Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Luận văn: HIỆN TƯỢNG NÓI NGƯỢC TRONG TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.76 KB, 139 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





ĐÀO THỊ THU HƢỜNG


HIỆN TƢỢNG NÓI NGƢỢC TRONG
TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC







THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




ĐÀO THỊ THU HƢỜNG


HIỆN TƢỢNG NÓI NGƢỢC TRONG
TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Lộc



THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
MỤC LỤC
Trang
A- MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 4

3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Lịch sử vấn đề 5
5. Các phương pháp nghiên cứu 8
6. Cấu trúc của luận văn 9
B - NỘI DUNG CHÍNH 10
CHƢƠNG 1: Cơ sở lí thuyết 10
1.1. Một số vấn đề lý thuyết về tu từ học 7
1.2. Một số vấn đề lí thuyết về ngữ dụng học 22
1.3. Một số vấn đề lý thuyết về từ, cụm từ tiếng việt 39
1.4. Kết luận chương 40
CHƢƠNG 2: Hiện tƣợng nói ngƣợc trong tác phẩm Hồ Chí Minh
toàn tập nhìn từ góc độ phƣơng tiện biểu đạt 42
2.1. Phương tiện biểu đạt của hiện tượng nói ngược có cấu tạo là từ 60
2.2. Phương tiện biểu đạt của hiện tượng nói ngược có cấu tạo là cụm từ 54
2.3. Kết luận chương 64
CHƢƠNG 3: Hiện tƣợng nói ngƣợc trong tác phẩm Hồ Chí Minh
toàn tập nhìn từ góc độ ngữ dụng học 65
3.1. Phương thức nói ngược trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập 65
3.2. Hiện tượng nói ngược xét về phương diện hành vi ngôn ngữ (hành vi
ngôn ngữ thể hiện nói ngược) 74
3.3. Hiện tượng nói ngược xét theo lí thuyết hội thoại 104
3.4. Vai trò của hiện tượng nói ngược trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập 11
3.5. Kết luận chương 130
C. KẾT LUẬN 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO 136
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
A- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nói ngược là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thường xuyên
trong nói năng hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn chương và đem lại
hiệu quả diễn đạt cao.
1.2. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh, sáng tác văn
học không phải là hoạt động chủ yếu. Người không có ý định xây dựng và tạo
cho mình một sự nghiệp văn chương như công việc quen thuộc của người
nghệ sĩ nhưng Người đã để lại cho dân tộc ta nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị
lớn về tư tưởng nghệ thuật, như tập thơ Nhật kí trong tù, Truyện và kí và
nhiều áng văn chính luận Những tác phẩm của Người có sức hấp dẫn bởi
chất trí tuệ sắc sảo, kiến thức uyên bác, tình cảm mạnh mẽ, thiết tha Đặc
biệt, Người là một bậc thầy về việc lựa chọn và sử dụng ngôn từ nói chung và
biện pháp nói ngược nói riêng.
1.3. Đến nay chưa thấy có một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu hiện
tượng nói ngược trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập một cách tỉ mỉ, toàn
diện. Vì vậy đối tượng nghiên cứu này vẫn còn là vấn đề mang tính thời sự.
Với những lí do chủ yếu vừa nói, chúng tôi chọn đề tài Hiện tượng nói
ngược trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập để nghiên cứu nhằm mục đích
làm rõ thêm về biện pháp nghệ thuật nói ngược và Hồ Chí Minh đã sử dụng
biện pháp nghệ thuật này như thế nào, biện pháp nghệ thuật này đã đem lại
những giá trị gì cho các tác phẩm của Người. Hy vọng kết quả nghiên cứu và
nguồn ngữ liệu thống kê sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu
hiện tượng nói ngược trong giao tiếp hàng ngày và trong văn học.
2. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện tượng nói ngược được Hồ Chí
Minh sử dụng trong các tác phẩm của Người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
2.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về đối tượng khảo sát: Đối tượng khảo sát là cuốn Hồ Chí Minh toàn
tập, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2002.
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu hiện tượng nói ngược
được thể hiện trong Hồ Chí Minh toàn tập về ba phương diện:
+ Phương tiện ngôn ngữ được dùng (cấu tạo hình thức, ngữ nghĩa)
+ Cơ chế của hiện tượng nói ngược (phương thức, cách thức nói ngược)
+ Hiệu quả diễn đạt của hiện tượng nói ngược.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ thêm về biện pháp nghệ thuật nói ngược về ba phương diện đã
trình bày ở mục 2.2
- Tìm hiểu thêm về cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ Chí Minh
- Làm tư liệu tham khảo cho những ai nghiên cứu hiện tượng nói ngược
và giảng dạy văn thơ Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nói trên, người viết phải đặt ra các nhiệm vụ
chính sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề, lí thuyết liên quan đến việc xử lí đề tài;
- Khảo sát tư liệu, phân loại tư liệu;
- Miêu tả tư liệu, tổng kết tư liệu;
- Kết luận nội dung, kết quả nghiên cứu.
4. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, nói ngược là một trong những biện pháp tu từ được các nhà
văn, nhà thơ, nhà báo sử dụng phổ biến trong các sáng tác của mình. Bằng thủ
pháp nghệ thuật này, các tác giả đã tạo ra được một cách viết sáng tạo và đầy
sức lôi cuốn người đọc với hình thức đả kích, châm biếm sâu cay nhưng dí
dỏm và luôn mới mẻ, bất ngờ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

