Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thâm hụt ngân sách nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.69 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1

1


Lời giới thiệu:
Thâm hụt ngân sách – vấn đề nhạy cảm của không chỉ Việt Nam mà còn của
các quốc gia khác. Nó không chỉ tác động trước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động
đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong tình hình kinh tế thế giới liên tục
có những biến động như suy thoái kinh tế ở Nga, Nhật Bản, sự phục hồi không chắc
chắn của Khu vực đồng tiền chung châu Âu , đồng euro liên tục mất giá so với đồng
dollar Mỹ và một số đồng tiền chủ chốt khác trong thời gian vừa qua, sự phục hồi chưa
có dấu hiệu rõ rang của nền kinh tế sau khủng hoảng nợ công ở châu Âu… và trong
tình hình thâm hụt NSNN ở Việt Nam chưa bao giờ giảm, có xu hướng ngày càng
tăng, tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân cũng như tới toàn bộ nền kinh tế. Vậy
thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách diễn ra ở Việt Nam
trong các năm qua như thế nào? Tác động ảnh hưởng tiêu cực của nó đến nền kinh tế
ra sao? Giải pháp nào để xử lý thâm hụt NSNN, ổn định vĩ mô nền kinh tế? Bài tiểu
luận này với đề tài “Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam” là góp một phần nhằm
tìm ra đáp án cho những câu hỏi trên.
Kết cấu của bài tiểu luận gồm 3 phần
Phần 1: Lý thuyết về thâm hụt ngân sách
Phần 2: Thực trạng thâm hụt ngân sách
Phần 3: Một số kiến nghị, giải pháp của cá nhân
Do thời gian có hạn nên bài viết còn sơ sài, em rất mong nhận được sự góp ý
của thầy giáo để bài viết được hoàn thiện hơn và có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề
này.
Em xin chân thành cảm ơn!


2

2


Phần 1:
Lý thuyết về thâm hụt ngân sách
1. Thâm hụt ngân sách là gì?

Trước tiên, là khái niệm về ngân sách nhà nước: đó là toàn bộ các khoản thu chi
của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan của nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước
(Luật Ngân sách Nhà nước CHXHCN Việt Nam)
Hiểu một cách cơ bản nhất, thâm hụt ngân sach là tình trạng tổng chi ngân sách
nhà nước và chính phủ phải thực hiện lớn các khoản phải thu mà chính phủ phải
thực hiện lớn hơn các khoản phải thu mà chính phủ thu được tính trong một năm
tài chính;
Ở pham vi rộng hơn, thâm hụt ngân sách là hiện tượng ngân sách nhà nước
không thể cân đối được (thể hiện ở chênh lệch giữa cung và cầu về nguồn lực tài
chính của Nhà nước
Công thức tính thâm hụt ngân sách:
B=T–G
B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách
Khi B < 0: Thâm hụt ngân sách
Thu NSNN là các khoản thu hình thành từ thuế, phí, lệ phí trước bạ của các cá
nhân tổ chức, các khoản thu từ hoạt động kinh tế nhà nước, khoản đóng góp của
các tổ chức, cán nhân, các khoản viện trợ và các khoản phải thu khác theo quy định
của pháp luật
Chi ngân sách là khoản chi ra từ ngân sách không làm phát sinh nghĩa vụ phải bồi

hoàn trực tiếp đối với các đối tượng được hưởng ngân sách, là khoản thực chi của
ngân sách theo luật định trong 1 năm tài chính; Chi ngân sách nhà nước bao gồm
chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, và các khoản phải chi khác theo quy định.
2. Phân loại thâm hụt ngân sách

Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành 02 loại:
Thâm hụt cơ cấu: Là những khoản thâm hụt được quyêt định bởi những chính sách
tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô
chi tiêu cho giáo dục và quốc phòng,v..v...
3

3


Thâm hụt chu kỳ: Là những khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh
tế hay chính bởi mức độ cao thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân
3. Nguyên nhân thâm hụt ngân sách nhà nước

