Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiểu luận đảm bảo quyền bình đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.69 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm
trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của tồn xã hội, các
cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp
phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an tồn xã hội. Tuy
nhiên, chất lượng cơng tác tư pháp nói chung và cơng tác xét xử nói riêng cịn
chưa ngang tầm với u cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn
bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và cơng dân (theo số liệu
thống kê của Tịa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng
vẫn cịn: năm 2002 tồn bộ ngành Tịa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm
2003 chỉ còn 7 trường hợp, năm 2004 còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả
đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân và xã hội. Có người vì bị kết tội
oan nên đang là chủ doanh nghiệp tư nhân mà sau khi bị kết án phải làm thợ mộc
để kiếm sống qua ngày, trường hợp khác đã ở tù một thời gian, bị người thân xa
lánh, đầy mặc cảm với xã hội, đến khi kẻ phạm tội đích thực nhận tội mới được
trở về; cịn có người vì bị kết án oan nên không biết bao nhiêu năm, tháng
miệt mài đưa đơn đi tìm cơng lý... Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội
không tốt, khiến nhân dân thiếu lịng tin vào tịa án và nền cơng lý xã hội chủ
nghĩa.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002
được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị
quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư pháp, nhưng tăng
cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là điểm
nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Theo đó,


việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại


phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của
công lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với
các cơ quan tư pháp là làm thế nào để đạt được những u cầu đó. Trong nỗ
lực chung, thì việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa là cần thiết.
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến
vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Tranh tụng trong tố tụng hình
sự" của tác giả Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" - Viện kiểm sát nhân dân
tối cao năm 1995; bài "Về tranh tụng tại phiên tịa hình sự" của tác giả Tống
Anh Hào trong Tạp chí Tịa án nhân dân số 5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh
tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác
giả Trần Đại Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số
5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH
Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác
giả (Nxb Đại học quốc gia, 2004)... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến
một số vấn đề nhất định liên quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái
ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới hoạt động xét xử của ngành Tòa án
Việt Nam theo hướng tranh tụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt
động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đã thôi thúc
tôi chọn đề tai "áđo m quyn bỡnh ng trc tũa ỏn trong luật tố tụng
hình sự" làm đề tài của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những
bất cập còn tồn tại của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, thông



qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa hướng tới xây dựng một phiên tịa hình sự thực sự cơng
bằng, dân chủ góp phần thực hiện q trình cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt
ra là:
1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như:
khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa; Cơ sở
pháp lý quy định về tranh tụng tại phiên tòa; ý nghĩa của tranh tụng tại phiên
tòa.
2- Sơ lược về lịch sử các qui định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về
tranh tụng tại phiên tịa.
3- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam
những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
4- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh
tụng tại phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách
tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền bình đẳng trước tịa là vấn đề lớn trong hoạt động tố
tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án
nên trong phạm vi của một bài tiểu luận văn không thể xem xét và giải quyết
hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề đảm bảo quyền bình đẳng
trước tịa trong tịa án hình sự
Với phạm vi nghiên cứu này, đề tài nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tịa
đảm bảo quyền đẳng giữa các bên dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định
của pháp luật, và chỉ ra vướng mắc trong hoạt động thực tiễn . Từ đó đưa ra
những quan điểm, kiến nghị góp phần nhằm nâng cao chất lượng của hoạt
động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.



4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thành đề tài, tôi đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp
luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương
pháp lịch sử; phương pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia
đầu ngành, những người làm công tác thực tiễn lâu năm); phương pháp khảo
sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa hình sự.
5. Những điểm mới của bài tiểu luận
Bài tiểu luận có những điểm mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tịa, góp phần nâng
cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
2- Luận văn khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên
tòa, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định đó khi xét xử và chỉ ra những
hạn chế tồn tại trong hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự, cũng như làm
rõ nguyên nhân và điều kiện của tồn tại đó.
3- Các giải pháp về hồn thiện pháp luật, về cơ chế tổ chức, về đội ngũ
cán bộ.. nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự
mà luận văn đưa ra sẽ giúp ích cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và
Tịa án nói riêng nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
đề tài bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Tranh tụng tại phiên tòa va cac giai doan tranh tung
. ới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp nói chung và hoạt
động tranh tụng tại phiên tịa nói riêng là một trong những yêu cầu cấp thiết,
là một trong những nội dung quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước



pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quan điểm của Đảng ta về cải
cách tư pháp được đề cập trong các Văn kiện của Đảng ta trong những năm
gần đây. Tại Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban
chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “… Nâng cao chất lượng
công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật
sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết
của Tòa án (TA) phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi
ích hợp pháp để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định… Các cơ quan tư pháp có
trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng…”.
Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) hiện hành về cơ bản đã đáp ứng
được yêu cầu theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW, đó là đã quy định đầy
đủ và cụ thể hơn về trình tự, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự. Đây là những cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa ở nước ta. Tranh tụng là một đề tài rất rộng và phức tạp, trong phạm
vi của bài viết này chúng tôi xin trao đổi về một số vấn đề sau:
1. Về phạm vi tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
Chúng tơi cho rằng trước hết phải xác định phạm vi tranh tụng, tức là
xác định quá trình tranh tụng tại phiên tịa được bắt đầu từ thời điểm nào và
kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi tranh tụng thì
mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động của kiểm sát
viên khi tranh tụng tại phiên tòa. Về vấn đề này, hiện nay trong khoa học Tố
tụng Hình sự (TTHS) ở nước ta cịn có nhận thức khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: cho rằng tranh tụng tại phiên tòa chỉ bao gồm
phần tranh luận tại phiên tòa khi cho rằng tranh luận theo tinh thần Nghị



