Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn khối 2 trường tiểu học xã phan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.27 KB, 29 trang )

BẢN TÓM TẮT ĐỀ TÀI
- Tên đề tài: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn khối 2
trường Tiểu học Xã Phan.
- Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thiện Trở và Nguyễn Thị Ngọc Xuân
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xã Phan.
1. Lý do chọn đề tài:
- Xuất phát từ tình hình thực tế của học sinh khối 2, đa số các em chưa hiểu tầm
quan trọng các kỹ năng giải toán có lời văn. Khả năng phân tích, xác định bài toán có
lời văn của các em còn hạn chế. Bên cạnh đó giáo viên chưa có giải pháp, biện pháp
phù hợp để hướng dẫn học sinh rèn các kỹ năng giải toán đúng. Học sinh biết giải toán
có lời văn một cách thành thạo là một trong những điều cần thiết để đánh giá trình độ
của học sinh.
- Là giáo viên và cán bộ quản lý chúng tôi muốn góp một phần kinh nghiệm
của mình nâng cao chất lượng dạy và học, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm cho
bản thân, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải
toán có lời văn khối 2 trường Tiểu học Xã Phan”.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
- Đối tượng: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn học sinh
khối 2 trường Tiểu học Xã Phan.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều
tra, phương pháp quan sát, phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm, phương pháp so
sánh đối chiếu.
3. Đề tài đưa ra giải pháp mới:
- Nắm vững mục tiêu, yêu cầu, nội dung của từng dạng bài, từng tiết, giúp học
sinh hình thành các kỹ năng giải toán có lời văn.
- Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản để vận dụng vào giải toán có lời
văn theo 4 bước: (Đọc kỹ bài toán xác định dạng toán, tóm tắt đề toán, phân tích bài
toán để tìm cách giải, giải bài toán và thử lại).
- Kết quả của bài toán giúp cho học sinh nhận ra cái đúng, cái sai của mình để
có hướng khắc phục, sửa chữa.
4. Phạm vi nghiên cứu:




Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn khối 2 trường Tiểu học
Xã Phan”.
5. Hiệu quả áp dụng:
Sau khi áp dụng, đề tài giúp cho giáo viên, học sinh có nhiều định hướng mới
trong việc dạy và học. Điểm các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ tăng dần.
Số lượng, chất lượng giải toán có lời văn đúng có chuyển biến rõ rệt. Học sinh ngày
càng thích học toán có lời văn, khi giải toán học sinh kiên nhẫn và tự tin hơn.
6. Phạm vi áp dụng:
Đề tài được áp dụng trong học sinh khối 2 trường Tiểu học Xã Phan, năm học
2014-2015 và các trường trong cụm xã Phan, Thị Trấn A.
Dương Minh Châu, ngày 12 tháng 3 năm 2015
Nhóm thực hiện
Nguyễn Thị Thiện Trở
Nguyễn Thị Ngọc Xuân

2


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài:
- Trong thực tiễn đời sống hàng ngày, muốn làm việc một cách khoa học, sáng
tạo và đạt hiệu quả cao thì cần phải tính toán chính xác. Muốn làm được điều đó thì
học sinh cần có những kiến thức cơ bản về toán học, nắm vững được cách thực hiện
các phép tính và giải toán.
- Ở Tiểu học phần lớn thời gian của học sinh dành cho việc học bốn phép tính
(số học) và giải các dạng bài toán có lời văn, trong đó việc học bốn phép tính (cộng,
trừ, nhân, chia) thường không khó với đa số học sinh còn việc học giải toán có lời văn
lại không dễ dàng đối với hầu hết các em. Vì sao vậy? Đó là vì trong các bài toán có

lời văn bốn phép tính (cộng, trừ, nhân, chia) không hiện ra một cách rõ ràng, mà
chúng ẩn náo đằng sau các câu chữ (nhiều khi rất khó nhận thấy); mô tả những tình
huống trong đời sống, sinh hoạt, lao động và học tập thường ngày. Nếu không có sự
độc lập suy nghĩ, tìm hiểu thì không thể phát hiện ra cách giải. Do đó, đa số học sinh
Tiểu học rất thích các bài toán số mà thường không thích các bài toán có lời văn, nhất
là các em có kiến thức kỹ năng chưa hoàn thành.
- Hơn nữa, việc tính toán luôn gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Vì thế
rèn kỹ năng thực hiện các phép tính để giải toán có lời văn rất cần thiết trong chương
trình toán Tiểu học và đặc biệt dạy theo mô hình VNEN. Thực tế một tiết hoạt động
thực hành ở môn Toán, dạy theo mô hình VNEN học sinh làm bài một cách độc lập
theo từng cá nhân. Qua một học kỳ trực tiếp giảng dạy ở khối 2, chúng tôi nhận thấy
học sinh khối 2 đạt chất lượng môn Toán chưa cao, nhất là giải toán có lời văn các em
thường gặp nhiều khó khăn. Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em thường vội vàng
hấp tấp, đơn giản hóa vấn đề nên đôi khi học sinh chưa hiểu kỹ đề đã làm bài của
mình dẫn đến kết quả nhiều khi bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đủ. Các em thích
giống bạn không tin tưởng vào bài làm của mình dẫn đến những sai sót giống nhau.
Thậm chí bài làm đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chép bài sao cho giống bạn, các em chưa
tin tưởng vào bản thân mình.
- Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay;
xuất phát từ mục đích yêu cầu của chương trình toán lôùp 2 dạy theo mô hình VNEN,
từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học nói chung và trình độ nhận thức của học
sinh khối 2 nói riêng. Với mong muốn góp một phần kinh nghiệm của mình trong việc
3


giáo dục học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân, để giúp học
sinh giải đúng và học tốt các dạng toán có lời văn mà không cần sự hỗ trợ của các
nhóm trưởng hay của cô giáo nên chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu về:
“Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn khối 2 trường Tiểu học Xã
Phan”.

2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh khối 2 giải toán có lời văn còn chậm
kỹ năng để từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng môn Toán
nhất là giải toán có lời văn.
- Đề tài giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhằm nâng cao chất lượng giải
toán có lời văn. Thông qua đó giúp các em nắm vững tất cả các dạng toán và giải đúng
các dạng toán đang học trong chương trình lớp 2. Từ đó biết vận dụng những điều đã
học vào thực tế cuộc sống, phát huy năng lực sáng tạo của học sinh trong việc giải
toán có lời văn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 2 trường Tiểu học Xã Phan.
- Phương pháp dạy học sinh giải các dạng toán có lời văn trong chương trình
lớp 2.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn khối 2 trường Tiểu học
Xã Phan”.
5. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Qua quá trình đọc và nghiên cứu các tài liệu, chúng tôi đã chọn lọc và thu thập
được một số thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
* Phương pháp điều tra (kiểm tra bài, 15 phút đầu giờ, kiểm tra học kỳ I):
- Thông qua các tiết dự giờ và trao đổi với bạn đồng nghiệp cũng như việc theo
dõi học sinh khối 2, chúng tôi đã nắm được tình hình học giải toán có lời văn của học
sinh và hiểu được một số nguyên nhân các em giải chưa đúng các dạng toán có lời văn
để từ đó có cơ sở nghiên cứu, đúc rút ra những kinh nghiệm giúp các em giải đúng và
học tốt hơn.