* Các nguyên nhân khách quan
3.1 Tác động của chu kỳ kinh doanh:
Nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng làm thu nhập của một quốc gia giảm xuống,
kéo theo đóthu NSNN giảm, tuy nhiên nhu cầu chi NSNN tăng để giải quyết những
khó khăn về đời sống cũng như kinh tế, xã hội và hậu quả tất yếu là thâm hụt NSNN sẽ
tăng lên. Ở giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thu NSNN sẽ tăng lên, trong khi
chi NSNN không tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt NSNN.
3.2 Do hậu của của tác nhân gây ra:

Xã hội luôn phải đối mặt với thiên tai, chiến tranh, dân số, dịch bệnh…., những tác
nhân đó sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến tình hình thu chi NSNN. Cụ thể tăng mạnh
nhu cầu chi cho quốc phòng và khắc phục hậu quả của thiên tai….mặc dù khi lập dự

toán các khoản mục trên đã được dự trù trước, tuy nhiên tổn thất thực tế thường vượt
xa dự đoán; Qua đó làm cho NSNN bị thâm hụt nhiều hơn
*Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân thứ nhất: Khi nhà nước thực hiện chính sách vĩ mô cho nền kinh tế
nhằm một mục tiêu nào đó sẽ dẫn đến việc thay đổi cơ cấu thu chi NSNN. Cụ thể nhà
nước muốn tăng đầu tư cơ sở hạ tầng tức là chi NSNN cho đầu tư phát triển tăng trong
khi nguồn thu không đổi dẫn đến tăng thâm hụt NSNN.
Nguyên nhân thứ hai cũng chính là nguyên nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất, ảnh
hưởng đến NSNN phải kể đến chính là do hoạt động điều hành ngân sách nhà nước
chưa hiệu quả.
3.1 Thất thu thuế nhà nước:
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước tuy nhiên, do hệ
thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá
nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà
nước.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp
có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên,việc miễn thuế,
4

4


giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm
hụt ngân sách nhà nước.
3.2 Đầu tư công kém hiệu quả :
Trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được
khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và
thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và kiềm hãm sự phát triển
của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
3.3 Quy mô tiêu chi tiêu của chính phủ quá lớn:


Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn
hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do
sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự
hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Lý thuyết kinh tế không chỉ ra một cách
rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của chính phủ một khi
vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ
nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước và cuối cùng
là gây ra lạm phát.
3.4. Công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế
Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong
chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế, Chúng ta có thể dễ dàng nhận
ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu
trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong
năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước
(thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc
hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi
áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong
chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có
được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo
thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN
trong tương lai hay không.
3.4 Nhà nước huy động vốn để kích cầu:
5

5


Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ,

miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu
một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm
hụt ngân sách tăng rất cao
3.5 Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên:
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi
ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ
chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân
cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự
toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi
bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi
hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình,
làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để
có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ
sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN

6

6


PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thâm hụt NSNN năm 2003
Ngân sách nhà nước (NSNN) luôn trong tình trạng thâm hụt ở mức cao. Giai đoạn
trước năm 1986, thu không đủ cho chi ngân sách, mức chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ
vào viện trợ nước ngoài. Giai đoạn sau đó 1986 - 1990, Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu đã cắt dần viện trợ cho Việt Nam, bội chi Ngân sách càng trầm trọng, nguồn
thu lúc này chủ yếu dựa vào vay nợ trong nước, ngoài nước và phát hành tiền. Đây
cũng là nguyên nhân gây lạm phát cao thời kỳ này.