quyết 08/NQ-TW có thể hiểu là* nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa,
lấy kết quả tranh luận tại phiên tòa để ra bản án, quyết định1.
Quan điểm thứ hai: cho rằng tranh luận tại phiên tòa gắn liền với phiên
tịa và khơng chỉ bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá
trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tòa tuyên án2. Điều đó
có nghĩa là q trình tranh tụng tại tòa được bắt* đầu từ thời điểm khai mạc
phiên tòa và bao gồm cả phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị
án và tuyên án.
Quan điểm khác lại cho rằng q trình tranh tụng tại phiên tịa được bắt
đầu từ thời điểm kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức
là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án3
Chúng tôi cho rằng quan điểm thứ nhất đã quá thu hẹp phạm vi tranh
tụng. Để có căn cứ tranh luận về vụ án, các chủ thể tham gia tranh tụng phải
kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu về vụ án để từ đó lựa chọn được
những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng minh làm căn cứ cho các lập luận
của mình khi đề xuất với Hội đồng xét xử về hướng giải quyết các vấn đề về
vụ án. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh* tụng trong phạm vi tranh
luận tại phiên tòa thì chưa xác định được quá trình tranh tụng về vụ án giữa
các bên sẽ kết thúc ra sao. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tơi thì tranh luận
chỉ là một thủ tục – một phần độc lập của phiên tịa, trong đó thể hiện tập
trung và rõ nét nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh
tụng* và chỉ là một bộ phận cấu thành của cả quá trình tranh tụng. BLTTHS
(từ Điều 217 đến Điều 221) ghi nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một
phần của phiên tòa sơ thẩm, được tiến hành ngay sau phần xét hỏi.
Theo quan điểm thứ hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao
gồm cả* phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Chúng tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng này có thể chấp
nhận được, vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên tòa chỉ được coi là

giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng.


Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba cho rằng quá trình tranh tụng tại
phiên tịa bao gồm* phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án là chính xác.
Bởi vì, chỉ sau khi Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án, thì kết quả tranh tụng
giữa các bên tại phiên tòa về vụ án mới được xác định và khi đó q trình
tranh tụng tại phiên tịa mới kết thúc.
Bản chất của tranh tụng tại phiên tịa chính là quá trình xác định sự thật
khách quan về vụ án. Bản chất này chi phối và định hướng mọi hoạt động và
hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia phiên tịa. Tại đây, thơng qua hoạt
động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng như
thẩm phán, kiểm sát viên cùng với sự tham gia của những người tham gia tố
tụng khác như luật sư; của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng… Hội đồng xét xử
có trách nhiệm xác định sự thật khách quan và ra phán quyết để giải quyết vụ
án. Bản chất của tranh tụng được thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Tranh tụng tại phiên tịa là một cuộc điều tra cơng khai do các chủ thể
(thẩm phán, kiểm sát viên, người bào chữa,…) cùng tiến hành dưới sự điều
khiển của Hội đồng xét xử (chủ tọa phiên tòa). Tại đây các chứng cứ về vụ án
được các chủ thể của các bên và Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá công khai
trên cơ sở các quy định pháp luật.
- Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm
ngặt, phức tạp về nội dung, thể hiện sự xung đột về lợi ích, về tâm lý giữa các
bên buộc tội và bên gỡ tội và bị hạn chế về mặt không gian và thời gian do
pháp luật tố tụng quy định tức là hoạt động này chỉ có thể thực hiện tại phiên
tịa và trong thời gian diễn ra phiên tịa.
- Mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan về vụ án
thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá công khai chứng cứ và giá trị chứng
minh của các chứng cứ về vụ án trên cơ sở các quy định pháp luật làm căn cứ

cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của Hội đồng xét xử về các vấn
đề cần giải quyết trong vụ án theo quy định tại Điều 63 BLTTHS.


- Kết quả tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên về vụ án do Hội đồng
xét xử quyết định khi nghị án và được thể hiện bằng phán quyết (bản án hoặc
quyết định) nhân danh Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là
văn bản pháp lý kết thúc quá trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm giữa
các bên về vụ án.
2. Về các giai đoạn của qúa trình tranh tụng và nhiệm vụ của kiểm sát
viên trong từng giai đoạn.
Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể có thể
phân q trình tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng;
- Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án;
- Giai đoạn tranh luận giữa các bên;
- Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
2.1. Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:
Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được
bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc
trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng. ở giai đoạn này, chủ tọa phiên tòa
tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi tiến hành tranh tụng như: kiểm tra sự
có mặt, vắng mặt (lý do vắng mặt) của những người được triệu tập tham gia
vào quá trình chứng minh tại phiên tịa. Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định chấp nhận hay không chấp nhận u cầu, đề nghị của các bên về hỗn
phiên tịa, triệu tập thêm người làm chứng, bổ sung chứng cứ mới…
Theo quy định của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) và
Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự số 121/2004/QC-VKSTC ngày 16/9/2004 (sau đây gọi là Quy
chế)* thì tại phiên tịa sơ thẩm hình sự, Kiểm sát viên (KSV) tham gia phiên

tòa với trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Hội đồng xét xử (HĐXX), của những người tham gia tố tụng. Cụ thể
là,* Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên


toà của Hội đồng xét xử (về việc khai mạc phiên tòa, kiểm tra căn cước của
những người tham gia tố tụng được tịa triệu tập ; giải thích cho họ về quyền
và nghĩa vụ, giải quyết việc hoãn phiên tòa, giải quyết việc đề nghị thay đổi
thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký tòa án, người giám định, người
phiên dịch…), của thư ký Toà án và những người tham gia tố tụng ( về sự có
mặt của bị cáo; về sự có mặt của người bào chữa …) từ khi bắt đầu đến khi
kết thúc phiên toà, nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của những người
tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được công minh đúng quy định của
pháp luật. Kiểm sát viên phải đề nghị hỗn phiên tồ trong các trường hợp
sau:
- Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; người bào chữa bắt buộc vắng
mặt; người tham gia tố tụng khác vắng mặt sẽ gây trở ngại cho việc xét xử vụ
án;
- Thành phần Hội đồng xét xử không đúng với quy định của BLTTHS;
- Bị cáo yêu cầu hỗn phiên tồ, nếu việc giao nhận bản cáo trạng và
quyết định đưa vụ án ra xét xử không đúng quy định tại khoản 2 Điều 49 và
khoản 1 Điều 182 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Trường hợp Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử thì Kiểm sát viên phải
tham gia phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ án. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện cấp mình để
báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên xem xét quyết định.
2.2. Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án.
Đây là giai đoạn đầu của quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt
đầu từ thời điểm kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi kiểm
sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng

cứ về vụ án do Hội đồng xét xử tiến hành với sự tham gia của kiểm sát viên,
luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và những người tham
gia tố tụng khác. Thông qua việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm
chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…; cơng bố lời khai của những


người vắng mặt tại phiện tịa, cơng bố các kết luận giám định, các tài liệu có
liên quan và xem xét vật chứng, các thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát
viên, luật sư tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các
chứng cứ về các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó, HĐXX xác định có tội
phạm xảy ra hay khơng, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội
hay khơng, động cơ mục đích, ngun nhân và điều kiện phạm tội, hậu quả
của tội phạm…để ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với diễn biến tại phiên
tòa.
Theo quy định tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND và* Điều 21 Quy chế
121 thì trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng hoặc
quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và quyết định khác của Viện kiểm sát
liên quan đến việc giải quyết vụ án và trình bày ý kiến bổ sung làm rõ thêm
nội dung cáo trạng nếu có. Bản cáo trạng là văn bản pháp lý, là quyết định
truy tố của Viện Kiểm sát (VKS), vì vậy khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên
(KSV) phải thật nghiêm túc, trình bày rõ ràng mạch lạc.
Một trong* những nhiệm vụ quan trọng của KSV ở giai đoạn này là
tham gia xét hỏi. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước khi tham gia phiên toà
Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi và những nội dung cần làm sáng
tỏ tại phiên toà để tham gia xét hỏi nhằm xác định sự thật của vụ án và các
tình tiết khác có liên quan đến việc định tội và đề xuất hình phạt.Trong đề
cương xét hỏi, KSV đặc biệt chú ý các mâu thuẫn và cách xét hỏi để giải
quyết các mâu thuẫn, và bác bỏ những lời chối tội khơng có cơ sở; kiểm sát
viên không nhất thiết phải dự kiến nội dung bào chữa và chuẩn bị các câu hỏi
để làm sáng tỏ vấn đề mà người bào chữa quan tâm.Tại phiên toà Kiểm sát

viên theo dõi, ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi của Hội đồng xét xử, của
người bào chữa và ý kiến trả lời của người được xét hỏi để chủ động tham gia
xét hỏi làm sáng tỏ hành vi của bị cáo, xác định sự thật khách quan của vụ án.
Khi xét hỏi, Kiểm sát viên phải đặt câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, tránh giải thích,
kết luận ngay. Khi có người tham gia tố tụng xuất trình tài liệu mới tại phiên


toà, Kiểm sát viên cần kiểm tra và xét hỏi về nguồn gốc, nội dung tài liệu đó
để có kết luận chính xác. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà tài liệu
mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị
Hội đồng xét xử hỗn phiên tồ để xác minh.
2.3. Tranh luận giữa các bên
Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa
các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm kiểm sát viên
trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị
án. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, các chủ thể của bên buộc tội và
bên bào chữa tiến hành đánh giá chính thức cơng khai giá trị chứng minh của
các chứng cứ về vụ án để đưa ra quan điểm, nhận định, kết luận của mình về
vụ án; các bên thể hiện rõ quan điểm của mình là chấp nhận hay bác bỏ các
chứng cứ, quan điểm hay kết luận của “bên kia” về các vấn đề cụ thể cần giải
quyết trong vụ án. Nội dung tranh tụng trọng tâm của các bên được thể hiện
trong lời luận tội của kiểm sát viên, lời bào chữa của luật sư (lời tự bào chữa
của bị cáo), ý kiến tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị
hại, cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc của chính bản thân họ và
lời đối đáp qua lại giữa các bên. ở giai đoạn này, HĐXX khơng trực tiếp tham
gia vào q trình tranh luận* giữa các bên mà nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX,
cụ thể là của thẩm phán - chủ toạ phiên tịa là điều khiển q trình tranh tụng
để hướng sự tranh luận của các bên* tập trung vào việc làm sáng tỏ quan
điểm còn mâu thuẫn với nhau và ghi nhận quan điểm, ý kiến của các bên
tranh tụng về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