4



- Sau mỗi lần áp dụng một kinh nghiệm, chúng tôi thường đối chiếu kết quả
học sinh đạt được ở thời điểm hiện tại với kết quả ở thời điểm áp dụng đề tài. Qua đó,
chúng tôi tiến hành chọn lọc và phối hợp những ưu điểm giữa hai biện pháp trên để rút
ra kinh nghiệm tốt trong dạy giải toán có văn.
* Phương pháp quan sát:
Trong quá trình dạy học, chúng tôi luôn quan sát thái độ học tập của học sinh
và hứng thú học toán có lời văn của học sinh. Chúng tôi thường xuyên theo dõi sự
chuyển biến kết quả học tập của các em để từ đó, chúng tôi có cơ sở để tiếp tục phát
huy những kinh nghiệm hướng dẫn học sinh có hiệu quả.
* Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm:
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi luôn tổng kết lại
những kinh nghiệm có hiệu quả trong việc giúp học sinh học tốt giải toán có văn.
Phương pháp này đã giúp chúng tôi tìm hiểu được bản chất, nguyên nhân và cách giải
quyết trong quá trình nghiên cứu, tổng kết được những kinh nghiệm, từ đó định hướng
cụ thể cho những lần áp dụng sau.
* Phương pháp so sánh, đối chiếu:
Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, giữa kết
quả khi chưa vận dụng đề tài với kết quả lúc vận dụng đề tài để thấy được hiệu quả
của đề tài.
6. Giả thuyết khoa học:
Nếu giáo viên có sự đầu tư đúng mức và lựa chọn được phương pháp, giải
pháp dạy học phù hợp để hướng dẫn cho học sinh thì sẽ giúp học sinh giải đúng bài
toán có lời văn và nâng cao chất lượng học tập môn Toán ngày càng cao hơn. Qua đó
các em sẽ cảm thấy tự tin, yêu thích, hứng thú hơn và sáng tạo hơn khi giải toán có lời
văn.

5


II. NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận của đề tài:
a. Các văn bản chỉ đạo của Trung ương, địa phương của ngành:
- Căn cứ vào Nghị quyết đổi mới chương trình Giáo dục phổ thông (số
40/2000/ QH ban hành tại kỳ họp Quốc hội khóa IX).
- Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học ban hành kèm theo Quyết định
số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006.
- Công văn số 1842/BGDĐT-GDTH ngày 10 tháng 4 năm 2014 của Bộ Giáo
dục và Đào Tạo về việc sử dụng hồ sơ đánh giá học sinh. Mô hình trường học mới
Việt Nam (VNEN).
- Căn cứ Thông tư 30/2014/TT-BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học.
- Áp dụng các nội dung và phương pháp dạy học theo mô hình mới (VNEN) đã
được tập huấn nghiệp vụ hè 2014.
b. Sơ lược về nội dung và phương pháp dạy môn Toán:
Các vấn đề liên quan đến môn Toán:
- Nội dung chủ yếu của dạy học giải toán có lời văn trong môn Toán lớp 2 bao
gồm: Tiếp tục giải các bài toán đơn đã học từ lớp 1 và phát triển các bài toán đó đối
với các phép tính cộng, trừ, nhân, chia mới học ở lớp 2. Đồng thời toán có lời văn lớp
2 đề cập những dạng bài toán mới phù hợp với giai đoạn nhận thức của học sinh lớp 2.
Trong chương trình Toán lớp 2, giải toán có lời văn bao gồm các dạng toán điển hình
sau:
+ Bài toán về “Nhiều hơn, ít hơn”.
+ Bài toán về “Cả hai, tất cả (Tìm tổng của hai số hạng).
+ Bài toán về “Tìm một số hạng trong một tổng”.
+ Bài toán về “Tìm số trừ”.
+ Bài toán về “Còn lại”.
+ Bài toán về “Gấp một số lần, giảm đi một số lần”.
+ Bài toán có nội dung hình học (chu vi hình tam giác).
- Vị trí, vai trò của toán có lời văn: Góp phần hệ thống hóa về củng cố các kiến
thức, kỹ năng về số tự nhiên, yếu tố hình học và bốn phép tính (cộng, trừ, nhân, chia)

với các kiến thức đã học làm cơ sở để học tiếp ở lớp 3. Nó còn đặt nền móng cho quá
6


trình đào tạo tiếp theo ở cấp học cao hơn; hình thành kỹ năng tính toán; giúp học sinh
nhận biết được mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực;
hình thành phát triển hứng thú học tập và năng lực phẩm chất trí tuệ của học sinh góp
phần phát triển trí thông minh, óc suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo. Đồng thời
chương trình toán có lời văn lớp 2 còn kế thừa giải toán có lời văn lớp 1, mở rộng và
phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 2.
- Dạy học sinh giải toán có lời văn: Là dạy học sinh biết cách giải bài toán
(phương pháp giải toán). Việc dạy học theo mô hình mới (VNEN) học sinh phải ngồi
học theo nhóm nên các em dễ nhìn bài lẫn nhau từ đó ỷ lại không chịu động não suy
nghĩ. Do đó, giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cách giải, cần phải
dẫn dắt học sinh tự tìm ra cách giải bài toán.
c. Một số quan niệm khác:
- Trong quá trình học môn Toán việc giải toán là một vấn đề hết sức cần thiết
giúp cho học sinh phát triển tư duy một cách lành mạnh và thông hiểu một cách sâu
sắc các vấn đề thông qua việc giải toán.
- Chương trình toán Tiểu học giải toán được xem là một vị trí quan trọng.
Thông qua các bài toán giúp cho học sinh phát triển năng lực tự tìm tòi, có đầu óc
thẩm mĩ sáng tạo.
- Trong giải toán học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, trong
nhiều trường hợp phải biết phát hiện những điều chưa được nêu ra một cách rõ ràng,
phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán là một trong những
biểu hiện năng động của một hoạt động trí tuệ của học sinh dưới sự hướng dẫn của
giáo viên nhằm cuốn hút vào những hoạt động học tập.
- Rèn cho học sinh tính cẩn thận, kiên trì vượt khó, tính toán chính xác.
- Giải bài toán có lời văn giúp các em phát triển thông minh, óc sáng tạo, có
thói quen làm việc một cách khoa học.

2. Cơ sở thực tiễn của đề tài:
a. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu:
- Giáo viên: Giáo viên chưa linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp dạy
học theo mô hình mới (VNEN).

