Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

thực trạng phát triển dịch vụ thuế hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.28 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

Chương 1 : Những vấn đề chung về DNVVN và dịch vụ thuế đối với DNVVN
1.1. Những vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn
(tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán
của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu
tiên), cụ thể như sau:
Quy mô

Doanh

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

nghiệp siêu
nhỏ
Khu vực

Số lao động

Tổng

Số

nguồn


động

vốn

1

lao Tổng nguồn
vốn

Số lao động


I. Nông, lâm 10 người trở

20

nghiệp

đồng

và xuống

thủy sản
II.

trở người

xuống

Công


nghiệp

tỷ từ trên 10 từ trên 20 tỷ



xây dựng

10

20

người

đồng

trở

xuống

đến đồng

200 người

đến

100 tỷ đồng

tỷ từ trên 10 từ trên 20 tỷ

trở người

đến đồng

200 người

đến

100 tỷ đồng

từ trên 200
người

đến

300 người
từ trên 200
người

đến

300 người

xuống
III. Thương 10 người trở

10

tỷ


từ trên 10 từ trên 10 tỷ

từ trên 50

mại và dịch xuống

đồng trở

người đến đồng đến 50

người đến

vụ

xuống

50 người

100 người

tỷ đồng

1.1.2. Vai trò của DNVVN

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm tỷ trọng lớn ( ở Việt Nam chiếm
96%).Tốc độ gia tăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn.
Vì thế vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc giải quyết việc làm là rất
lớn.Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng từ 50- 80% lao động trong các
nghành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa
thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu hút thêm nhiều lao động

hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn do các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thể phản ứng nhanh nhạy với thị trường. Ở Việt Nam cũng theo
đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế TW, thì số lao động của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm
tới 72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao
động của cả nước.
 DNVVN làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế quy mô vừa và nhỏ, có địa điểm sản xuất
phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ. Do đó nó là những doanh nghiệp năng
2


động, linh hoạt , sáng tạo trong kinh doanh, có khả năng nhanh chóng thích nghi với
các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị
trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn (do quy mô doanh
nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và
nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng được.
 DNVVN góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và Xuất khẩu

Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên
của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công
ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và
chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ
cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá
nhỏ.
 Các DNVVN là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp.

Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các
công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có

quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó
các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên.
Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các
nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty
lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh

Quan hệ với khách hàng

Kiểm soát và quản lý nhân viên

Quy định xuất nhập khẩu

Quản lý thời gian

Công nghệ thông tin hiện đại

Điều hành văn phòng

Các quy định về thuế

Hậu cần

Hệ thống cung cấp và phân phối

Bán hàng và tiếp thị

Luật lệ công ty
3



Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ

Bán hàng

Định giá và lợi nhuận

Quan hệ với quan chức chính phủ

Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng
cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này.
Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty
lớn thu nhận.
 Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là các
khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến
giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho
rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với
cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền
kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không
đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền
kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng
đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách
ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương.
 Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc.

Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích hợp cho sản xuất thủ công.
Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo.

Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó
cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hãy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại
thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách
hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy
4


này →cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến
hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên
Internet. Sau một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố
khác trong cả nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa
thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các
nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo
giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó
họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa
phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để
họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản
xuất hàng loạt kia.

1.1.3. Đặc trưng của DNVVN
 Tính chất hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến và dịch vụ, tức
là gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, là bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn với
tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh
tế như các dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hoá, dịch vụ sinh hoạt và
giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.

Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng với tư cách
là nhà sản xuất toàn bộ.
Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi
thế về tính linh hoạt. Có thể nói tính linh hoạt là đặc tính trội của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhờ cấu trúc và quy mô nhỏ nên khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển

5


hướng kinh doanh thậm chí cả địa điểm kinh doanh được coi là mặt mạnh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 Về nguồn lực vật chất

Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất
đai và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này là do tôn chỉ và nguồn gốc hình thành
doanh nghiệp. Mặt khác còn do sự hạn hẹp trong các quan hệ với thị trường tài chính
– tiền tệ, quá trình tự tích luỹ thường đóng vai trò quyết định của từng doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Nhận thức về vấn đề này các quốc gia đang tích cựu hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ để họ có thể tham gia tốt hơn trong các tổ chức hỗ trợ để khắc phục sự hạn hẹp
này.
 Về năng lực quản lý điều hành

Xuất phát từ nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mô... các quản trị gia doanh nghiệp
vừa và nhỏ thường nắm bắt, bao quát và quán xuyến hầu hết các mặt của hoạt động
kinh doanh. Thông thường họ được coi là nhà quản trị doanh nghiệp hơn là nhà quản
lý chuyên sâu.. Chính vì vậy mà nhiều kỹ năng, nghiệp vụ quản lý trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn rất thấp so với yêu cầu.
 Về tính phụ thuộc hay bị động


Do các đặc trưng kể trên nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thụ động nhiều hơn ở
thị trường. Cơ hội “đánh thức”, “dẫn dắt” thị trường của họ rất nhỏ. Nguy cơ “bị bỏ
rơi”, phó mặc được minh chứng bằng con số doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản ở
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Chẳng hạn ở Mỹ, bình quân mỗi ngày
có tới 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản (đương nhiên lại có số doanh nghiệp
tương ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới xuất hiện), nói cách khác các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có “tuổi thọ” trung bình thấp.

6


1.2. Những vấn đề chung về dịch vụ thuế đối với DNVVN
1.2.1. Khái niệm
Dịch vụ thuế là khái niệm rất quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các
nước đang phát triển. Tuy nhiên ở nước ta, chưa có văn bản nào quy định rõ ràng về
khái niệm này. Vì vậy còn nhiều tranh luận về khái niệm dịch vụ thuế khác nhau.
Dưới đây đề cập đến quan điểm nổi bật
Dịch vụ thuế là dịch vụ hỗ trợ trong lĩnh vực thuế và tài chính kế toán nhằm giúp cho
các đối tượng nộp thuế trong quá trình chấp hành nộp thuế cho Nhà nước.
Dịch vụ thuế là hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn do một tổ chức
hoặc cá nhân cung cấp cho tổ chức, cá nhân khác về các thủ tục thuế (đăng ký thuế,
kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn, giảm, gia hạn thuế...) và các dịch
vụ có liên quan nhằm hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước (NSNN) (hỗ trợ kê khai, nộp thuế; tư vấn hoặc lập kế hoạch kinh doanh phù hợp
với pháp luật thuế, tư vấn giải quyết các tranh chấp về thuế…). Có nhiều loại dịch vụ
thuế khác nhau, tùy thuộc vào các tiêu thức xác định, phân loại, song, phần lớn dịch
vụ thuế được phân thành hai dạng: dịch vụ thuế công và dịch thuế tư. Dịch vụ thuế
công là dịch vụ do cơ quan thuế cung cấp. Dịch vụ thuế tư là dịch vụ do các tổ chức,
cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế cung cấp.
Tuy nhiên những quan điểm tồn tại trên mạng hiện nay chưa có thống nhất và chính

thống. Vì vậy để đưa ra một khái niệm chính xác và đầy đủ về khái niệm dịch vụ hỗ
trợ thuế cần xuất phát từ những thuật ngữ cụ thể:
Theo từ điển tiếng Việt
“Dịch vụ” là công việc phụ vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất đinh của số đông, có
tổ chức và được trả công.
“hỗ trợ” là giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ them vào.