Điều 217 BLTTHS, Điều 17 Luật tổ chức VKSND quy định: sau khi
kết thúc việc xét hỏi tại phiên tịa, KSV trình bày lời luận tội. Với tư cách là
người đại diện cho VKS thực hành quyền công tố nhà nước, KSV thể hiện
quan điểm của mình về việc đánh giá hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu
quả của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
cáo... để đề xuất mức hình phạt cần thiết áp dụng với bị cáo. Để luận tội đạt


hiệu quả, trước khi tham gia phiên toà Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo
luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đối với vụ
án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của Kiểm
sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện cho ý kiến. Tại phiên toà Kiểm sát viên
phải ghi chép những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra và ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác để bổ sung và sửa chữa bản dự thảo luận tội. Sau khi kết thúc
việc xét hỏi Kiểm sát viên trình bày luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn
bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Luận tội
của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra
tại phiên toà, ngoài việc đề xuất việc áp dụng hình phạt chính, KSV phải chú
ý đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo, đề nghị việc xử lý vật
chứng và trách nhiệm bồi thường dân sự nếu có.
Nhiệm vụ rất quan trọng của KSV trong giai đoạn này là tranh luận và
đối đáp với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Khi tranh luận Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với
từng ý kiến có liên quan đến vụ án mà người bào chữa, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác đã nêu ra. KSV phải căn cứ vào kết quả điều tra được
thể hiện trong hồ sơ và kết quả điều tra cơng khai tại phiên tịa để lập luận,
đối đáp trở lại. Khi tranh luận Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách quan và tôn
trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng. Trường hợp chủ toạ phiên toà
đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án, của người

bào chữa và những người tham gia tố tụng khác chưa được tranh luận thì
Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ tọa phiên toà. Cần chú ý, nếu
nội dung đề nghị của chủ toạ phiên tồ chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên
tiếp tục tranh luận, nếu đã tranh luận một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ
sung cho đầy đủ.
2.4. Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng


Đây là giai đoạn có vai trị quyết định tồn bộ quá trình tranh tụng. Giai
đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và kết thúc sau
khi tuyên án. Hội đồng xét xử thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại
phòng nghị án, khơng có sự tham gia của bất cứ ai. Tại đây các thành viên của
Hội đồng xét xử thảo luận về tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan
của các chứng cứ đã được kiểm tra xác minh tại phiên tòa; xem xét các yêu
cầu, đề nghị và quan điểm của các bên về vụ án trên cơ sở các quy định của
pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự,
Luật thương mại… Sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử tiến hành biểu quyết
theo đa số về từng vấn đề cụ thể của vụ án. Hội đồng xét xử chấp nhận hay
không chấp nhận quan điểm, yêu cầu, đề nghị của các bên buộc tội, bên bào
chữa và quyết định về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án như về tội
danh, về điều, khoản, điểm của BLHS cần áp dụng cũng như các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ cần áp dụng với bị cáo; mức hình phạt; mức bồi thường thiệt
hại… hoặc HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Việc đánh giá chính thức
kết quả tranh tụng của các bên về vụ án được HĐXX thể hiện bằng phán
quyết ở dạng bản án hoặc quyết định.
Bản án hoặc quyết định của HĐXX là văn bản pháp lý ghi nhận kết quả
tranh tụng giữa các bên về vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Phán quyết này
là nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam, được Thẩm
phán chủ tọa phiên tịa tun đọc cơng khai kể cả trong những trường hợp xét
xử kín. ở giai đoạn này, KSV phải thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Khi một thành viên của Hội đồng xét xử đọc bản án, Kiểm sát viên
phải chú ý ghi lại những nhận định quan trọng và nội dung quyết định của bản
án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra biên bản phiên toà, bản án sơ thẩm và
chuẩn bị nội dung kháng nghị, nếu cần thiết;
-Ngay sau khi HĐXX tuyên án, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội
đồng xét xử trả tự do cho bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo theo quy định tại
Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Hình sự;


.- Sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên phải kiểm tra biên bản
phiên toà, nếu phát hiện biên bản phiên tồ ghi khơng đầy đủ hoặc khơng
chính xác thì yêu cầu Hội đồng xét xử ghi những sửa chữa bổ sung vào biên
bản phiên toà;
-* Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án nhằm
phát hiện những sai sót và vi phạm của Toà án trong việc ra bản án hoặc
quyết định, đồng thời phải kiểm sát việc giao bản án, các quyết định của Toà
án và việc gửi hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị theo đúng quy định của
các Điều 229 và 237 Bộ luật Tố tụng Hình sự.;
- Khi phát hiện bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tồ án có vi phạm
pháp luật, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện kiểm sát cấp
mình để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Từ những nội dung đã nêu và phân tích ở trên có thể khẳng định rằng:
1) Các giai đoạn của quá trình tranh tụng có mối liên hệ chặt chẽ và
biện chứng khơng thể tách rời. Mỗi giai đoạn này tuy có sự khác nhau về tính
chất, mức độ, nội dung và hình thức nhưng kết quả của giai đoạn trước là tiền
đề cho hoạt động của các chủ thể ở giai đoạn tranh tụng tiếp theo.
2) Chỉ có phiên tịa sơ thẩm, thì bản chất của tranh tụng mới được thể
hiện đầy đủ, tập trung và rõ nét nhất. Bởi vì, Tịa án cấp sơ thẩm có nhiệm vụ
xét xử đối với tồn bộ vụ án nên tại phiên tịa này mới có sự tham gia đầy đủ
của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham

gia tố tụng khác (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…)
3) Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV tham gia phiên tòa với nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX và những
người tham gia tố tụng khác. Đây là hai nhiệm vụ có mối liên hệ chặt chẽ và
khơng tách rời nhau. Tại phiên tịa, KSV thực hiện tốt chức năng thực hành
quyền cơng tố chính là tạo điều kiện thuận lợi, hiệu quả để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và làm tốt việc kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa sẽ