7


- Học sinh: Qua một học kỳ giảng dạy lớp 2 theo mô hình mới (VNEN), đa số
học sinh khi được hỏi, các em đều thích học toán nhưng các em không thích giải toán
có lời văn vì cảm thấy nó “khô khan, khó học”.
Tuy nhiên Toán có lời văn giữ một vị trí rất quan trọng bởi vì phần lớn thời
gian học Toán của học sinh dành cho việc học giải các bài toán ấy. Kết quả học Toán
của học sinh cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán, cả kết quả kiểm tra
cuối bậc Tiểu học cũng vậy. Biết giải thành thạo các bài toán có lời văn là một trong
những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán học của mỗi học sinh.
b. Sự cần thiết của đề tài:
Hiện nay chất lượng giải toán có lời văn của khối 2 của trường Tiểu học Xã
Phan vẫn chưa cao. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán, bản thân chúng tôi
luôn ý thức và mong muốn tự rèn luyện cho giáo viên phương pháp dạy toán có lời
văn, nhằm tránh lối dạy máy móc một chiều áp đặt cho học sinh, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học. Qua quá trình điều tra việc dạy của giáo viên và việc học của học
sinh bản thân chúng tôi nhận thấy:
- Giáo viên: Trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN người giáo viên chưa
có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để học sinh nắm vững lượng kiến thức, đặc
biệt là dạng toán có lời văn. Nguyên do là giáo viên mới tiếp cận với chương trình dạy
học theo kiểu mới này. Thời gian dành nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy
học mới này còn hạn chế. Bên cạnh đó việc ý thức về tầm quan trọng của việc giải
toán có lời văn của các em chưa đầy đủ. Nhìn chung, giáo viên chưa có biện pháp phù
hợp để rèn cho học sinh các kỹ năng làm bài theo trình tự của giải toán có văn: Đọc kỹ

bài toán xác định dạng toán, tóm tắt bài toán, phân tích bài toán để tìm ra cách giải,
giải bài toán và thử lại các kết quả.
- Học sinh: Môn Toán là môn học khô khan, khó học. Trình độ nhận thức của
học sinh không đồng đều; một số em còn chậm, nhút nhát; kỹ năng tóm tắt còn hạn
chế; chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kỹ bài toán dẫn tới chưa xác định được dạng
toán nên chưa định hướng được cách giải; lựa chọn sai phép tính; chưa bám sát vào
yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kỹ năng tính nhẩm với
các phép tính (hàng ngang) và kỹ năng diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp
thu bài thụ động, ghi nhớ máy móc, chóng quên các dạng bài toán vì thế phải có
phương pháp rèn các kỹ năng giải toán có lời văn, khắc sâu kiến thức từng dạng bài.
8


Sau đây là bảng thống kê kết quả giải toán có lời văn của học sinh đầu năm học
2014 - 2015:
Xác định dạng

Tóm tắt bài

Chọn và thực

Lời giải và đáp

toán

toán

hiện đúng phép

số


Lớp,

tính

khối

TSHS

lớp

Khối

107

2

Hoàn

Chưa

Hoàn

Chưa

Hoàn

Chưa

Hoàn


Chưa

thành

hoàn

thành

hoàn

thành

hoàn

thành

hoàn

80

thành
27

79

thành
28

75


thành
32

71

thành
36

74.8%

25.2%

73.8%

26.2%

69.2%

30.8%

65.4% 34.6%

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy kỹ năng giải các bài toán có lời văn của các
em còn rất nhiều hạn chế. Chính vì thực trạng này đặt ra cho giáo viên một yêu cầu
cần thiết là phải tìm ra giải pháp mới để việc dạy và học giải toán có lời văn có hiệu
quả hơn.
3. Nội dung vấn đề:
a. Vấn đề đặt ra:
Để học sinh giải toán có lời văn đúng, đồng thời giúp học sinh rèn luyện trí óc,

tính tư duy, suy nghĩ, óc xét đoán có căn cứ, xác định được nội dung yêu cầu của đề
bài để sắp xếp các bước giải, biết tư duy, sáng tạo, cuối cùng là lựa chọn cách giải và
lập kế hoạch giải một cách chính xác. Chúng ta cần có những phương pháp dạy học
phù hợp theo từng nội dung, yêu cầu của từng dạng bài. Qua đó học sinh thấy được
mỗi đề toán là một bức tranh nhỏ của cuộc sống. Khi giải mỗi bài toán, học sinh phải
biết rút ra từ bức tranh ấy cái bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn những phép
tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải chính xác,… Vì thế,
quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát, sử dụng Tiếng Việt
và giải quyết các vấn đề của cuộc sống qua con mắt Toán học của mình. Điều đó
chẳng những sẽ giúp các em học tốt môn Toán mà nó còn giúp các em học tốt các môn
học khác. Đó cũng chính là mục tiêu chung của mỗi giáo viên khi dạy học sinh giải
toán có lời văn.
b. Giải pháp chứng minh vấn đề được giải quyết:

9


Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi đã nghiên cứu tìm ra một số giải pháp,
kinh nghiệm dạy học thiết thực để dạy giải toán có lời văn đúng và đạt chất lượng tốt
hơn. Những giải pháp và kinh nghiệm đó cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đảm bảo quy trình thực hiện khi giải toán có văn: Giải toán có văn đối với học
sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải bài toán
quan trọng hơn so với kỹ năng tính toán vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái
niệm, quan hệ toán học,…Chính vì đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho
học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán như sau:
+ Bước 1: Đọc kỹ bài toán xác định dạng toán.
Đây là một bước rất quan trọng, giáo viên cần nhắc nhở học sinh đọc kỹ đề,
đọc nhiều lần (đọc thầm trong nhóm). Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy
nghĩ về ý nghĩa, nội dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi của bài toán. Tức
là đọc để xác định đâu là những cái đã cho, đâu là cái phải tìm. Khi học sinh đọc cần

hướng sự tập trung chú ý của các em vào những từ ngữ quan trọng của đề toán, từ nào
chưa hiểu hết ý nghĩa của nó thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đồng thời cũng giúp
học sinh phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về
bản chất của đề toán, để hướng sự chú ý của học sinh vào những chỗ cần thiết. Nếu
chưa có thói quen đọc, đọc ít hoặc đọc qua loa chiếu lệ đề toán thì chưa xác định dạng
toán, chưa thể tìm ra cách giải. Nên khi giải bài toán cần cho học sinh đọc ít nhất từ 2
đến 3 lần.
+ Bước 2: Tóm tắt bài toán.
Tóm tắt bằng hình vẽ, ngôn ngữ, hoặc ký hiệu ngắn gọn. Thông qua đó để
thiết lập mối liên hệ giữa phần đã cho và cái phải tìm của bài toán để làm rõ trọng tâm,
thể hiện bản chất toán học của bài toán. Trong lớp giáo viên phải quan sát, nếu có
nhóm đưa thẻ cứu trợ thì giáo viên đến nhóm đó để hướng dẫn. Trường hợp có nhiều
nhóm cùng đưa thẻ cứu trợ thì giáo viên nên cho các em cùng quay mặt lên bảng để
giáo viên hướng dẫn.
+ Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải.
Ở bước này học sinh cần phải trả lời câu hỏi của bài toán tức là: Muốn trả lời
câu hỏi của bài toán thì phải biết những gì đã cho, cần phải làm những tính gì ? Trong
những điều ấy cái gì đã biết, cái gì chưa biết ?... Cứ như thế ta đi dần đến những điều