7


“Thuế” là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải
thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước
ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính
con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
(Nguồn; />Dịch vụ hỗ trợ thuế là sản phẩm do nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân cung cấp cho
người nộp thuế trong quá trình chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế.
Theo khái niệm này, dịch vụ thuế là những hoạt động liên quan đến toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình chấp hành pháp luật thuế, thực hiện
nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Đó là những sản phẩm do Nhà nước, doanh nghiệp
hoặc cá nhân cung cấp cho người nộp thuế về các thủ tục thuế như đăng ký thuế, kê
khai thuế, tính thuế, nộp thuế và các dịch vụ khác có liên quan đến việc thực hiện
nghĩa vụ thuế của người nộp thuế như tư vấn hoặc lập kế hoạch kinh doanh phù hợp
với pháp luật thuế, tư vấn giải quyết các tranh chấp về thuế…
1.2.2. Phân loại dịch vụ thuế:
1.2.2.1. Căn cứ vào đối tượng, chủ thể cung cấp dịch vụ:
Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ công và dịch vụ tư.
* Dịch vụ thuế công là dịch vụ do cơ quan quản lý thuế cung cấp, gắn liền với việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp
luật về thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của mình.

Với khái niệm nêu trên, dịch vụ thuế công có thể được hiểu là dịch vụ tư vấn và cung
cấp các ứng dụng tiện ích cho NNT thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Đó có thể là hoạt
động tuyên truyền, quảng bá thông tin về chính sách, thủ tục về thuế cho người nộp

8


thuế và cộng đồng xã hội; hoặc cũng có thể là một loại dịch vụ hành chính công thực
hiện giải quyết các hồ sơ thuế, cấp giấy chứng nhận, chứng thực,...
* Dịch vụ thuế tư là dịch vụ do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ thuế cung cấp. Dịch vụ thuế tư có liên quan trực tiếp đến lợi ích của
doanh nghiệp mua dịch vụ, của bản thân doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế và của
nhà nước. Không phải bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế cũng có thể cung
cấp được dịch vụ thuế tư, mà cần phải có những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định và
được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, dịch vụ thuế tư phải
được coi là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cần một khuôn khổ pháp lý phù
hợp để quản lý hoạt động kinh doanh này.
1.2.2.2. Căn cứ vào phương thức cung cấp dịch vụ:
Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ thuế thủ công và dịch vụ thuế điện tử.
Dịch vụ thuế thủ công là dịch vụ được cung cấp thông qua các phương thức thủ
công, chưa có sự hỗ trợ của máy móc, phương tiện hiện đại.
Dịch vụ thuế điện tử được cung cấp dựa trên hệ thống máy móc, thiết bị tiên tiến đặc
biệt là ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Mục tiêu của hiện đại hóa công tác
quản lý thuế đó là đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển các dịch vụ thuế điệ n tử (dịch vụ
kê khai thuế qua mạng Internet, dịch vụ kê khai thuế qua các nhà trung gian T-VAN,
dịch vụ nộp thuế điện tử, nộp thuế qua máy ATM, qua tin nhắn SMS...).
Cùng với thời gian, dịch vụ thuế điện tử sẽ ngày càng phát triển, ngày càng
chiếm ưu thế và thay thế dần các dịch vụ thuế thủ công. Tất nhiên, trong một số
trường hợp, dịch vụ thuế thủ công và dịch vụ thuế điện tử có thể đan xen nhau chứ
không nhất thiết phải tách rời nhau. Chẳng hạn như để cung cấp một dịch vụ thuế điện

tử thì ở khâu chuẩn bị có thể có một số công việc phải tiến hành thủ công; hoặc khi
tiến hành tư vấn trực tiếp (dịch vụ thuế thủ công) thì người ta có thể sử dụng những
kỹ thuật điện tử để phối hợp…
9