Bước sang giai đoạn 1991 - 1996, kinh tế đất nước có nhiều dấu hiệu tốt như siêu lạm
phát được đẩy lùi nhờ Chính phủ thắt chặt chi tiêu cùng với thay đổi cơ cấu chi ngân
sách, chi tập trung vào đúng đối tượng tạo hiệu quả phát triển kinh tế, nguồn thu đã đủ
cho chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách giai đoạn trước được bù đắp bằng vay nợ.
Do vậy, thời kỳ này bội chi ngân sách đã giảm đáng kể, bội chi chỉ ở mức trung bình
2,56 % GDP trong khi giai đoạn 1985 - 1990 bội chi khoảng 7% GDP (Bảng 2)
Giai đoạn 1997 - 2001, nguồn thu NSNN đáp ứng cho cả chi thường xuyên và chi đầu
tư phát triển. Bội chi ở mức thấp trung bình 3,87% GDP từ năm 1996 - 2000, nợ công
cũng giảm đáng kể do kết quả của cơ cấu lại các khoản nợ công qua câu lạc bộ Paris.
Vào cuối những năm 1990, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á, nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm lại, tốc độ tăng đầu tư của Nhà nước giảm, hiện tượng
thiểu phát xuất hiện vào năm 2000, 2001. Đây cũng là hai năm có tỷ lệ bội chi NSNN
cao nhất chiếm gần 5% GDP, nhưng điều này được xem như một tín hiệu tốt trong bối
cảnh nền kỉnh tế giảm phát, sản lượng chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, các chính
sách tăng chi tiêu của Chính phủ chẳng những sẽ không gây ra lạm phát, mà còn thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo.

7

7


2.2 Thực trạng thâm hụt NSNN năm 2003-2012
Thu - chi ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
giai đoạn 2003 - 2012
Đơn vị: % so với GDP thực tế

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính (2012); Thâm hụt ngân sách được sử
dụng theo cách tính của Việt Nam
Qua thống kê cho thấy, trong những năm trở lại đây, tỉ lệ thâm hụt (bội chi) ngân sách

ở Việt Nam luôn nằm ở ngưỡng 5% GDP và có xu hướng tăng lên. Đây là một tỉ lệ rất
cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình thường, thâm hụt ngân sách ở
mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, còn ở mức 5% GDP thì bị coi là đáng báo
động. Riêng năm 2009 tỉ lệ thâm hụt ngân sách đã lên tới 6.9% GDP. Tốc độ tăng thâm
hụt ngân sách cũng là khá cao từ 17 – 18%. Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt là vào
khoảng 48,5 nghìn tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên tới 56,5 nghìn tỷ đồng. Và theo
kết quả công bố NSNN năm 2010 thì tỉ lệ thâm hụt ngân sách sẽ là 5,8% GDP, có giảm
so với năm 2009 nhưng vẫn còn ở mức cao.

8

8


2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước năm 2013
Theo báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình ngân sách nhà nước(NSNN) 8 tháng đầu
năm cho thấy hiện NSNN đang rơi vào tình trạng hụt thu, lạm chi. Cụ thể, tổng thu
NSNN trong tháng 8/2013 đạt 50.100 tỷ đồng, giảm 22.900 tỷ đồng so với tháng 7. Dự
kiến, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2013 ước đạt 788,5 nghìn tỷ đồng, hụt thu
27,5 nghìn tỷ đồng, đạt 96,6% dự toán năm. Trong khi đó tổng chi NSNN tháng 8 ước
đạt 75.000 tỷ đồng. Trong khi lỹ kế 8 tháng đầu năm thu NSNN chỉ đạt 484.820 tỷ
đồng thì chi NSNN đã lên tới 604.670 tỷ đồng, chi NSNN vượt thu tới xấp xỉ 25%,
tương đương 119.850 tỷ đồng. Tình trạng hụt thu và lạm chi NSNN diễn ra kéo dài
khiến Chính phủ thường xuyên lâm vào cảnh vay nợ. chỉ trong 8 tháng đầu năm,
NSNN đã dành ra 68.980 tỷ đồng, tăng 3.1% so với cùng kỳ năm 2012 để chi trả nợ
và viện trợ. Tính riêng tháng 8 /2013, con số này là 7.300 tỷ đồng ; Những nguồn thu
lớn nguy cơ hụt thu càng cao.
Tác động của bội chi ngân sách nhà nước:
Bội chi NSNN ở mức cao đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vì, khi ngân sách bị bội
chi có thể được bù đắp bằng phát hành tiền hoặc vay nợ, đều gây nên nguy cơ lạm phát