10


đã cho trong đề toán. Từ những suy nghĩ trên học sinh sẽ tìm ra con đường tính toán
(hoặc suy luận), đi từ những điều đã cho tới đáp số bài toán.
+ Bước 4: Giải bài toán và thử lại kết quả.
Dựa vào kết quả phân tích bài toán ở bước 3 và xuất phát từ những điều đã
biết cho trong đề toán, ta lần lượt thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số. Quá trình
tìm tòi cách giải quyết, học sinh tự trình bày bài giải của mình có thể làm vở ô ly, vở
nháp. Hoặc tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau các đối tượng trong nhóm, học sinh trong
nhóm trao đổi ý kiến về cách làm hoặc giải bài toán. Sau khi đã hướng dẫn, giáo viên

cho các nhóm làm bài vào vở. Bài toán này có một phép tính nhưng có thể có nhiều lời
giải khác nhau mà vẫn phù hợp. Việc cho học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau có
tác dụng lớn trong việc gây hứng thú cho học sinh, thúc đẩy các em cố gắng tìm tòi,
sáng tạo và rèn óc suy nghĩ linh hoạt, độc lập.
Cần chú ý thử lại (kiểm tra lại) sau khi làm xong phép tính, cũng như thử lại
đáp số xem có phù hợp với đề toán không ? Cũng cần soát lại câu lời giải cho phép
tính xem đã đủ ý và ngắn gọn chưa? phù hợp với đề toán chưa? Việc kiểm tra này
nhằm phân tích cách giải đúng hay sai, sai chỗ nào để sửa chữa. Từ đó giúp các em có
thói quen kiểm tra, đánh giá, sửa bài.
+ Ngoài ra còn có bước khai thác bài toán dành cho học sinh có kiến thức, kỹ
năng: Sau khi giải xong bài toán, cần suy nghĩ xem có thể giải bài toán bằng cách
khác không ? Từ bài toán này có thể rút ra nhận xét gì, kinh nghiệm gì? Từ bài toán
này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào ? Giải chúng ra sao ?
- Trong 4 bước trên, hầu hết các hoạt động đều được làm trên giấy nháp hoặc
nghĩ thầm trong đầu; chỉ riêng việc trình bày bài giải là bắt buộc học sinh phải làm vào
vở (hoặc bài kiểm tra) mà thôi.
- Với một số bài toán đơn giản thì có thể bớt một vài bước hoặc một vài hoạt
động trong các bước trên.
- Riêng phần tóm tắt đề toán, học sinh chỉ cần viết vào bài kiểm tra khi có yêu
cầu; hoặc trong trường hợp:“Phần tóm tắt ấy là một bộ phận không thể thiếu của bài
giải”, nếu thiếu phần tóm tắt ấy thì không thể hiểu được bài giải.
- Đảm bảo yêu cầu thực hành: Lấy thực hành làm hoạt động chính của tiết học.
Lấy sự hình thành kỹ năng giải toán có lời văn (luyện kỹ năng tìm hiểu đề bài toán
xác định dạng toán, tóm tắt bài toán, tìm cách giải bài toán, trình bày bài giải và thử
11


lại kết quả) làm yêu cầu chính của tiết học. Trên cơ sở thầy hướng dẫn, trò tiến hành
các hoạt động học tập để qua đó rút ra lý thuyết của dạng bài toán có lời văn. Nói cách
khác là có sự liên tục, kế tiếp nhau giữa các tiết học giải toán có lời văn, giữa các dạng

toán có lời văn sao cho việc rèn luyện kỹ năng, nắm vững yêu cầu của các dạng toán
lời văn ngày càng tốt hơn.
- Dạy học theo mô hình VNEN đòi hỏi người giáo viên khi chia nhóm giáo viên
chia các đối tượng có kiến thức năng lực hoàn thành và chưa hoàn thành xen kẻ nhau.
Khi học tập, làm việc theo nhóm, học sinh thường mạnh dạn trao đổi ý kiến, khuyến
khích học sinh tìm tòi, sáng tạo, biết đánh giá ý kiến của bạn. Chẳng hạn một bài toán
khó, nếu nhiều em cùng bàn bạc, phân tích thì nhất định sẽ tìm cách giải hay. Nhờ vậy
các em tự tin hơn khi làm bài.
- Tổ chức học sinh có kiến thức, năng lực hoàn thành trong nhóm thường xuyên
giúp đỡ các em chậm kỹ năng nếu các bạn có yêu cầu.
- Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời khi đến từng nhóm kiểm tra để
học sinh có sự hứng thú trong học tập. Nhất là các học sinh chậm kỹ năng. Giáo viên
phải theo dõi nhận xét, bổ sung khuyến khích, khen các em khi các em trả lời đúng.
- Đảm bảo phương pháp giải riêng cho từng dạng bài toán: Học sinh cần phải
nắm vững kiến thức cơ bản sau:
Ví dụ:
Đề bài: Hàng trên có 8 quả cam, hàng dưới có ít hơn hàng trên 3 quả cam. Hỏi
hàng dưới có mấy quả cam?
Bước 1: Học sinh tự đọc đề
Bước 2: Học sinh tự phân tích đề bài
- Hàng trên có mấy quả cam? (Quả cam)
- Hàng dưới ít hơn hàng trên mấy quả cam? (Hàng dưới ít hơn hàng trên 3 quả
cam)
- Bài toán hỏi gì? (hàng dưới có mấy quả cam)
- Bài toán này thuộc dạng toán gì? (Bài toán thuộc dạng ít hơn)
- Ít hơn thực hiện phép tính gì? (Tính trừ)
- Bài toán có lời giải thế nào? (Số quả cam hàng dưới có là)
- Vậy muốn biết được hàng dưới có mấy quả cam ta làm sao? (Ta lấy số quả cam
của hàng trên trừ đi số quả cam ít hơn của hàng dưới)
12



- Đơn vị bài toán là gì? (Quả cam)
Bước 3: Lập trình tự giải – tóm tắt
- Học sinh tự hỏi nhẩm lại để khắc sâu và tóm tắt
+ Bài toán cho biết hàng trên có mấy quả cam ? (8 quả cam)
+ Hàng dưới có ít hơn hàng trên mấy quả cam? (3 quả cam)
+ Đề toán hỏi gì? (Hỏi hàng dưới có mấy quả cam)
+ Đơn vị bài toán là gì? (Quả cam)
Bước 4: Tóm tắt (học sinh)
Hàng trên:

8 quả cam

Hàng dưới ít hơn hàng trên: 3 quả cam
Hàng dưới:

… quả cam?