Nói ngược cũng đã ít nhiều được các nhà khoa học quan tâm xem xét.
Ở từng công trình nghiên cứu, tùy từng mục đích nghiên cứu, các tác giả đã
tìm hiểu hiện tượng nói ngược ở những phương diện và cấp độ khác nhau.
Luận văn này chia những công trình nghiên cứu về nói ngược thành hai nhóm
theo nội dung của chúng.
Nhóm thứ nhất là những công trình chuyên trình bày khái niệm, cấu
tạo của nói ngược. Nhóm thứ hai là những công trình nghiên cứu về nói
ngược trong một tác phẩm cụ thể.
4.1. Về nhóm các công trình đưa ra khái niệm về nói ngược, đã có một số
nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến riêng của mình về hiện tượng nói ngược.
Dưới đây là một số công trình tiêu biểu và những quan niệm của tác giả:
+ Đinh Trọng Lạc trong 99 biện pháp và phương tiện tu từ tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, năm 2000 đã nêu:
Nói mỉa là một phương thức chuyển tên gọi từ một sự vật này sang một
sự vật khác, dựa vào sự đối lập giữa cách đánh giá tốt được diễn đạt một
cách hiển minh với cách đánh giá ngụ ý xấu theo nghĩa hàm ẩn đối với sự vật
[19, tr.8].
+ Cuốn Phong cách học tiếng Việt (Đinh Trọng Lạc – Nguyễn Thái
Hòa - Nxb Giáo dục) cũng đã đưa ra một khái niệm về nói ngược nhưng các
tác giả gọi hiện tượng ngôn ngữ này là phản ngữ:
Phản ngữ không phải là phép đối hay đối lập mà chính là phép nghịch
ngữ, hay tương phản tức là phương thức dùng nghĩa trái ngược để chỉ ra một
sự thật chứa đựng mâu thuẫn [20, tr.217].
Ngoài ra, trong cuốn sách trên, các tác giả cho rằng: kiểu nói nghịch
ngữ không chỉ vui đùa mà có thể diễn tả một ý kín đáo, một sự phê phán hoặc
phản ánh một nghịch lí xã hội.
Như vậy, hầu hết khi nghiên cứu về hiện tượng nói ngược các tác giả đều
bước đầu đưa ra được khái niệm về nói ngược nhưng chưa phân tích, chỉ rõ cấu
tạo của hiện tượng này trong văn cảnh hoặc đặt trong chức năng giao tiếp để từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
đó giúp chúng ta hiểu rõ tác dụng của hiện tượng này cũng như góp phần khẳng
định những giá trị của tác phẩm có sử dụng thủ pháp nghệ thuật này.
4.2. Về nhóm các công trình nghiên cứu về nói ngược trong một tác
phẩm cụ thể. Dưới đây là một số các công trình tiêu biểu:
+ Bµi “Giải mã hiện tượng nói ngược trong đồng dao” cña TriÒu
Nguyªn in trên Tạp chí nghiên cứu văn hóa dân gian Thừa thiên Huế, số 12
năm 2008.
Điểm nổi bật của bài viết này là tác giả đưa ra khái niệm nói ngược
trong đồng dao: Nói ngược trong đồng dao là lối nói không xuôi, không thuận
như bình thường, đó là đánh tráo đặc điểm, hay hoạt động, tính chất giữa hai
sự vật, sự việc nêu sóng kèm nhau, khiến chúng tréo hèo. Mỗi đơn vị nói
ngược gồm hai hình ảnh tréo nhau ấy. Đặc biệt, tác giả đã phân loại nói
ngược trong đồng dao một cách khá kỹ dựa vào các tiêu chí là số lượng dòng
thơ mà đơn vị nói ngược thể hiện, dựa vào mô hình cấu trúc mà các đơn vị
nói ngược sử dụng. Cuối cùng, tác giả nhận xét vai trò của nói ngược trong
đồng dao: nó đề cập đến các sự vật hiện tượng tự nhiên, chú ý đến con người
qua hoạt động để sinh tồn, nó quan tâm đến con người xã hội,
+ Bµi “Con cò mà đi ăn đêm: nói ngược - ngụ ngôn - trữ tình” cña
NguyÔn Hïng VÜ được in trên trang http:/ khoa van học- ush.edu.vn.
Trong bài viết này, tác giả không đưa ra khái niệm về nói ngược, các kiểu
cấu tạo của nói ngược về nội dung và hình thức. Điểm nổi bật của bài viết này là
tác giả đã phân tích, chỉ rõ cho người đọc thấy được trong bài ca dao Con cò có 6
câu thì cả 6 câu đều chứa đựng những yếu tố nói ngược dù kín đáo hay rõ ràng,
tác giả cho rằng cho dù được che lấp bởi các thao tác miêu tả thì vẫn không dấu
được các yếu tố nói ngược khi đặt nó vào kinh nghiệm dân gian truyền thống.
Đồng thời, sau khi phân tích rất kỹ lưỡng các yếu tố nói ngược trong các câu ca
dao, tác giả đã đánh giá công dụng của lối nói ngược trong ca dao nói chung và
trong bài ca dao Con cò nói riêng. Tác giả cho rằng ca dao nói ngược có nhiều

công dụng để nhận thức tồn tại khách quan (miêu tả) và biểu hiện tâm trạng
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