đảm bảo cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần
giảm thiểu oan sai và khơng để lọt tội phạm.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên
tại phiên tòa hình sự
3.1. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại
phiên tịa hình sự
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tịa hình sự nói chung và
chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự nói riêng là một
địi hỏi, nhu cầu tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Đòi hỏi này xuất phát từ các yếu tố sau đây:
1) Một trong những nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước
trong giai đoạn hiện nay là tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan Tư pháp. Ngành Kiểm sát nhân dân là một trong những bộ
phận giữ vai trò quan trọng trong hệ thống các cơ quan Tư pháp. Trong
TTHS, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp nói chung và trong giai
đoạn xét xử tại phiên tịa nói riêng. Vì vậy, Viện kiểm sát chỉ có thể hồn
thành tốt chức năng này khi đội ngũ kiểm sát viên làm tốt nhiệm vụ tranh tụng
của mình tại phiên tịa hình sự.
2) Tình hình tội phạm ở nước ta trong những năm gần đây ngày càng
diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn.

Cuộc đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi chúng ta một mặt phải xử lý kiên
quyết nghiêm minh đối với mọi hành vi phạm tội, nhưng mặt khác, phải bảo
đảm tôn trọng và bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn các quyền tự do cơ bản
của công dân, không được bỏ lọt tội phạm đồng thời không được làm oan cho
người vô tội. Viện kiểm sát là chủ thể thực hiện chức năng công tố là buộc tội
bị cáo trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa. Hoạt động tranh tụng của
kiểm sát viên tại phiên tịa có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và kết quả
xét xử vụ án.


3) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đánh dấu một bước
ngoặt với sự thay đổi chức năng của Viện kiểm sát Nhân dân, theo đó Viện
kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội mà chỉ thực hiện chức năng
công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động Tư pháp mà phạm vi thực hiện
chức năng cơng tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS;
Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành quy định đầy đủ và cụ thể hơn về
quyền và nghĩa vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân các cấp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các kiểm sát viên
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS nói chung và trong
tranh tụng tại các phiên tịa nói riêng.
4) Kiểm sát là một nghề trong đó hoạt động tranh tụng của kiểm sát
viên tại phiên tòa là một nội dung quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp
của kiểm sát viên. Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa trước
hết phụ thuộc vào kỹ năng nghề nghiệp – kỹ năng tranh tụng của kiểm sát
viên. Thực tiễn hoạt động kiểm sát đã chứng minh rằng: kỹ năng tranh tụng
của kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc đổi mới và những bất cập này cần được khắc phục.
5) Theo quy định của pháp luật, từ ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án
nhân dân cấp huyện sẽ thực hiện việc xét xử các vụ án có khung hình phạt

quy định đến 15 năm tù. Như vậy, số lượng án hình sự do Viện kiểm sát cấp
huyện thực hành quyền công tố sẽ tăng lên. Trong khi đó đội ngũ kiểm sát
viên nói chung và kiểm sát viên chuyên trách kiểm sát điều tra xét xử án hình
sự ở Viện kiểm sát cấp huyện chưa được kiện tồn đầy đủ, trình độ lại khơng
đồng đều. Đây là một khó khăn mà ngành kiểm sát phải nỗ lực phấn đấu để
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng
của kiểm sát viên tại phiên tòa cũng là một trong những yêu cầu cấp bách
trong giai đoạn cải cách tư pháp


Chương 2: Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự va
viec ap dung nguyen tac dam bao quyen binh dang truoc toa
Từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được quán triệt, hầu hết các vụ án đã
được đưa ra xét xử với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa
trên cơ sở những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần
cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại phiên tịa, Hội đồng xét xử đã thể hiện
được tính khách quan, tơn trọng, lắng nghe ý kiến của cả kiểm sát viên, luật
sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được
tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau, cùng tranh
luận xác định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn
chấp nhận luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ
mới. Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ
có trong hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận
tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của
người bào chữa và những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng bên cạnh những phiên tịa xét xử
đúng với tinh thần tranh tụng cịn có những phiên tịa khơng đạt u cầu.
Có những phiên tồ, thẩm phán thiếu trách nhiệm, không nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ án, cẩu thả trong cơng tác chuẩn bị phiên tịa, trong phiên tòa cũng

như trong viết bản án; đánh giá chứng cứ khơng đầy đủ, khơng chính xác nên
xét xử oan người khơng có tội, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự,
khơng áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật hoặc các hướng dẫn phải áp
dụng trong cơng tác xét xử… Ngược lại, có những trường hợp do đánh giá
chứng cứ khơng chính xác, nhận thức không đầy đủ về quy định của pháp luật
nên lẽ ra phải kết án đối với bị cáo lại tun bị cáo khơng có tội.
Việc bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị cáo có mặt tại phiên tòa là
những quy định bắt buộc của pháp luật tố tụng hình sự, đó khơng chỉ là tn
thủ quy định tố tụng mà còn đảm bảo cho bị cáo được bào chữa, bảo vệ quyền