Bước 5: Giải (học sinh)
Số quả cam ở hàng dưới là:
8 – 3 = 5 (quả cam)
Đáp số: 5 quả cam
* Ngoài các bước trên giáo viên cần khắc sâu cho học sinh biết xác định (nhận
dạng) các bài toán thuộc dạng toán gì? Để khi gặp bài toán thì phải biết cách tóm tắt và
giải đúng.
- Bài toán về “nhiều hơn” thì thực hiện phép cộng khi:
+ Đề toán cho biết số thứ nhất. Còn số thứ hai không cho biết mà chỉ nói là
nhiều hơn số thứ nhất. Hỏi số thứ hai.
+ Muốn biết số thứ hai ta phải lấy “số thứ nhất cộng với phần nhiều hơn của

số thứ hai thì sẽ tìm ra số thứ hai”.
Ví dụ: Bạn Hòa có 4 bông hoa, bạn Bình có nhiều hơn Hòa 2 bông hoa. Hỏi bạn
Bình có mấy bông hoa?
Tóm tắt
Bạn Hòa :

Giải
4 bông hoa

Số bông hoa Bình có là:

Bạn Bình nhiều hơn bạn Hòa : 2 bông hoa

4 + 2 = 6 (bông hoa)

Bạn Bình :

… bông hoa?

- Bài toán về “ít hơn” thì thực hiện phép trừ khi:
13

Đáp số: 6 bông hoa


+ Đề toán cho biết số thứ nhất. Còn số thứ hai thì không cho biết, mà chỉ nói ít
hơn số thứ nhất. Hỏi số thứ hai.
+ Muốn biết số thứ hai, ta phải lấy “số thứ nhất trừ đi phần ít hơn của số thứ
hai, thì sẽ tìm ra số thứ hai.
Ví dụ: Bạn Bình có 6 bông hoa, bạn Hòa có ít hơn bạn Bình 2 bông hoa. Hỏi bạn

Hòa có mấy bông hoa?
Tóm tắt
Bạn Bình :

Giải
6 bông hoa

Số bông hoa Bình có là:

Bạn Hòa ít hơn bạn Bình : 2 bông hoa

6 - 2 = 4 (bông hoa)

Bạn Bình :

… bông hoa?

Đáp số: 4 bông hoa

- Bài toán về “ Tìm tổng của hai số hạng” (hoặc tất cả) khi:
+ Đề toán cho biết số thứ nhất (số hạng thứ nhất) và số thứ hai (số hạng thứ
hai). Hỏi tất cả hai số (tổng).
+ Muốn tìm tất cả hai số (tổng) thì ta lấy số thứ nhất (số hạng thứ nhất) cộng
với số thứ hai (số hạng thứ hai) thì sẽ tìm được tất cả hai số (tổng).
Ví dụ: Dưới ao có 9 con vịt, trên bờ có 6 con vịt. Hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt?
Tóm tắt
Dưới ao

: 9 con vịt


Trên bờ

: 6 con vịt

Tất cả:

Giải
Số con vịt có tất cả là:
9 + 6 = 15 (con )

… con vịt?

Đáp số: 15 con

- Bài toán về “Tìm một số hạng trong một tổng” khi:
+ Đề toán cho biết tổng và trong tổng cho biết số hạng kia. Hỏi số hạng này.
+ Muốn tìm số hạng trong một tổng thì ta lấy “tổng trừ đi số hạng kia thì sẽ
tìm được số hạng này”.
Ví dụ: Một lớp học có 35 học sinh, trong đó có 20 học sinh nam. Hỏi có bao nhiêu
học sinh nữ?
Tóm tắt

Giải

Có : 35 học sinh

Số học sinh nữ có là:

Nam : 20 học sinh nam


35 – 20 = 15 (học sinh)
14


Nữ

: … học sinh ?

Đáp số: 15 học sinh

- Bài toán về “Tìm số trừ” khi:
+ Bài toán cho biết số bị trừ, không cho biết số trừ, chỉ cho biết hiệu. Hỏi số trừ.
+ Muốn tìm số trừ ta lấy “số bị trừ trừ đi hiệu” thì sẽ tìm được số trừ.
Ví dụ: Một bến xe có 35 ô tô, sau khi một số ô tô rời bến, trong bến còn lại 10 ô tô.
Hỏi có bao nhiêu ô tô rời bến?
Tóm tắt


Giải

: 35 ô tô

Số ô tô rời bến là:

Còn lại : 10 ô tô

35 – 10 = 25 (ô tô)

Rời bến : … ô tô?


Đáp số : 25 ô tô

- Bài toán về “Còn lại (Tìm hiệu)” khi:
+ Bài toán cho biết số bị trừ, cho biết số trừ, không cho biết hiệu. Hỏi hiệu (còn
lại).
+ Muốn tìm hiệu ta lấy “ số bị trừ trừ đi số trừ” thì sẽ tìm được hiệu (còn lại).
Ví dụ: Cửa hàng có 14 máy bơm, đã bán được 9 máy bơm. Hỏi cửa hàng còn lại
mấy máy bơm?

Tóm tắt

Giải

Có : 14 máy bơm

Số máy bơm cửa hàng còn lại là:

Bán : 9 máy bơm

14 - 9 = 5 (máy bơm)

Còn lại : … máy bơm?

Đáp số: 5 máy bơm

- Bài toán về “Gấp một số lần”
Ví dụ: Mỗi can có 3l dầu ăn. Hỏi 7 can như thế có tất cả bao nhiêu lít dầu ăn?

Tóm tắt


Giải

1 can: 3l dầu ăn

Số lít dầu ăn của 7 can có là:

7 can: … lít dầu ăn?

3 x 7 = 21 (l dầu)
Đáp số: 21 l dầu
15


+ Giáo viên hướng dẫn học sinh xem dữ kiện đã biết là: 1 can: 3l dầu ăn. Dữ
kiện chưa biết (số lít dầu ăn của 7 can).Từ đó học sinh suy nghĩ tìm ra câu lời giải,
thực hiện phép tính, tên đơn vị. Học sinh trình bày vào vở.
Giải
Số lít dầu ăn của 7 can có là :
3 x 7 = 21 (l dầu)
Đáp số: 21 l dầu
- Bài toán về “Giảm đi một số lần”
Ví dụ: Có 18 học sinh xếp thành các hàng, mỗi hàng có 2 bạn. Hỏi xếp được tất cả
mấy hàng?
+ Học sinh tự đọc đề tự trả lời như sau:
+ Một hàng có mấy bạn? (1 hàng có 2 bạn)
+ Có bao nhiêu bạn? (18 bạn)
+ Bài toán hỏi gì? (xếp được tất cả mấy hàng?)
+ Giáo viên tóm tắt cho học sinh quan sát.
Tóm tắt
2 bạn: 1 hàng