8
nhõn dõn (tr tỡnh) v li núi ngc trong bi ca dao Con cũ cú tỏc dng rỳt ra
bi hc nhn thc cho mi ngi v nim khao khỏt hnh phỳc.
+ Bài Vè nói ng-ợc - một kiểu đồng dao độc đáo của Nguyễn Định
Trung, in trên Tạp chí văn hóa dân gian số 1, năm 1997, trang 80-84:
Nguyn nh Trung ó a ra nhn nh ca mỡnh v nhng bi ng dao
núi ngc l nhng cõu vn vố ng tỏc giỳp ỏm tr hỏt vui, dớ dm, ng
nghnh, thớch thỳ nờn c th c truyn khu v sng mói trong cuc i dõn
dó, vic giỏo dc tr th ch l mc ớch song hnh nh nhng.
+ Luận văn tốt nghiệp Tỡm hiu th phỏp núi ngc ca Nguyn ỏi
Quc trong Bn ỏn ch thc dõn phỏp truyn v kớ của Phùng Thị
Thanh, lun vn tt nghip trng i hc s Phm Thỏi Nguyờn. Trong
cụng trỡnh ny, tỏc gi ó a ra khỏi nim v núi ngc, phõn loi núi ngc
v ni dung v hỡnh thc v nờu tỏc dng ca núi ngc trong tỏc phm Bản
án chế độ thực dân Pháp. Hn ch ca cụng trỡnh ny l tỏc gi cha nghiờn
cu hin tng núi ngc xột v phng din ng dng hc.
Túm li, cỏc cụng trỡnh nghiờn cu dn trờn cho thy, cỏc nh khoa hc ó
tp trung thng kờ, tỡm hiu v mt s ni dung ca hin tng núi ngc. Song
cha cú mt cụng trỡnh no nghiờn cu mt cỏch h thng, ton din v hin
tng núi ngc trong tỏc phm H Chớ Minh ton tp. Tuy nhiờn, nhng cụng
trỡnh nghiờn cu ó cú v hin tng núi ngc l nhng gi m cú giỏ tr, l
tin khoa hc cho vic nghiờn cu v hin tng núi ngc ca lun vn ny.
5. Cỏc phng phỏp nghiờn cu
Thc hin ti ny, lun vn s dng cỏc phng phỏp nghiờn cu
ch yu sau õy:
5.1. Phng phỏp thng kờ - phõn loi
Cỏc phng phỏp nghiờn cu ny c dựng thng kờ v phõn loi

t liu theo cỏc tiờu chớ ó nh trc.
5.2. Phng phỏp phõn tớch - tng hp
Cỏc phng phỏp nghiờn cu ny c dựng miờu t ngun ng liu
thng kờ theo cỏc nhúm ó phõn loi v tng kt cỏc kt qu nghiờn cu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp nghiên cứu này được dùng để so sánh hiệu quả diễn đạt
của biện pháp nói ngược với hiệu quả diễn đạt của một vài biện pháp tu từ
khác, góp phần khẳng định thêm về giá trị của biện pháp nói ngược.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tư liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Hiện tượng nói ngược trong t¸c phÈm Hồ Chí Minh toàn
tập nhìn từ góc độ phương tiện biểu đạt.
Chƣơng 3: Hiện tượng nói ngược trong t¸c phÈm Hồ Chí Minh toàn
tập dưới góc nhìn của ngữ dụng học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
B - NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ TU TỪ HỌC
1.1.1. Khái niệm biện pháp tu từ
Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói
các phương tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không trong một

ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình
ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh).
Biện pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt trong một hoàn
cảnh cụ thể, nhằm một mục đích tu từ nhất định. Nó đối lập với biện pháp sử
dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh, nhằm mục đích diễn đạt lí trí.
1.1.2. Sơ lƣợc về biện pháp tu từ, phân biệt biện pháp tu từ và phƣơng
tiện tu từ trong tiếng Việt
1.1.2.1. Một số biện pháp tu từ thƣờng gặp trong tiếng Việt
a. Biện pháp đối lập - tƣơng phản
* Khái niệm biện pháp đối lập - tương phản
Biện pháp đối lập tương phản là biện pháp sử dụng các phương tiện
ngôn ngữ trái nghĩa. Chúng có thể là các từ ngữ trái nghĩa từ vựng hoặc các từ
ngữ trái nghĩa ngữ cảnh. Những từ trái nghĩa là biểu hiện cực đoan của quan
hệ đối lập về ý nghĩa các từ cùng nằm trong một trường nghĩa. Biện pháp đối
lập tương phản là các đơn vị trong một ngôn ngữ có ý nghĩa đối lập nhau.
* Các biện pháp đối lập - tương phản
Biện pháp đối lập tương phản được một số nhà ngôn ngữ học chia
thành hai loại: đối lập tương phản là trái nghĩa từ vựng và đối lập tương phản
là trái nghĩa ngữ cảnh
- Trái nghĩa từ vựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
+ Khái niệm trái nghĩa từ vựng
Theo Hoàng Phê, trái nghĩa từ vựng là những từ có nghĩa trái ngược nhau
Theo Vũ Đức Nghiệu và Nguyễn Thiện Giáp:
. “ Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau trong mối quan
hệ tương liên. Chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh những khái niệm
tương phản về lôgic‟‟ [27, tr.199].
.“Từ trái nghĩa là những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập về ý nghĩa, biểu

hiện khái niệm tương phản về logic, nhưng tương liên lẫn nhau‟‟ [14, tr.205].
Hai định nghĩa vừa dẫn tương đối toàn diện vì định nghĩa không chỉ chú ý
đến các nét nghĩa của từ mà còn chú ý đến nhiều mặt của từ trái nghĩa.
Từ trái nghĩa phần lớn là tính từ, tiếp đó là động từ và danh từ. Trong
mỗi trường nghĩa thường xuất hiện các từ đồng nghĩa và trái nghĩa nhau tạo
sự phong phú cho ngôn ngữ. Ví dụ:
.Từ trái nghĩa là tính từ như:
Cao- thấp
To- nhỏ
Xấu - đẹp
Xa - gần
. Từ trái nghĩa là động từ:
Ra - vào
Lên - xuống
Cười - khóc
.Từ trái nghĩa là danh từ như:
Trời - đất
Nam - Bắc
+ Phân loại trái nghĩa từ vựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Tùy theo các nhà nghiên cứu hiểu về các từ trái nghĩa mà có cách phân
loại khác nhau. Có thể phân loại từ trái nghĩa dựa vào tính chất, mức độ đối
lập của nó. Theo tiêu chí này có thể chia hiện tượng trái nghĩa từ vựng thành
hai kiểu: từ trái nghĩa loại trừ lẫn nhau và từ trái nghĩa biểu thị trạng thái tính
chất đối lập nhau nhưng có thể có điểm trung gian.
Ở loại thứ nhất, hai từ trái nghĩa nhau nằm ở hai thái cực đối lập không
có từ nào mang tính chất trung gian giữa chúng. Ý nghĩa đối lập, mang tính
chất tuyệt đối, loại trừ lẫn nhau. Hai yếu tố đó không bao giờ cùng tồn tại