tăng.
Thứ nhất, việc phát hành tiền trực tiếp làm tăng cung tiền tệ trên thị trường sẽ gây lạm
phát cao, đặc biệt khi việc tài trợ thâm hụt lớn và diễn ra liên tục thì nền kinh tế phải
trải qua lạm phát cao và kéo dài như giai đoạn 1986 - 1990. Sự gia tăng cung tiền có
thể không làm tăng lạm phát nếu nền kinh tế đang đà tăng trưởng, mức cầu tiền giao
dịch tăng lên phù hợp với mức tăng của cung tiền. Tuy nhiên, trong trường hợp khu
vực tư nhân đã thỏa mãn với lượng tiền họ đang nắm giữ (mức cầu tiền tương đối ổn
định) thì sự gia tăng của cung tiền làm cho lãi suất thị trường giảm, nhu cầu tiêu dùng
về hàng hóa dịch vụ, nhu cầu đầu tư sẽ tăng lên kéo theo sự tăng của tổng cầu nền kinh
tế, mặt bằng giá cả sẽ tăng lên gây áp lực lạm phát. Người ta gọi trường hợp khi chính
phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách tăng cung tiền là hiện tượng chính phủ đang
thu "thuế lạm phát" từ những người đang nắm giữ tiền.
Thứ hai, bù đắp thâm hụt bằng nguồn vay nợ trong nước hoặc nước ngoài, việc vay nợ
trong nước bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường vốn, nếu việc phát hành diễn
ra liên tục thì sẽ làm tăng lượng cầu quỹ cho vay, do dó, làm lãi suất thị trường tăng.
9

9


Để giảm lãi suất, Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách mua các trái phiếu
đó, điều này làm tăng lượng tiền tệ gây lạm phát. Hay vay nợ nước ngoài để bù đắp
bội chi ngân sách bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra nội tệ để chi tiêu bằng cách
bán cho Ngân hàng Trung ương, điều này làm tăng lượng tiền nội tệ trên thị trường tạo
áp lực lên lạm phát.
Thực tế những năm qua, thâm hụt ngân sách Việt Nam được tài trợ phần lớn bằng cách
vay nợ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Lượng trái phiếu này có thể được
mua bởi Ngân hàng Nhà nước (hình thức cấp tín dụng trực tiếp cho Chính phủ) sẽ làm
tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc lượng trái phiếu được mua bởi các ngân hàng thương mại,
sau đó các ngân hàng thương mại đem cầm cố chúng tại Ngân hàng Nhà nước thông

qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc nghiệp vụ tái cấp vốn (cấp tín dụng gián tiếp cho
Chính phủ). Điều này cũng làm tăng lượng tiền cơ sở và tăng cung tiền gây lạm phát.
Theo thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), khối lượng trái phiếu
Chính phủ và Trái phiếu Chính phủ bảo lãnh đang lưu hành có giá trị lên tới 336.000
tỷ đồng, tương đương hơn 13% GDP danh nghĩa và gần 12% cung tiền M2 năm 2011.
Ngoài ra, bên cạnh việc vay nợ trong nước, Việt Nam còn vay nợ nước ngoài để tài trợ
thâm hụt, số tiền vay nợ nước ngoài chiếm 1/3 thâm hụt NSNN, tương đương 1,5 –
1,7% GDP. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt
Nam trong những năm 2007 - 2008 và 2010 - 2011.