18 bạn: … hàng?
+ Muốn biết 18 bạn xếp được bao nhiêu hàng ta làm thế nào?
+ Muốn biết số hàng của 18 bạn ta lấy 18 : 2 = 9 (hàng)
Giải
Số hàng xếp được tất cả là:
18 : 2 = 9 (hàng)
Đáp số: 9 hàng
- Bài toán về “Tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác”
Ví dụ: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 2dm, 5dm, 4dm.
+ Học sinh dựa vào bài toán tính chu vi hình tam giác (tứ giác) đã học: là lấy
tổng độ dài các cạnh của hình tam giác, (tứ giác) là chu vi của hình đó. Từ đó học sinh
nêu cách giải dựa vào quy tắc.
Giải
Chu vi hình tam giác là:
2 + 5 + 4 = 11(dm)
16


Đáp số: 11 dm
- Ngoài các phương pháp trên chúng tôi còn sử dụng những giải pháp sau:
+ Phần đặt câu lời giải giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào câu hỏi của bài
toán bỏ đi chữ “hỏi”, chữ “bao nhiêu”, “mấy” thay bằng chữ số để nêu câu lời giải.
Ví dụ: …..Hỏi năm nay bố bao nhiêu tuổi? Câu lời giải: “Năm nay bố có số tuổi”.
Học sinh có thể bắt đầu chữ “số” trước đến hết câu, sau đó quay lại đầu câu viết cho
đến giáp chữ số như: “Số tuổi năm nay của bố có là”, “Số tuổi của bố năm nay là”.
Học sinh có thể viết một số lời giải như trên, giáo viên vẫn nhận xét đúng cho các em.
- Khi thực hiện phép tính giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào câu hỏi xem bài
toán yêu cầu tìm yếu tố nào và thực hiện: cộng, trừ, nhân, chia, sau phép tính phải ghi
đơn vị trong ngoặc đơn. Giáo viên lưu ý học sinh: đơn vị là chữ sau chữ “mấy, bao
nhiêu” trong câu hỏi.

Ví dụ: ……… Hỏi con ngỗng cân nặng bao nhiêu ki- lô- gam?
Vậy đơn vị là “kg”
- Giáo viên hướng dẫn học sinh một số dạng toán khi gặp là ta biết thực hiện phép
tính gì?
- Những dạng toán phần tìm “ít hơn, còn lại, kém hơn, thấp hơn, nhẹ hơn, … là thực
hiện phép trừ. Còn dạng phần tìm “tất cả, cả hai, nhiều hơn, mạnh hơn, cao hơn, tính
chu vi hình tam giác, tứ giác, … làm phép cộng.
- Giáo viên cần nhắc học sinh xác định dạng toán cho chính xác.
- Khi trình bày bài giải ta viết các bước sau:
+Viết bài giải.
+ Viết câu lời giải.
+ Viết phép tính và đơn vị (đơn vị để trong ngoặc đơn).
+ Viết đáp số.
- Trình bày bài giải như sau:
Tóm tắt:
1 xe ô tô: 4 bánh xe
7 xe ô tô: … bánh xe?
Bài giải
Số bánh xe của 7 xe ô tô là:
4 x 7 = 28 (bánh xe)
17


Đáp số: 28 bánh xe
+ Các dạng bài toán tiếp nối từ lớp 1 lên lớp 2, lớp 2 nâng cao như (Lớp 1: bài
toán thực hiện phép tính trừ thì dựa vào câu hỏi của bài toán có từ “còn lại”. Ở lớp 2
bài toán thực hiện phép tính trừ có dạng thì dựa vào từ “ít hơn” trong bài toán, (Ví dụ:
bài tập 7a, trang 78, tập 1B, toán 2“ Thùng lớn đựng 50l nước, thùng bé đựng ít hơn
thùng lớn 15l nước. Hỏi thùng bé đựng bao nhiêu lít nước?”, có bài toán thể hiện phép
tính cộng ở lớp 1 thì dựa vào từ “tất cả, cả hai”). Ở lớp 2 bài toán thực hiện phép tính

cộng có dạng thì dựa vào từ “nhiều hơn” của bài toán, (Ví dụ: Bài tập 4a, trang 88, tập
1B, toán 2: Thùng bé đựng 46l nước, thùng to đựng nhiều hơn thùng bé 24l nước. Hỏi
thùng to đựng bao nhiêu lít nước?),… Một số bài toán được thể hiện sinh động qua
những bức hình gây hứng thú cho các em như hình quả cam ở bài toán “ít hơn”, bài
toán “nhiều hơn”. Giúp học sinh phát triển năng lực giải toán, phù hợp với xu hướng
đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh Tiểu học. Khi giải các dạng
toán nêu trên cần có cách giải linh hoạt, không áp đặt, để học sinh tự lựa chọn cách
giải, câu trả lời, phép tính phù hợp (không nhất thiết lúc nào cũng phải theo trình tự
như giải bài toán có lời văn thông thường).
- Hình thành và phát triển các năng lực quan sát ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy qua
các bài toán.
+ Dạy cho học sinh biết cách quan sát các sơ đồ để từ đó dễ dàng tìm ra cách giải.
Ví dụ: Với dạng toán “nhiều hơn” thì học sinh quan sát sơ đồ xác định được dạng
bài toán gì, thực hiện phép tính gì, lời giải ra sao, đơn vị gì? để giải bài toán.
+ Tập cho học sinh có năng lực ghi nhớ và nắm vững các quy tắc. Chẳng hạn như
với công thức tính chu vi các hình đã học.
Ví dụ: Sau khi học bài “Chu vi hình tam giác - Chu vi hình tứ giác”, ta cho học
sinh thực hành làm bài tập. Trong mỗi bài ở phần thực hành, giáo viên cho học sinh
nhắc lại cách giải dạng bài này. Ngoài ra chúng ta còn có thể kiểm tra quy tắc thực
hiện trong giờ luyện tập hoặc ôn tập dạng toán này.
+ Phát triển trí tưởng tượng của học sinh qua bài toán có văn. Thông thường học
sinh vẫn giải các bài toán tính chu vi tam giác, tứ giác có độ dài là những số hạng bằng
nhau bằng những phép tính riêng lẻ với nhau, mỗi phép tính có một câu lời giải tương
ứng. Tuy nhiên ta có thể gộp các số hạng thành thừa số để bài giải được ngắn gọn.
Ví dụ: Bài tập 2, trang 29, tập 2A.
18


Một đoạn dây thép được uốn như hình vẽ.Tính độ dài đoạn dây đó là :
3 cm


3 cm

3 cm

Cách 1:
Bài giải
Độ dài đoạn dây đó là:
3 + 3 + 3 =9 (cm).
Đáp số: 9 cm.
Cách 2:
Bài giải
Độ dài đoạn dây đó là:
3 x 3 =9 (cm).
Đáp số: 9 cm.
+ Tập cho học sinh làm quen với thao tác tư duy để phân tích, tổng hợp, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa. Chẳng hạn giáo viên cho học sinh tóm tắt
bài toán bằng hình vẽ, ký hiệu, hoặc ngôn ngữ là dịp để kết hợp các thao tác trừu
tượng hóa và cụ thể hóa. Đồng thời giúp học sinh hiểu với cùng một bài toán, dạng
toán ta có thể tóm tắt bằng nhiều cách khác nhau như: hình vẽ, ký hiệu hoặc ngôn ngữ.
Ví dụ: Hàng trên có 8 quả cam, hàng dưới có ít hơn hàng trên 3 quả cam. Hỏi hàng
dưới có mấy quả cam?
Dạng hình vẽ
+ Cách 1:
6