trong cùng một sự vật, sự việc hoặc hiện tượng.
Sống- chết
Nô lệ- tự do
Bẩn thỉu- sạch sẽ
Còn ở loại thứ hai thì giữa hai từ trái nghĩa nhau còn có yếu tố trung
gian mang tính chất trung hòa.
Giỏi- trung bình- dốt
To- nhỡ- nhỏ
+ Đặc điểm của trái nghĩa từ vựng
Trong trái nghĩa từ vựng, ý nghĩa đối lập là ý nghĩa tự thân ở các từ, nó
không phụ thuộc vào hoàn cảnh nói năng, giao tiếp, không phụ thuộc vào ngữ
cảnh. Nó có thể xảy ra giữa từ với từ hoặc cụn từ mang ý nghĩa phủ định.
. Từ với từ:
Gầy - béo
Xấu - đẹp
Thuận lợi- khó khăn
.Từ với cụm từ:
Yêu- không yêu
Chính nghĩa- phi nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Từ trái nghĩa là cơ sở để tạo ra phép đối lập trong thơ văn. Nó có sức
biểu cảm lớn giúp ta hiểu sâu thêm ý nghĩa của từ.
- Trái nghĩa ngữ cảnh
+ Khái niệm trái nghĩa ngữ cảnh
Trái nghĩa ngữ cảnh là kiểu trái nghĩa mà bản thân các từ ngữ vốn
không hề có ý nghĩa đối lập nhau nhưng khi đặt chúng trong một số ngữ cảnh
nhất định nào đó thì chúng lại trở thành trái nghĩa với nhau.
Ví dụ (1). Đầu voi đuôi chuột

Lên voi xuống chó
Ở đây, các từ voi- chuột và các từ voi- chó thực ra không hề trái nghĩa
với nhau nhưng khi đặt trong câu thành ngữ này thì chúng lại trở thành đối lập
trái nghĩa với nhau. Nghĩa là chỉ ở trong ngữ cảnh này thì các từ voi - chuột
và các từ voi - chó mới trái nghĩa với nhau còn tách khỏi ngữ cảnh này thì
chúng không hề có ý nghĩa hoặc đặc tính đối lập.
Như vậy, trái nghĩa ngữ cảnh muốn hiểu được thường phải thông qua ý
nghĩa gián tiếp có thể là có cả hai yếu tố hoặc một yếu tố tìm thấy nghĩa gốc,
qua đó suy ra nghĩa của yếu tố còn lại.
b. Nghịch ngữ (còn gọi là nghịch dụ)
* Khái niệm
Theo §inh Träng L¹c: “Nghịch ngữ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa cốt
ở việc kết hợp liền nhau hoặc gần nhau những đơn vị cú pháp đối lập nhau về
nghĩa trong mối quan hệ ngữ pháp chính phụ, để tạo nên một sự khẳng định, đôi
khi rất bất ngờ nhưng lại rất tự nhiên, thuận lí, biện chứng”[6, tr.168].
* Cấu trúc của nghịch ngữ rất đa dạng: Những thành tố được kết hợp
có thể nằm trong những quan hệ cú pháp định ngữ, trạng ngữ
Nghịch ngữ bao giờ cũng được diễn đạt bằng cụm từ chứ không phải
bằng câu.
Ví dụ (2).
Công việc khai hóa người Marốc bằng đại bác vẫn tiếp diễn[7, tr.170].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.1.2.2. Phân biệt biện pháp tu từ và phƣơng tiện tu từ
a. Khái niệm phƣơng tiện tu từ
Phương tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản
(ý nghĩa sự vật logic ra) chúng còn có ý nghĩa bổ sung còn gọi là màu sắc tu từ.
b. Phân biệt biện pháp tu từ và phƣơng tiện tu từ
Theo Đinh Trọng Lạc trong 99 biện pháp và phƣơng tiện tu từ tiếng

Việt, Nxb Giáo dục, năm 2000, các biện pháp tu từ cần được phân biệt với
các phương tiện tu từ ở những đặc trưng sau:
Thứ nhất: Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng các đơn vị
lời nói trong giới hạn của một đơn vị thuộc bậc cao hơn. Còn phương tiện tu
từ là những yếu tố ngôn ngữ thuộc các cấp độ khác nhau, được đánh dấu về tu
từ học trong giới hạn nào đó của một ngôn ngữ.
Thứ hai: Ý nghĩa Tu từ học của biện pháp tu từ này sinh ra trong ngữ
cảnh của một đơn vị lời nói nào đó. Còn ý nghĩa Tu từ học của phương tiện tu
từ được củng cố ở ngay phương tiện đó.
Thứ ba: Ý nghĩa Tu từ học của biện pháp tu từ bị quy định bởi những
quan hệ cú đoạn giữa các đơn vị của một bậc hay của các bậc khác nhau. Còn
ý nghĩa Tu từ học của phương tiện tu từ bị quy định bởi những quan hệ hệ
hình của những yếu tố cùng bậc.
Tuy rằng giữa các biện pháp tu từ và các phương tiện tu từ có những sự
khác biệt rõ rệt như vậy nhưng giữa chúng vẫn có mối quan hệ biện chứng.
Một mặt, việc sử dụng các phương tiện tu từ sẽ tạo ra các biện pháp tu từ, mặt
khác việc sử dụng một biện pháp tu từ nào đó trong lời nói cũng có thể
chuyển hóa nó thành một phương tiện tu từ, đây chính là trường hợp của
những cái gọi là so sánh, phóng đại đã mòn đi trong thời gian.
1.1.3. Khái quát về hiện tƣợng nói ngƣợc
1.1.3.1. Khái niệm về hiện tƣợng nói ngƣợc
Có thể gọi nói ngược là phản ngữ - một biện pháp tu từ ngữ nghĩa mang
tính nghệ thuật sử dụng ngôn từ mà trong văn cảnh, nội dung ý nghĩa của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
phương tiện ngôn ngữ được hiểu theo nghĩa ngược lại với nghĩa vốn có. Đó là
sự diễn đạt hiển minh với cách đánh giá tốt (xấu) được hiểu theo nghĩa đối lập
là cách đánh giá ngụ ý xấu (tốt) đối với sự vật thông qua nghĩa hàm ẩn (nói
mặt này để biểu thị mặt kia và ngược lại). Qua cách nói đó, biểu thị thái độ,