và lợi ích hợp pháp của mình qua q trình tranh tụng. Nhưng trên thực tế vẫn
cịn có những vụ án khi xét xử vắng mặt bị cáo nhưng không có lệnh truy nã
và kết quả truy nã; xét xử bị cáo chưa thành niên mà khơng có người đại diện
hợp pháp của bị cáo hoặc nhà trường tham gia; xét xử vắng mặt những người
tham gia tố tụng khác – những người mà pháp luật cho phép tham gia vào q
trình tranh tụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng
cho việc xét xử tại phiên tồ. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do
các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và
không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với những vụ án hình sự,
trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tố tụng, cho nên đa số các
trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội,
không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội, trong khi đó bên bào chữa không
được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của
họ tại phiên toà.
Luật đã quy định người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được
quyền trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu những người
này có luật sư bảo vệ quyền lợi thì luật sư trình bày trước, những người đó bổ

sung sau. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ án do hạn chế về thời gian mà thủ
tục này bị vi phạm, đương sự khơng được trình bày hoặc trình bày khơng hết
ý kiến của mình. Thậm chí có trường hợp họ cũng không được xét hỏi ở giai
đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng và vi phạm
tinh thần của tranh tụng tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử hiện nay còn tồn tại thiếu sót của thẩm phán – chủ tọa
phiên tịa là khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo
trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng. Khơng ít trường
hợp kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi
một câu nào mà chỉ đọc bản cáo trạng rồi ngồi xem Hội đồng xét hỏi khi nào


kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Vai trò của kiểm sát viên tại phiên
tòa chỉ như người chứng kiến, rõ ràng là kiểm sát viên đã khơng ý thức được
mình là một bên khơng thể thiếu của q trình tranh luận tại phiên tịa, dường
như việc xét hỏi và tranh luận là của Hội đồng xét xử.
Trong phiên tòa, luật sư là một bên của quá trình tranh tụng nhưng
nhiều trường hợp, bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà khơng
đi vào những tình tiết của vụ án một cách toàn diện, để khai thác bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bị cáo.
2. Nguyên nhân của những hạn chế trong tranh tụng tại phiên tịa
hình sự
2.1. Quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa phù hợp
Mặc dù pháp luật TTHS hiện hành của chúng ta đã có những quy định
khá tiến bộ về tranh tụng tại phiên toà, như: quy định về bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên toà; quy định về nguyên tắc bình đẳng giữa kiểm sát
viên với người bào chữa, bị cáo trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và
tranh luận trước Toà án, nhằm bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét
xử… Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) cũng quy định khi xét hỏi và tranh

luận, chủ toạ phiên tồ khơng hạn chế thời gian để xét hỏi cũng như để tranh
luận… Những quy định này tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng
có điều kiện về thời gian để tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS hiện hành chưa quy định tranh tụng là một
nguyên tắc của hoạt động xét xử, vì vậy, trong từng điều luật tại các chương
về xét xử cũng chưa thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế
việc đảm bảo cho tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tranh tụng là một điều
kiện cơ bản của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa. Nó là cơ sở để xác định tư
cách tố tụng của người bào chữa, bị cáo không chỉ là một chủ thể mà còn là


một bên tham gia tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội. Tuy nhiên, việc thể
hiện nội dung này tại các điều luật cụ thể vẫn chưa được quy định tại Bộ luật
TTHS năm 2003. Ví dụ: tại các điều 187, 189, 190, 245, 280 Bộ luật TTHS
quy định, trong mọi trường hợp kiểm sát viên vắng mặt phải hoãn phiên tịa,
trong khi đó người bào chữa hoặc bị cáo và các chủ thể khác vắng mặt thì vẫn
có thể tiến hành xét xử vụ án. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa
đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng, sự vắng mặt của luật sư
và của bị cáo ở phiên tòa sẽ làm cho q trình tranh tụng mất đi ý nghĩa của
nó, bởi thiếu một bên tham gia và một chức năng quan trọng là bào chữa
khơng được thực hiện.
Tại phiên tịa, phán quyết của Tòa án phải dựa trên việc xem xét đánh
giá những chứng cứ được đưa ra và tranh luận giữa các bên. Thế nhưng khi
qua thẩm tra và đánh giá chứng cứ, nếu xét thấy bị cáo phạm tội khác nặng
hơn thì Hội đồng xét xử cũng khơng có quyền ra phán quyết về tội nặng hơn
đó theo quy định tại Điều 196 Bộ luật TTHS. Vì vậy, khi xét thấy bị cáo
phạm tội nặng hơn thì Hội đồng xét xử chỉ có thể căn cứ vào Điều 179 Bộ
luật TTHS trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Từ đó cho thấy,

tranh tụng tại phiên tịa chưa phải là căn cứ có tính quyết định với phán quyết
của Tòa án.
Viện kiểm sát là cơ quan đại diện cho Nhà nước thực hành quyền cơng
tố, nói một cách khác, Viện kiểm sát là bên buộc tội, thế nhưng Viện kiểm sát
lại kiêm luôn cả chức năng kiểm sát việc xét xử, như vậy rõ ràng là không thể
khách quan. Cần phải xác định Viện kiểm sát chỉ thực hành quyền cơng tố, vì
như vậy mới tránh tình trạng vừa đá bóng vừa thổi cịi, đồng thời, Viện kiểm
sát sẽ chuyên sâu hơn về nhiệm vụ của mình.
2.2. Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ


Đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư hiện nay còn nhiều hạn chế,
ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng nói chung, chất lượng xét xử vụ án hình
sự nói riêng.
Năng lực, trình độ chun mơn: năng lực của thẩm phán, kiểm sát viên
có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của q trình tranh tụng tại phiên tịa,
được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chun mơn nghiệp vụ và kinh
nghiệm khi tham gia phiên tịa, đối với thẩm phán là kỹ năng điều khiển phiên
tòa và kiểm sát viên là kỹ năng tranh tụng. Trong đó trình độ chun mơn,
nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn vì chủ yếu các trường hợp án bị sửa, hủy là do
việc nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán và kiểm sát viên còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, luật sư đã tham gia nhiều vào tranh tụng
trong vụ án hình sự. Tuy nhiên ở nhiều vụ án mà có sự tham gia của luật sư
thì việc tranh cãi chỉ xoay quanh quan điểm định tội danh hoặc tìm ra những
chỗ chưa hồn chỉnh của cơng tác điều tra để “bắt bẻ” chứ rất hiếm khi đưa ra
được những bằng chứng phản bác đắt giá… chưa kể sự mâu thuẫn, căng thẳng
trong khi tranh cãi thay vì phải xuất phát từ sự cọ xát về chứng cứ, luận điểm
thì đơi lúc chỉ vì thái độ, ngơn ngữ mang tính hình thức. Nhiều lúc cơng đoạn
tranh luận chỉ là sự cơng kích giữa hai phía buộc tội và gỡ tội, tuy là có kịch

tính nhưng nhiều khi lại làm mất đi vẻ uy nghiêm của một phiên tịa. Điều này
có một phần ngun nhân từ năng lực của luật sư. Thực tế hiện nay, do điều
kiện kinh tế, bị cáo và người nhà bị cáo không thuê luật sư, cho nên nhiều khi
luật sư phải làm thêm các dịch vụ pháp lý khác, chưa kể có người cịn có
những cơng việc khác bên cạnh nghề luật sư, nhiều luật sư là cán bộ hưu trí…
Những điều này làm cho kinh nghiệm và kỹ năng của luật sư bị dàn trải, hạn
chế năng lực chuyên sâu của luật sư.
Đạo đức, ý thức nghề nghiệp: hiện nay cịn có một số bộ phận cán bộ tư
pháp thối hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, làm trái với lương tâm và đạo
đức nghề nghiệp để kiếm tiền.


Một số luật sư khi tham gia bào chữa vụ án hình sự khơng quan tâm
đến cơng việc chun mơn, tới việc làm rõ các tình tiết của vụ án một cách
đầy đủ, toàn diện mà quá coi trọng vật chất, việc làm khơng trong sáng, làm
lộ bí mật điều tra hòng chạy tội cho bị can, bị cáo. Thậm chí có những luật sư
tìm cách “chạy án” nhằm gỡ tội cho thân chủ. Chính những biểu hiện, việc
làm của luật sư đã tự cản trở việc thực hiện quy định người bào chữa tham gia
tố tụng kể từ khi khởi tố vụ án và tiếng nói của luật sư bào chữa trong một vài
vụ án chưa được người dân đồng tình, coi trọng .
2.3. Nguyên nhân khác
Cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa chưa hợp lý: hiện nay
cơ chế để đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều vấn
đề. Từ việc tạo hành lang pháp lý để tạo ra cơ chế, ý thức của người tham gia
tranh tụng đến những quy chế kiểm tra giám sát để đảm bảo thực hiện, với
những chế tài nghiêm khắc khi phát hiện vi phạm và kịp thời khen thưởng
những trường hợp hoàn thành tốt nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thiện. Chẳng hạn,
tại phiên tịa, nếu Viện kiểm sát khơng chủ động xét hỏi làm rõ những tình tiết
buộc tội, khơng đối đáp trực tiếp đúng vấn đề mà luật sư đưa ra; việc ghi lại
diễn biến của toàn bộ vụ án tại phiên tịa khơng chính xác, khách quan thì sẽ

xử lý như thế nào? Thu thập tài liệu chứng cứ là việc rất quan trọng để luật sư
có thể tham gia tranh luận một cách bình đẳng tại phiên tịa, nhưng nếu Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát gây khó khăn trong việc cấp giấy phép bào chữa
cho luật sư thì chế tài nào xử lý? Và rất nhiều vấn đề cần phải có sự quy định
cụ thể để tạo ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc thực hiện tranh tụng.
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu: Một nguyên nhân cũng
không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến q trình tranh tụng tại phiên tịa,
đảm bảo tính trang nghiêm của Tịa án là cơ sở vật chất, trang thiết bị của
ngành Tòa án phần lớn đã xuống cấp, lạc hậu, không phù hợp với yêu cầu của
cơng tác xét xử trong tình hình mới. Một số Tòa án quá chật hẹp, nhiều khi
phải xử án tại phòng làm việc, xử án xong lại kê bàn ghế như cũ. Phòng xử


như vậy khơng đảm bảo tính trang nghiêm của Tịa án; chỗ ngồi cho luật sư
chật hẹp, khơng có phịng cách ly người làm chứng và các bên tham gia tố
tụng, ảnh hưởng nhiều đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
Ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn cịn hạn chế: tham
gia vào q trình tranh tụng cịn có bị cáo, người bị hại, người liên quan v.v..
nhưng nhận thức, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn
chế. Họ tham gia vào các giai đoạn tố tụng còn chưa nắm vững được luật để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình, nên chưa thể ý thức được rằng họ tham
gia vào quá trình tố tụng ấy cũng là để bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực thi
pháp luật của các cơ quan tư pháp, nhất là hiện nay công tác hướng dẫn, tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật về lĩnh vực tư pháp chưa sâu rộng.
Chương 3: Các giải pháp nham nang cao quyền bình đẳng trước toa
doi voi toa an hinh su