Hàng trên :

Hàng dưới :
19



+ Cách 2:
Hàng trên: 8 quả cam
Hàng dưới ít hơn hàng trên: 3 quả cam
Hàng dưới: … quả cam?
- Kiểm tra, nhận xét, đánh giá, chữa bài.
Kiểm tra, nhận xét, đánh giá: Giáo viên chấm bài giải toán có lời văn thật kỹ,
thận trọng nhằm phát hiện được những ưu điểm của bài giải: Trình bày sạch đẹp, cách
giải đúng, cách giải có sáng tạo,… nắm được các lỗi sai mà các em thường mắc phải:
Lời giải chưa chính xác, lựa chọn sai phép tính, đáp số sai, tên đơn vị chưa đúng,…
Tất cả những ưu, khuyết đó đều được giáo viên ghi nhận cụ thể về lỗi sai, đối tượng
học sinh để làm cơ sở cho việc nhắc nhở các em sửa chữa bài. Trong quá trình kiểm
tra, nhận xét, đánh giá bài của học sinh, giáo viên cần chọn ra bài tiêu biểu của lớp,
chọn những cách giải hay cho các em tham khảo.
Chữa bài: Ở khâu này giáo viên cần hướng dẫn học sinh chữa lỗi từ lời giải,
phép tính, đáp số, tên đơn vị và viết thêm cách giải hay, ngắn gọn để học hỏi.
Tóm lại, cốt lõi của việc kiểm tra, nhận xét, đánh giá và chữa bài là để học sinh
nhận ra được cái đúng, cái sai, cách trình bày đẹp, sự sáng tạo của bạn để sửa chữa
khắc phục những lỗi mắc phải. Từ đó, học sinh rút ra được những kinh nghiệm cho
những bài giải sau này được tốt hơn.
Muốn thực hiện được những yêu cầu trên, giáo viên dạy phải hướng cho học sinh
có sự chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn cho học sinh cách học ở nhà; song không thể thiếu
được những kiến thức toán học từ lớp dưới, từ bài học trước, phải nắm chắc chắn để
làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh tự tin trong việc tiếp thu kiến thức mới, trong hoạt
động thực hành. Chẳng hạn, khi học dạng bài “Tìm số hạng trong một tổng”, các em
đã học bài trước đó là “Số hạng - Tổng”. Chính vì sự liên quan hệ thống giữa kiến thức
đã học với kiến thức mới cho nên học sinh phải học hết, làm hết và đầy đủ các bài tập
theo yêu cầu, học thuộc các quy tắc, công thức toán có phần kiến thức cho học sinh có
kiến thức, kỹ năng hoàn thành trở lên. Đồng thời giáo viên phải tạo được sự thân mật,

gần gũi; phải tôn trọng ý kiến của các em không phê phán vội vàng; phải giúp học sinh
tự tin trong học tập.
20


4. Kết quả so sánh, số liệu mang tính thuyết phục:
- Áp dụng những kinh nghiệm tìm tòi vào giảng dạy toán có lời văn ở khối 2,
chúng tôi thấy kết quả thể hiện khá rõ rệt, hiện tượng học sinh ngại giải toán có lời văn
không còn nữa. Học sinh tập trung hơn, hứng thú hơn, tích cực tìm tòi, kiên nhẫn hơn
trong khi giải. Các em làm bài một cách tự tin, chủ động; lời giải, phép tính, đáp số
đầy đủ và chính xác.
- Dưới đây là kết quả cụ thể đạt được trong từng giai đoạn theo bảng thống kê
sau:
Chọn và

Thời điểm

Xác định

Tóm tắt bài

thực hiện

Lời giải và

dạng toán

toán

phép tính


đáp số

Trường Lớp/Khối TSHS

đúng
Hoàn
thành

Chưa
hoàn
thành

Hoàn
thành

Chưa
hoàn
thành

Hoàn
thành

Chưa
hoàn
thành

Hoàn
thành


Chưa
Hoàn
thành

Chưa
áp

Đầu

dụng

năm

TH


Khối 2

107

80
74.8

Phan

27
25.2

79


28

75

73.8

26.2

69.2

16

93

32

71

36

30.8

65.4

34.6

14

91


16

13.1

85.0

15.0

đề tài
Sau
khi

TH

áp

CHKI

dụng



Khối 2

107

Phan

95


12

91

88.8

11.2

85.0

15.0

86.9

đề tài

- Dạy học theo mô hình VNEN với phương châm đổi mới phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm và tạo môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực.
Chúng tôi đã vận dụng những phương pháp trên nhằm nâng cao chất lượng học sinh
về giải toán có lời văn. Bước đầu đem lại hiệu quả cao, kết quả ở bài kiểm tra học kỳ I
cho thấy mức độ hoàn thành kiến thức tăng dần. Học sinh hứng thú học tập hơn, trong
giờ học các em tập trung cao hơn.
- Ban giám hiệu chỉ đạo áp dụng cho cả học sinh khối 2 của trường. Các giải pháp
trên và sau khi áp dụng đề tài; qua theo dõi, kiểm tra, chú ý học sinh tìm hiểu kỹ đề bài
toán có văn để cuối học kỳ II chất lượng cao hơn và không còn học sinh chậm kỹ năng
về giải toán có lời văn khối 2.
- Trong quá trình thực hiện đề tài Ban giám hiệu đã chỉ đạo cho giáo viên quan tâm
21