tình cảm của người nói đối với những đối tượng được nói đến.
1.1.3.2. Cơ chế (phƣơng thức) nói ngƣợc
* Nói ngược bằng cách đánh tráo đặc điểm, bản chất của các đối tượng.
Ví dụ (3).
Trâu thì nhảy nhót đi chơi
Chích chòe cày ruộng cho người lúa khoai [22, tr.112].

* Nói ngược bằng cách gán cho sự vật, đối tượng những tính chất đối
lập với bản chất vốn có của chúng.
Ví dụ (4).
Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốtlão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà, be rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đuổi đàn cá rô
Lúa mạ nhảy lên ăn bò [35, tr.125].
1.1.3.3. Các phƣơng tiện ngôn ngữ sử dụng trong hiện tƣợng nói ngƣợc (Các
phƣơng tiện ngôn ngữ dùng thể hiện lối nói ngƣợc)
Theo tiêu chí cấu tạo của các phương tiện ngôn ngữ dùng để nói ngược
(tức hình thức của biện pháp nói ngược) có thể chia biện pháp nói ngược
thành các kiểu:
* Biện pháp nói ngược có hình thức cấu tạo là một từ:
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

16
Vớ d (5). Bèo chìm
Lim nổi [22, tr.58].

* Bin phỏp núi ngc cú hỡnh thc cu ro l mt cm t:
Vớ d (6).
- ng y núi cho t bit ln u m ng y i thỡ gp mt nh ch
nh th no, v ng y ó ngh ngi ra lm sao ?
- i cho ! Kh tuyt trn i anh . Tụi tng lỳc y tụi cht ngay c.
Bc th nht, cỏi i v ngay phi mt m ch l mt me Tõy, ht
duyờn v gi. Cỏi i ó phi n úi, lm no v mi ngy git ba chu
qun ỏo thm nc nhng mựi ụ u. Mi ngy, ba trm ln, m chi cỏi
i, khi hi n y t, l phi gi c tiờn s cha y t ra, ly oai
V ba y, gin cỏ chộm tht, ụng ch cng c gi con sen ra, tng cho
mi hai cỏi bt tai, mc du nú chng ỏng ti tỡnh gỡ [24, tr.530].
* Bin phỏp núi ngc cú hỡnh thc cu to l mt cõu:
Vớ d (7). Tri ma mang ỏo ra phi
n khi tri nng mang ti i cy
Hn hỏn thỡ rung nc y
Ma sụng nt n rung lầy ai i [22, tr.131].
Trong ví dụ này, ta thấy có bốn câu là bốn đơn vị nói ng-ợc: Trời m-a
-phơi áo, trời nắng - đi cày, hạn hán thì ruộng n-ớc đầy, m-a sông nứt nẻ
ruộng lầy.
1.1.3.4. Vai trũ ca hin tng núi ngc
Núi ngc cú nhiu cụng dng nhn thc tn ti khỏch quan (miờu
t) v biu hin tõm trng.
V phng din nhn thc, núi ngc miờu t cỏi thuc tớnh nghch ca
tn ti cú th phỏt hin thuc tớnh thun tt yu. Núi ngc l s hoỏn i
thuc tớnh theo tng cp nhn thc quan h ca tn ti khỏch quan hoc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
phát hiện nhiều thuộc tính trong một đối tượng và đánh tráo các thuộc tính đó
để nhận thức tồn tại đa dạng, sâu sắc hơn.

Về phương diện trữ tình, yếu tố nói ngược tham gia biểu hiện tâm trạng
của nhân vật trữ tình: thái độ vui vẻ khi phát hiện thực tại, đồng tình hoặc phê
phán trước hiện thực, đặc biệt nó hữu dụng khi diễn đạt các tâm sự tới hạn,
bức xúc.
Về phương diện mĩ cảm, nói ngược đem đến cái hài, cái bi, rút ra
những triết lý thấm thía về cuộc đời, nhân tình thế thái.
Nói ngược đã làm nảy sinh lượng ngữ nghĩa mới, lượng ngữ nghĩa này
là kết quả tác động tương hỗ của các lượng ngữ nghĩa trong thông báo. Vì
vậy, hiện tượng nói ngược có tác dụng tập trung sự chú ý của người nghe,
người đọc để nhấn mạnh đến các khía cạnh khác nhau của một vấn đề cho
mọi người suy nghĩ và thực hiện nhưng không gây cảm giác đơn điệu, buồn
chán. Cho nên, việc sử dụng hiện tượng nói ngược trong tác phẩm văn
chương có vai trò quan trọng và rất cần thiết đối với việc góp phần làm nên
giá trị của tác phẩm cũng như tạo nên phong cách tác giả, và giúp việc tiếp
nhận tác phẩm của độc giả đạt hiệu quả hơn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nói ngược góp phần khắc họa tính cách, đặc điểm, hình
thức của nhân vật.
Ví dụ (8).
Ngưu là con bò tót
Đinh giằng là cối xay
Thầy dạy chữ hay quá
Xin thầy về đi cày
(Ngưu là con bò tót)
Thầy dạy chữ hay (giỏi chữ) ở đây được hiểu theo nghĩa ngược lại là
thầy dạy dốt chữ, dạy dở và sai kiến thức. Bởi vì, nếu đã thật hay, thật giỏi thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
thầy lại không dạy chữ một cách tùy tiện và sai nghĩa như vậy. Hơn nữa nếu
thầy có kiến thức, dạy hay, dạy giỏi thì thầy không bị đuổi ra khỏi nhà.

