặt trận Việt Minh với “khẩu hiệu chính là: đồn kết tồn dân, chống
Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hỗn cách mạng ruộng đất.

“Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và hợp với
nguyện vọng tồn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết thực mà
đầy đủ của Mặt trận gồm có 10 điểm như bài ca tun truyền đã kể: Có mười
chính sách bày ra, Một là ích quốc, hai là lợi dân. Mười điểm ấy, gồm những
điểm chung cho toàn thể dân tộc và những điểm đấu tranh cho quyền lợi của
công nhân, nông dân và cho mọi tầng lớp nhân dân. Vì thế mà Việt Minh
được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh và cũng do cán bộ rất cố gắng đi sát với
dân, cho nên Việt Minh phát triển rất mau và rất mạnh. Vì Mặt trận phát triển
mạnh, mà Đảng phát triển cũng khá. Đảng lại giúp những anh em trí thức tiến
bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam để thu hút những thanh niên trí thức và
cơng chức Việt Nam, và làm mau tan rã hàng ngũ bọn Đại Việt thân Nhật.”
[8, 166.]
2.2.2 Trong “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV”
Một đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm đôi
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, đó là đặc điểm lớn
nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 năm 1954 đến
tháng 5 năm 1975. Giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với
tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của
toàn dân, toàn quốc vào cuộc chiến đấu cứu nước, đã kết tinh, tổng hợp và
23


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH

phát triển lên một trình độ mới những truyền thống cách mạng và sáng tạo của
Đảng ta và dân tộc ta.
Với hai ngọn cờ đó, cách mạng Việt Nam thể hiện chân lý sáng ngời
của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với
nhau, kết hợp chặt chẽ cuộc chiến đấu cứu nước của nhân dân ta với thế tiến

cơng của ba dịng thác cách mạng, kết hợp những yêu cầu cơ bản của nhân
dân ta với những mục tiêu cách mạng của nhân dân thế giới là hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân
ta với sức mạnh của thời đại, nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng,
chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất to lớn về tinh thần và vật chất của
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến
bộ trên thế giới, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ
Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của cách mạng miền Nam và của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược tiến công. Từ cao trào "đồng khởi"
chuyển thành chiến tranh cách mạng đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ, cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một
q trình liên tục giữ vững thế tiến cơng, liên tục thực hành chiến lược tiến
công. Song, trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, phải biết thắng từng bước nhằm
đánh bại những âm mưu chính trị, quân sự của địch trong từng thời kỳ, đẩy lùi
địch từng bước, không ngừng củng cố trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn
hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn tồn. Trong q trình ấy, Đảng ln
ln coi trọng việc củng cố và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc, nhân tố
thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh cứu nước. Do đó, đi đơi
với đẩy mạnh tiến cơng, Đảng chủ trương kiềm chế và đánh thắng bộ binh
địch ở miền Nam; và khi Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh, Đảng chủ trương
kiên quyết đánh thắng bất kỳ loại chiến tranh nào của Mỹ, đồng thời tìm cách
kéo Mỹ xuống thang từng bước, để tiến lên giành thắng lợi hồn tồn.
“Nhân dân ta, dân tộc ta có truyền thống đồn kết rất đáng tự hào. Từ
khi có Đảng, truyền thống ấy ngày càng phát huy mạnh mẽ trong Mặt trận
dân tộc thống nhất. Trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt
24


Tiểu luận học phần Các tác phẩm Hồ Chí Minh và văn kiện ĐCS Việt Nam về CNXHKH


trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã làm trịn nhiệm vụ vẻ vang là
động viên và tập hợp các tầng lớp nhân dân, các dân tộc anh em, các lực
lượng cách mạng, yêu nước và tiến bộ ở cả hai miền dưới ngọn cờ đại đoàn
kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chiến đấu cứu nước, hồn thành
giải phóng miền Nam, tạo nên một sức mạnh vĩ đại để đánh thắng quân thù.
Đại đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng càng tiến lên thì khối đồn kết trong Mặt trận dân tộc thống
nhất càng được củng cố. Ngày nay, khi cả nước hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa thì
tính chất, nhiệm vụ, thành phần, nội dung hoạt động của Mặt trận có những
thay đổi quan trọng. Vừa qua, Hội nghị hiệp thương giữa Uỷ ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam và Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hồ bình Việt Nam đã quyết định sẽ triệu tập Đại hội thành lập
Mặt trận dân tộc duy nhất trong cả nước. Mặt trận bao gồm nhiều chính đảng,
đồn thể, giai cấp, tầng lớp khác nhau, lấy liên minh cơng nơng làm cơ sở.
Tính chất của nó là Mặt trận yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, và mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa
trở thành lý tưởng chung của mọi thành viên trong Mặt trận. Nhiệm vụ của
Mặt trận là củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc anh em trong
nước, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội, phát huy
nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân, động viên
toàn dân thi đua thực hiện thắng lợi ba cuộc cách mạng, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.” [6, 295]
Trong quần chúng bao giờ cũng có số tiên tiến, số trung bình và số lạc
hậu. Cơng tác quần chúng phải nhằm phát huy và không ngừng mở rộng đội
ngũ tiên tiến, nâng số trung bình lên tiên tiến, thu hẹp diện những người lạc
hậu. Và điều đó chỉ có thể làm được qua phong trào cách mạng của quần

chúng. Có phong trào cách mạng mới làm chuyển biến được tư tưởng của
quần chúng; và chính qua phong trào, bản thân quần chúng tự đánh giá mình
25


×