nhiều hơn đến các đối tượng học sinh chậm kỹ năng, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
giúp đỡ các em học tập ngày một tốt hơn.
- Thường xuyên theo dõi việc vận dụng thực hiện đề tài này để so sánh đối chiếu
kết quả, có biện pháp chỉ đạo kịp thời trong việc giảng dạy và đánh giá kết quả học tập
của học sinh từ đó điều chỉnh phương pháp dạy cho thích hợp.
- Trong công tác quản lý ở trường, Ban giám hiệu còn chú trọng việc phối kết hợp
cùng giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp nhằm từng bước nâng cao chất lượng giải toán
có lời văn nói riêng và các môn học khác nói chung.
- Thông qua công tác dự giờ thăm lớp, thường xuyên dự giờ tất cả giáo viên khối 2
khi dạy giải toán có văn, qua đó đánh giá các ưu khuyết điểm của từng giáo viên về
nội dung truyền thụ kiến thức, phương pháp giảng dạy bao quát học sinh…đồng thời
kiểm tra kiến thức, chất lượng học sinh, đánh giá tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu và không
đạt yêu cầu trong tiết dạy cụ thể rèn kỹ năng kịp thời.
- Giáo viên chủ nhiệm cùng Ban giám hiệu tăng cường kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh được phản ánh qua kết quả kiểm tra thường xuyên trên lớp sản
phẩm học tập của học sinh, bài kiểm tra định kỳ để đánh giá chính xác.
- Gặp gỡ giáo viên giảng dạy và trao đổi với các em học sinh về một số thuận lợi,
khó khăn khi giảng dạy và học về giải toán có văn, ưu tiên giáo viên trình bày một số
khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phân môn giảng dạy (nêu cụ thể theo tình
hình lớp).
- Qua công tác điều tra từ phía giáo viên, học sinh, phụ huynh, Ban giám hiệu kết
hợp với tổ chuyên môn, giáo viên khối 2 rút ra một số hạn chế cần khắc phục để nâng
cao chất lượng môn Toán nhất là giải toán có lời văn.
- Chỉ đạo cho chuyên môn nhà trường, tổ chuyên môn nghiên cứu nắm sát nội dung
chương trình môn Toán (đặc biệt giải toán có văn) lưu ý một số dạng bài tập khó mà
giáo viên thường gặp khó khăn trong giảng dạy hiệu quả không cao. Từ đó tìm ra
hướng dẫn cách giải sao cho học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu và hình thức tổ chức dạy
học, sinh động trong đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN, phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Theo dõi áp dụng, đánh giá kết quả thực hiện các giải pháp đề ra: Sau khi giới

thiệu các giải pháp được giáo viên đồng tính áp dụng phù hợp theo tình hình lớp, Ban
giám hiệu nhà trường giáo viên trong khối 2 cùng các khối khác tích cực dự giờ đánh
22


giá kết quả đối với các lớp áp dụng giải pháp. Tiến hành phân tích so sánh kết quả theo
từng giai đoạn rút ra mặt mạnh, mặt hạn chế của giải pháp đã áp dụng.
- Hoàn chỉnh giải pháp đề ra. Qua thao tác phân tích, đánh giá kết quả áp dụng một
cách sát thực, Ban giám hiệu nhà trường cùng với giáo viên tiếp tục phối hợp bàn bạc
trên tinh thần phát huy giải pháp hữu hiệu và bổ sung, điều chỉnh đối với giải pháp
chưa hiệu quả và tiếp tục áp dụng trong thời gian tới để nâng cao chất lượng giảng
dạy.
- Nhắc nhở tổ chuyên môn chú trọng nội dung nâng cao chất lượng giảng dạy đối
với môn Toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng trong nội dung sinh hoạt tổ
nhằm phát huy tính sáng tạo của mỗi giáo viên góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Tổ chức cho giáo viên thường xuyên dự giờ thăm lớp ở các trường trong huyện
để trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Ưu điểm:
Chúng tôi theo dõi kết quả học tập của học sinh và nhận thấy khi áp dụng đề tài,
học sinh có tiến bộ rõ rệt. các em tự tin hơn, tích cực học tập hơn.
Tồn tại:
Tuy còn học sinh (xác định dạng toán, tóm tắt bài toán, chọn và thực hiện đúng
phép tính, lời giải và đáp số) chưa đạt nhưng ở số rất ít.
Khắc phục:
- Chúng tôi sẽ cố gắng kiên trì theo dõi, kiểm tra đôn đốc, chú ý cho học sinh hiểu
về xác định dạng toán, tóm tắt bài toán, chọn và thực hiện đúng phép tính, lời giải và
đáp số.
- Thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh, nhờ phụ huynh nhắc nhở thêm ở
nhà làm phần hoạt động ứng dụng để học có kiến thức sâu hơn, chắc hơn, giới thiệu

cho học sinh những quyển sách học tốt, sách có bộ đề để các em tham khảo.
- Khen ngợi kịp thời khi các em có tiến bộ.
- Đối với học sinh ghi nhầm đơn vị chúng tôi yêu cầu học sinh khi làm, cần nhìn
vào câu hỏi của bài toán sau từ “mấy, bao nhiêu” hoặc từ đứng cuối câu hỏi của bài
toán là đơn vị bài toán.
- Đối với học sinh tính sai khi làm bài chúng tôi yêu cầu các em đọc kỹ đề bài để
nắm bài toán yêu cầu gì rồi xác định bài toán để giải.
23


- Yêu cầu học sinh phải kiểm tra kỹ lại bài sau khi đã làm xong.
- Khi áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy chúng tôi thấy chất lượng giải toán có
lời văn được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên vẫn còn vài em giải sai, chúng tôi sẽ vận dụng
những khắc phục nêu trên để cuối học kỳ II không còn học sinh giải sai bài toán có lời
văn.
5. Phạm vi áp dụng:
Đề tài đã được áp dụng ở khối 2 của trường Tiểu học Xã Phan. Đồng thời đã
được vận dụng thực hiện vào các tiết dạy chuyên đề và đã áp dụng dạy ở khối 2 của
trường Tiểu học Thị Trấn A đã đem lại hiệu quả cao.

24


III. KẾT LUẬN:
1. Bài học kinh nghiệm:
Để việc dạy và học theo mô hình VNEN đạt được kết quả tốt, mà trong đó việc
hướng dẫn giải đúng các dạng toán có lời văn khối 2 có hiệu quả, trong quá trình dạy
học giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
- Cần nắm vững mục tiêu; yêu cầu; nội dung từng bài dạy, tiết dạy trong quá
trình dạy giải toán có lời văn. Trên cơ sở đó giáo viên bám theo tài liệu hướng dẫn

giáo viên môn Toán lớp 2 của Bộ Giáo dục và đào tạo theo dự án mô hình trường học
mới Việt Nam. Bên cạnh đó giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung
bài dạy, tình hình lớp học và đối tượng học sinh để đạt được mục tiêu đề ra.
- Phải đảm bảo yêu cầu giải toán có lời văn theo đúng các bước: Đọc kỹ đề bài
toán, tóm tắt bài toán, phân tích đề biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? Sau khi phân tích
bài toán để tìm cách giải hoặc tìm ra dữ kiện đã biết và chưa biết, giải bài toán hay còn
gọi tìm ra các câu lời giải phù hợp kèm với phép tính và đáp số, ghi đúng tên đơn vị và
thử lại các kết quả, trừ một số trường hợp đặc biệt không phải theo trình tự trên.
- Ngoài ra, trong suốt thời gian dạy toán có lời văn, khi phát hiện học sinh cần sự
hỗ trợ của giáo viên hoặc làm toán sai thì giáo viên chú ý nắm bắt kịp thời để hỗ trợ và
sửa sai ngay.
- Khi áp dụng đề tài, chúng tôi nhận thấy như sau:
+ Đa số học sinh biết phân tích bài toán (nêu được bài toán hỏi gì và cho biết
gì?)
25


×