10

10


PHẦN IV. GIẢI PHÁP THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thâm hụt ngân sách tăng lên làm giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân,
gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Đồng thời, ngân sách thâm hụt cao và
kéo dài làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ, làm
tăng mức lạm phát kỳ vọng của ngưởi dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính
phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.
Do đó, giảm thâm hụt ngân sách là vấn đề rất cấp thiết; Trong khuôn khổ bài tiểu luận
này em xin đưa ra một số giải pháp như sau:
1. Cắt giảm các khoản chi tiêu công chưa thật cần thiết và kém hiệu quả;

Có thể nói, cắt giảm chi tiêu Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô
cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát.
Vậy cắt giảm chi tiêu công bằng cách nào? Đầu tiên, Triệt để tiết kiệm các khoản đầu
tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo
ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc

không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt
để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan
nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự
cần thiết.
Cần đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư
kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Tuy nhiên, cần phải có cách đánh giá toàn diện
hiệu quả chi tiêu công theo các lĩnh vực khác nhau, không nên cắt giảm đồng loạt các
chi tiêu theo một tỷ lệ cố định nào đó, thực hiện rà soát, đánh giá chuyển vốn từ các
công trình chưa khởi công, khởi công chậm, thủ tục chưa hoàn thành sang các công
trình cấp bách, hiệu quả kinh tế cao hoặc hướng tới các lĩnh vực mà khu vực tư nhân
có thể tham gia cùng. Ngoài ra, các khoản chi tiêu thường xuyên cũng cần được tra
soát lại tất cả các khâu hoạt động để tổ chức lại bộ máy cho hợp lý hơn, cắt giảm các
khoản chi chưa thật cần thiết.
Cần kiểm soát các khoản đầu tư công của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bằng
cách thành lập một Hội đồng thẩm định đầu tư của DNNN độc lập, nhiệm vụ của Hội
đồng sẽ đánh giá, thẩm định toàn diện khách quan các dự án đầu tư của DNNN. Các
11

11


kết luận của Hội đồng sau đó sẽ được công bố rộng rãi. Đồng thời, Hội đồng cũng
đánh giá hiệu quả của DNNN theo các tiêu chí về lợi nhuận, công nghệ, tạo công ăn
việc làm, đóng góp vào ngân sách... dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch các
thông tin về hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục cổ phần hóa,
tái cấu trúc các DNNN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, và tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp tư nhân trên thị truờng.
2. Cải thiện nguồn thu ngân sách một cách bền vững hiệu quả.

Hiện nay, theo cam kết WTO Việt Nam phải cắt giảm thuế nhập khẩu với các nước

trong khu vực và trên thế giới nên nguồn thu ngân sách tập trung chủ yếu vào thuế
trong nước. Tuy nhiên, nếu tăng thuế để gia tăng nguồn thu sẽ không khuyến khích
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (nếu tăng thuế thu nhập doanh nghiệp) và không
khuyến khích tiêu dùng của cá nhân hộ gia đình (nếu tăng thuế thu nhập cá nhân), làm
giảm tổng cầu và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, gánh nặng thuế cao sẽ khiến hệ thống
thuế hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng trốn thuế, phân bổ nguồn lực bị bóp
méo.
Vì vậy, để gia tăng nguồn thu cần việc thực hiện khâu cải cách hệ thống thuế, đặc biệt
thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số
này ở các nền kinh tế phát triển đều lớn hơn 20%). Thực hiện đánh thuế vào một số
nguồn thu nhập từ đầu tư như thuế thu nhập bất động sản, thuế thu nhập vàng, thuế thu
nhập chứng khoán... Đây là những nguồn thu nhập lớn, sẽ góp phần tăng nguồn thu
cho NSNN. Ngoài ra, muốn nguồn thu ngân sách tăng lên cần thực hiện triệt để nguồn
thu, chống tình trạng trốn lậu thuế, tăng cường công tác kiểm tra nhằm chống và ngăn
chặn hiện tượng khai báo thuế sai sự thật của các doanh nghiệp, cá nhân

12

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Số liệu trên website của Bộ Tài chính: mof.gov.vn.
2. Số liệu trên website của Tổng cục thống kê: gso.gov.vn.
3. />4. các bài giảng của cao học Fulbright; các bài viết của T.S Phạm Thế Anh và một số
bài viết trên internet.

13


13



×