Thứ hai, nói ngược góp phần phản ánh hiện thực một cách chính xác
Ví dụ (9).
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo,
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải
Thằng bé lom khom ghé hát chèo
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu [18, tr.747].
Khen ai ở đây chính là lời mỉa mai, lời chế giễu ngày hội mừng cách
mạng tư sản Pháp thành công của bọn thực dân Pháp. Bằng việc sử dụng thủ
pháp nói ngược, kết hợp với việc miêu tả chi tiết, chân thực ngày hội do bọn
thực dân Pháp tổ chức nhằm mua vui, làm nhục đồng bào ta, nhà thơ Nguyễn
Khuyến đã vạch trần cái nhố nhăng của xã hội, cái bất nhân của lũ quan lại
tay sai và bọ thực dân cướp nước.
Ví dụ (10).
Có lẽ vào trong những đêm không trăng không sao, người nhà quê vùng
Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình, mỗi khi ra
sân quay về một phía trời, thấy có một vùng hào quàng sáng rực. Đó là Hà
Nội, nơi nghìn năm văn vật, dân gian tiền nhiều của lắm, dễ kiếm sinh nhai
Người nhà quê cứ việc bỏ làng mà đi. Một ngày kia, rồi sẽ được nằm trong
một xó sân ngửi mùi nước cống, mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà
nhìn lên trời, như đêm nay, có cả ánh sáng trăng vằng vặc [24, tr.531].
Đoạn văn trên là một đoạn phim trong toàn cảnh của bộ phim Hà Nội nhìn
từ phía cổng hậu. Căn cứ vài ngữ cảnh, động từ được mà tác giả sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
trong ví dụ trên mang ý nghĩa trái ngược hoàn toàn. Được vốn mang ý nghĩa

tình thái là may, là tốt nhưng trong trường hợp này, được thể hiện những sự
việc mang tính chất trái ngược với nghĩa của nó, đó là sự khổ cực của những
người dân lao động nghèo từ khắp các tỉnh trên cả nước vì miếng cơm manh
áo mà phải đến một nơi hoàn toàn xa lạ - Hà Nội và phải chịu một cuộc sống
thiếu thốn khổ cực. Qua đó, hiện thực xã hội hiện lên rất rõ nét. Cơm thầy
cơm cô là một thiên phóng sự về Hà Nội thời cũ. Không phải Hà Nội nhìn từ
mặt trên thơm tho, hoa lệ mà từ phái cổng hậu tối tăm, hôi hám. ở đây có
những cái chợ bán người với những mụ chủ thầu hết sức xảo quyệt. Bọn này
đem bày ra hè phố đủ thứ hàng tươi sống nam, phu, lão, ấu rách rưới, đói khát
để chào khách với giá rẻ mạt nhất. Cạnh đó là bãi chứa hàng tồn kho vì ế ẩm:
nơi sân sau của những quán cơm mạt hạng, người ta phải nằm ngồi bên những
cống rãnh, những đống rác sặc mùi cá thối, mùi phân nước tiểu, đờm rãi, mùi
bùn và rêu lưu niên.
Thứ ba, nói ngược còn có chức năng bộc lộ thái độ của tác giả đối
với hiện thực hay nhân vật.
Ví dụ (11).
Theo tin của báo Đông Pháp, mới đây, có mấy ông quan tỉnh Bắc Kỳ đã
trình với quan thống sứ thế này: Đàn bà ở An Nam có nhiều gái góa và nhiều
người ở một mình mà gia tư cũng khá giàu có, lợi tức về sản nghiệp của họ mỗi
năm có thể được một vài thứ thuế. Rồi các người ấy xin quan thống sứ cho
những người đàn bà cô độc An Nam cũng được đóng thuế như đàn ông vậy.
Đáo để. Tôi phục mấy vị đó thật là xứng đáng là ông quan thương dân,
con mắt của các ngài đã soi khắp từ ngọn cây đến ngọn cỏ vậy.
Không biết mấy vị quý hóa ấy là những ông nào ? ë đường xuôi hay
đường ngược, tên tuổi là gì. Cớ sao người ta không nói cho rõ, để cho dân
chúng đời đời nhớ ơn ?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Không phải nói đùa. Dân chúng An Nam nên đời đời nhớ ơn những ông