1.Hiệuquảxétxử:
Những kết quả nghiên cứu trên các lĩnh vực khoa học có liên quan đến việc
xét xử các vụ án hình sự cho thấy hiệu quả xét xử phụ thuộc vào rất nhiều yếu

tố chủ quan, khách quan khác nhau. Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả xét
xử các vụ án hình sự cũng phải được nghiên cứu trên nhiều phương diện và
các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh các giải pháp về chính trị, hành chính, tư
tưởng và giáo dục... thì việc tổ chức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả xét xử
các vụ án hình sự là một vấn đề rất cấp bách, cần phải có các biện pháp pháp
lý. Bởi lẽ, những biện pháp này nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật,
(khơng chỉ pháp luật tố tụng hình sự, mà cả những quy định pháp luật khác có
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy tư pháp hình sự);


mối quan hệ ngang, dọc và phối hợp, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan Nhà
nước trong toàn bộ hệ thống chính trị, các quy định của pháp luật, có tính chất
bảo đảm để các Tịa án nói chung và các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nói
riêng hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chỉ có thể tiến hành các giải pháp
nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật,
với một hệ thống pháp luật thống nhất đồng bộ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số giải pháp từ góc độ pháp luật tố
tụng hình sự.
2. Giải pháp về tố tụng hình sự có vai trị đặc biệt quan trọng nhằm
nâng

cao

hiệu

quả

xét

xử


các

vụ

án

hình

sự:

Về thực chất, các biện pháp pháp lý nhằm khơng ngừng nâng cao hiệu quả xét
xử, chính là sự điều chỉnh về mặt pháp lý, để thực hiện đồng bộ các quy phạm
pháp luật khác, nhằm bảo đảm để tất cả các thành tố tham gia vào hệ thống
xét xử (các chủ thể tham gia vào quá trình xét xử và phục vụ xét xử cũng như
toàn bộ tổ chức bộ máy, nguyên tắc vận hành, quan hệ dọc, ngang... trong hệ
thống Tịa án) đều hướng vào mục đích: Nâng cao hiệu quả xét xử. Nói cách
khác, là tất cả các định hướng quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xét xử, đều
phải được bảo đảm điều chỉnh bởi một cơ chế pháp lý hữu hiệu; được bảo
đảm thực hiện bởi tổng thể các quy phạm thống nhất mục đích. Đó là các quy
phạm trực tiếp điều chỉnh để bảo đảm:
a. Tổ chức hợp lý hệ thống xét xử;
b. Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đúng đội ngũ cán bộ tư
pháp - xét xử nói chung, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nói riêng.
c. Khơng ngừng bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động tố tụng, tư pháp; khắc phục những quy định chồng chéo, những quy
định trái với những nguyên tắc chung;
d. Bảo đảm đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết phục
vụ cho các hoạt động xét xử;



e. Khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ xét xử và tinh thần tự tôn nghề nghiệp, phụng sự pháp luật của đội
ngũ Thẩm phán.
Có thể nói rằng: Tồn bộ những biện pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động tố tụng, đều là biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả xét xử.
Tuy nhiên, những biện pháp nêu trên chính là những biện pháp trực tiếp nhất,
tác động trực tiếp đến khâu xét xử. Đồng thời, điều chỉnh các quan hệ xã hội
đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, thì khơng chỉ có các quy phạm pháp luật
về tố tụng hình sự, mà cịn các quy phạm pháp luật khác thuộc các lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, quản lý... Nhưng trong các quy phạm pháp luật thì
pháp luật tố tụng hình sự ln đóng vai trị quyết định, bởi nó cũng bị chi phối
bởi các quy phạm pháp luật khác, được xác lập nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt
động tố tụng, trong đó có hiệu quả hoạt động xét xử.
Vì thế, các giải pháp mang tính chất lập pháp về tố tụng hình sự có vai
trị, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả
xét xử các vụ án hình sự, cần được định hướng vào các mục tiêu cụ thể.
3. Cần giải quyết tốt vấn đề tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và
hội thẩm nhân dân đồng thời, hoàn thiện các quy định về quyền năng tố
tụng của các chủ thể này.
Theo quy định tại Điều 170 (BLTTHS) Bộ luật Tố tụng Hình sự (được
thơng qua ngày 21/11/2003) thì Tồ án nhân dân (TAND) cấp huyện có thẩm
quyền xét xử các vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và rất nghiêm trọng (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các
tội phá hoại hịa bình, chống lồi người và tội phạm chiến tranh, các tội quy
định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225,
226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật Hình sự). Theo số liệu
của Tồ án nhân dân tối cao (TANDTC), tính đến tháng 8/2009, tổng số
Thẩm phán TAND các cấp trong cả nước là 4526 người, thiếu 910 thẩm phán
so với chỉ tiêu biên chế được giao, trong đó: Số Thẩm phán TAND cấp tỉnh



×