đầu tỉnh ấy mới phải. Bởi vì cái sáng kiến của mấy ông ấy, ngoài sự giúp cho
công quỹ, nó còn là việc nhân đạo có quan hệ đến công cuộc khai hóa xứ này
[18, tr.103].
Có thể nói, chỉ trong một đoạn văn ngắn Ngô Tất Tố đã sử dụng mật độ
thủ pháp nói ngược dày đặc với nhiều kiểu diễn đạt khác nhau nên không gây
sự nhàm chán cho người đọc mà vẫn có sức công kích rất lớn.
Tác giả nói tới cái sáng kiến của mấy ông quan tỉnh Bắc kì đó là bắt đàn
bà cô độc An Nam đóng thuế như đàn ông. Như chúng ta đã biết, khi thực dân
Pháp đặt gót giày đinh lên địa phận nước ta nhằm biến nước Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới của Pháp, chúng đã bóc lột sức lao động của nhân dân ta đến
kiệt sức bằng thuốc phiện, bằng chính chính sách ngu dân Đặc biệt, quân xâm
lược đã đề ra những thứ thuế rất vô lí bắt nhân dân ta phải nộp cho chúng như
thuế thân, thuế sông nước, thuế đất, nhiều gia đình đã phải bán vợ đợ con vì
những thứ thuế vô lí ấy. Nhà văn viết: Đàn bà cô độc An Nam được đóng thuế,
từ được biểu thị ý nghĩa là may, là tốt nhưng đặt trong văn cảnh trên chỉ sự việc
mang tính chất trái ngược với nghĩa của động từ ấy- đó là sự khôkhông may của
nhân dân ta vì phải chịu ách áp bức của thực dân Pháp. Vì vậy, những từ phục,
quý hóa, nhớ ơn được hiểu theo nghĩa ngược lại thể hiện sự mỉa mai phê phán
những chính sách cai trị bất công của thực dân Pháp. Bằng việc sử dụng hiện
tượng nói ngược dày đặc ở đoạn văn trên, Ngô Tất Tố không những đã phơi bày
hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ một cách chính xác, chân thực mà còn
bộc lộ thái độ phê phán, đả kích chế độ cai trị bất công và những thủ đoạn dã
man của thực dân Pháp. Qua đó nhà văn gián tiếp miêu tả cuộc sống đau đớn
tủi nhục của nhân dân An Nam lúc bấy giờ. Đồng thời cách nói ngược đã góp
phần thể hiện thái độ đau xót, sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn với nhân dân
Việt Nam.
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

21
Th t, núi ngc cũn th hin cuc sng xó hi v t nhiờn y

nghch lớ, nhng vic lm nghch lớ, hoc th hin c im ca s vt hin
tng nghch lớ.
Vớ d (12).
(Dẫn lại ví dụ 4)
Bao gi cho n thỏng ba
ch cn c rn tha ra ngoi ng
Hựm nm cho ln lim lụng
Mt chc qu hng nut lóo tỏm mi
Nm xụi nut tr lờn mi
Con g, be ru nut ngi lao ao
Ln nm cho trỳm bũ vo
Mt n co co ui n cỏ rụ
Lỳa m nhy lờn n bũ
C nn, c lỏc rỡnh mũ bt trõu
G con ui bt diu hõu
Chim ri ui ỏnh v u b nụng [32, tr.125].
Trong bi ng dao ny, cú 11 ln xut hin bin phỏp núi ngc, cỏc
s vt c miờu t hon ton ngc li vi hin thc. Dng nh c mt th
gii s vt cú s hoỏn i chc nng, c im vi nhau. Cú th ngi dõn
lao ng ó khụng ch tip thu bi ng dao ny vi trớ tng tng o
nghch m cũn hiu ngm l phn ỏnh nhng nghch lớ ca cuc sng.
Vớ d (13).
Vút ct m khõu ỏo qun
Ly kim m chng nờn thõn ca nh
Ci mc thỡ n ra hoa
Thõn cõy ti tt thỡ tra vo lũ [22, tr.201].
Hoặc nói ng-ợc thể hiện nghịch lí cốt là để vui đùa:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22

VÝ dô (14 ). Bµ giµ dung dÎ ®i ch¬i
TrÎ em läm khäm lo ng-êi ®Êm l-ng [22, tr.108].
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ NGỮ DỤNG HỌC
1.2.1. Khái quát về chiếu vật
1.2.1.1. Khái niệm chiếu vật
Theo Đỗ Hữu Châu: “Thuật ngữ chiếu vật được dùng để chỉ phương
tiện nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu thức này
người nói nghĩ rằng nó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng
đắn thực thể nào, đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến”
[1, tr.61].
1.2.1.2. Các phƣơng thức chiếu vật
a) Khái niệm phƣơng thức chiếu vật
Theo Đỗ Hữu Châu: “ Phương thức chiếu vật là cách thức mà con người
sử dụng để thực hiện hành vi chiếu vật. Chúng cũng là con đường mà người
nghe tìm ra nghĩa chiếu vật từ các biểu thức chiếu vật nghe được ” [ 5, tr.64 ].
b) Các phƣơng thức chiếu vật
Có 3 phương thức lớn:
* Dùng tên riêng
Tên riêng là tên đặt cho từng sự vật. Trong một tập hợp sự vật cùng loại
để xác định từng nghĩa chiếu vật cho từng cá thể ta đặt tên cho từng cá thể đó.
Từ đó xác định được nghĩa chiếu vật của cá thể đó. Tên riêng không phải
hoàn toàn không có nghĩa biểu niệm. Để giúp người nghe khắc phục được
tình trạng mơ hồ chiếu vật với hiện tượng trùng tên riêng không cùng một
phạm trù, người nói thường thêm danh từ chung như chị, bà, cô, kèm theo
với tên riêng đó (chị Hương Giang, khách sạn Hương Giang ).
Gặp trường hợp các sự vật, người, tức các sự vật trong cùng một phạm
trù trùng tên với nhau, để khỏi mơ hồ chúng ta thường dùng định ngữ hoặc
các tiểu danh sau tên riêng. Ví dụ ta nói Hồng cận, Hồng gầy khi có vài ba
người quen tên là Hồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23
Chức năng cơ bản của tên riêng là chỉ cá thể sự vật đúng với phạm trù
của cá thể được gọi bằng tên riêng đó. Ví dụ tên riêng chỉ người có chức năng
cơ bản là chỉ cá thể người trong phạm trù người, tên riêng của sông, núi có
chức năng cơ bản là chỉ cá thể núi sông trong phạm trù vật thể tự nhiên Tuy
nhiên trong sử dụng, tên riêng có thể được dùng theo lối dịch chuyển phạm
trù theo phương thức chuyển nghĩa hoán dụ. Đó là trường hợp thí dụ như
dùng tên địa phương để chỉ người (Cụ Tiên Điền; Tiên Điền là tên làng, ở đây
dùng với nghĩa chiếu vật) .
Dùng tên riêng là phương thức dễ nhất để xác định nghĩa chiếu vật.
Chức năng và cách dùng tên riêng sẽ là cơ sở để lý giải các phương thức
chiếu vật khác.
* Phương thức dùng biểu thức miêu tả
Phương thức dùng biểu thức miêu tả là phương thức dùng một biểu
thức ngôn ngữ để xác định cho đối tượng không cùng tên riêng chỉ có tên
chung hoặc có tên riêng nhưng người ta không muốn dùng tên riêng để xác
định nghĩa chiếu vật. Ví dụ: Mèo là tên chung dùng để chỉ loại mèo (mèo là
động vật có ích). Để xác định nghĩa chiếu vật biểu thức chiếu vật như: con
mèo nhà em. Các yếu tố phụ: con, nhà em đã tách con mèo đang được nói tới
ra khỏi các con mèo nói chung, khiến con mèo mang nghĩa chiếu vật cá thể.
* Phương thức chỉ xuất
Trong thực tế, có khi chúng ta dùng tay để chỉ sự vật ta muốn nói tới.
Tức là dùng động tác chỉ trỏ để thực hiện hành vi chiếu vật. Chỉ xuất là
phương thức chiếu vật bằng ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ trỏ. Quy tắc
điều khiển chỉ trỏ là sự vật được chỉ trỏ phải ở gần (trong tầm tay với của
người chỉ và trong tầm nhìn của của cả người chỉ) lẫn người được chỉ đối với
một vị trí được lấy làm mốc.
Ba phạm trù chỉ xuất trong các ngôn ngữ là phạm trù ngôi (nhân xưng),
phạm trù chỉ xuất không gian, phạm trù chỉ xuất thời gian.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
1.2.1.3. Phân loại nghĩa chiếu vật
Chiếu vật là sự tương ứng của các yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn với
sự vật, hiện tượng đang được nói tới trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định.
Kết cấu ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) được dùng để quy chiếu đối tượng
nào đó được gọi là biểu thức chiếu vật. Sự vật tương ứng với một biểu thức
chiếu vật là nghĩa chiếu vật.
Nghĩa chiếu vật được chia làm 4 loại:
a. Nghĩa chiếu vật cá thể
Khi các phương tiện ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) tương ứng với một cá
thể nào đó được gọi là nghĩa chiếu vật cá thể.
Ví dụ (15). Cháu bé đang cười là con chị Lan.
Toàn bộ biểu thức chiếu vật cháu bé đang cười tương ứng với một cá
thể nhất định. Cháu bé có nghĩa chiếu vật cá thể.
b. Nghĩa chiếu vật một số cá thể
Khi các phương tiện ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) tương ứng với một số
cá thể nào đó được gọi là nghĩa chiếu vật một số cá thể.
Ví dụ (16). Những cháu bé đang chơi bóng là con các thầy cô trong trường.
Trong ví dụ này toàn bộ biểu thức những cháu bé đang chơi bóng được
dùng tương ứng với một số cá thể nhất định, những cháu bé có nghĩa chiếu
vật một số cá thể.
c. Nghĩa chiếu vật loại
Khi các phương tiện ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) tương ứng với một loại
sự vật nào đó được gọi là nghĩa chiếu vật loại.
Ví dụ (17). Trẻ em cần phải được chăm sóc.
Biểu thức trẻ em tương ứng với một loại sự vật nhất định. Nó có nghĩa
chiếu vật loại.
d. Nghĩa chiếu vật tập hợp

Khi các phương tiện ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) tương ứng với một tập
hợp nào đó đồng chất với nhau được gọi là nghĩa chiếu vật tập hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
Như vậy có thể thấy rằng dựa vào các sự vật được quy chiếu, người ta
có thể phân loại nghĩa chiếu vật ra làm bốn loại: Nghĩa chiếu vật cá thể;
Nghĩa chiếu vật một số cá thể; Nghĩa chiếu vật loại; Nghĩa chiếu vật tập hợp.
Để hiểu nghĩa của diễn ngôn, trước hết phải xác định được nghĩa chiếu vật
của các biểu thức chiếu vật trong diễn ngôn đó.
1.2.2. Khái quát về ngữ cảnh
1.2.2.1. Ngữ cảnh là gì ?
Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm
ngoài diễn ngôn. Nó gồm các nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp, chi
phối cuộc giao tiếp đó và chi phối diễn ngôn cả hình thức cũng như nội dung.
1.2.2.2. Các nhân tố thuộc ngữ cảnh
a. Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà
tác động vào nhau.
Nhân vật giao tiếp gồm
+ Thuyết ngôn: Là những người trực tiếp phát ra một phát ngôn hoặc
diễn ngôn nào đó.
+ Tiếp ngôn: Là những người trực tiếp tiếp nhận nghe phát ngôn.
+ Chủ ngôn: Là người trực tiếp chịu trách nhiệm về phát ngôn với phát
ngôn đó.
+ Đích ngôn: là người chịu trách nhiệm thực hiện yêu cầu của phát ngôn.
Muốn một hoạt động giao tiếp thành công các nhân vật giao tiếp cần
phải có sự hiểu biết lẫn nhau về vị thế xã hội, các nhân vật giao tiếp có thể
bình đẳng hoặc không bình đẳng về mặt xã hội.

b. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp chính là môi trường bên ngoài mà cuộc giao tiếp
diễn ra. Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh
giao tiếp hẹp

×