1.2.2.3. Căn cứ vào nội dung của dịch vụ được cung cấp:
Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ làm thủ tục thuế (đăng ký thuế thuê, khai
thuế thuê…) và dịch vụ tư vấn thuế (dịch vụ giảng dạy, giới thiệu pháp luật thuế, dịch
vụ hướng dẫn làm thủ tục thuế, dịch vụ kế toán thuế và xây dựng kế hoạch thuế).
Từ cách phân loại này cho thấy, tùy theo đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh, quy
mô kinh doanh, điều kiện hoàn cảnh và khả năng của từng người… mà các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu về các loại dịch vụ khác nhau. Chẳng hạn như, những cơ sở kinh
doanh nhỏ thì thường có nhu cầu về dịch vụ làm thủ tục thuế, còn những doanh
nghiệp lớn thì có nhu cầu cao về dịch vụ xây dựng kế hoạch thuế. Dịch vụ tư vấn thuế
nói chung là cần thiết đối với mọi lọai hình người nộp thuế.
1.2.2.4. Căn cứ vào trách nhiệm tài chính của đối tượng thụ hưởng dịch vụ:
Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ thuế có thu phí và dịch vụ thuế không thu
phí. Cách phân loại này cho thấy, loại dịch vụ không thu phí chỉ có thể cung cấp bởi
cơ quan nhà nước do có nguồn tài trợ từ ngân sách nhà nước. Khu vực tư nhân không
cung cấp dịch vụ không thu phí do đây là hoạt động kinh doanh, khi cung cấp dịch vụ
phải thu phí.

10


Chương 2. Thực trạng phát triển các dịch vụ thuế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam
2.1. Nhu cầu về dịch vụ thuế của các DNVVN Việt Nam


Những khó khăn mà DNVVN đang gặp phải
Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang ngày càng khẳng định vai trò
đối với nền kinh tế. Theo thống kê, DNNVV chiếm tới 95% trong tổng số doanh
nghiệp tại Việt Nam, đóng góp trên 40% GDP, thu hút hơn 50% tổng số lao động,
chiếm 17,26% tổng nộp ngân sách nhà nước. Bên cạnh những đặc điểm thuộc thế
mạnh như: vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh và hiệu quả; bộ máy tổ chức,
quản lý sản xuất gọn nhẹ; có khả năng thâm nhập vào những thị trường ngách và lĩnh
vực sản xuất kinh doanh có lợi nhuận không cao; khả năng ứng biến linh
hoạt….DNNVV nước ta cũng có những hạn chế như: tồn tại và phát triển tự phát, nhỏ
lẻ, thiếu sự liên kết về kinh tế và kỹ thuật; trình độ quản lý và năng lực tài chính hạn
chế, thị trường nhỏ hẹp và khả năng cạnh tranh… Do nguồn nhân lực còn yếu kém,
chưa có kinh nghiệm ở các DNVVN, họ rất dễ gặp khó khăn trong các thủ tục hành
chính của nhà nước, cũng như cập nhật những thay đổi của chính sách mới.
Theo khảo sát của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy có khoảng
trên dưới 400.000 DN đang duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đa số DN ghi nhận
quá trình cải cách thủ tục hành chính của ngành Thuế trong thời gian qua, tuy vậy vẫn
có ý kiến cho rằng hồ sơ, thủ tục vẫn còn rườm rà. DN rất cần được sự hỗ trợ, tiếp sức
của Nhà nước thông quan chính sách thuế chi tiết rõ rang cũng như cần tới sự giúp đỡ
từ các công ty kế toán bên ngoài để DN vượt qua gian đoạn ngày càng hội nhập và
cạnh tranh cao như hiện nay, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó các chính sách thuế áp dụng với các DNVVN (Theo Nghị định
92/2013/NĐ-CP ban hành ngày 13/8/2013) thì chưa hiệu quả và triệt để vì trong thực
tế nhiều DN mặc dù có số lao động lớn hơn 30 (Theo luật là không phải doanh nghiệp
nhỏ) nhưng doanh thu hàng năm lại rất thấp (Thấp hơn nhiều so với mức 20 tỷ đồng,
mốc quy định DN nhỏ) mà vẫn không được hưởng chính sách ưu đãi thuế đối với DN
nhỏ.
11


 Nhu cầu cấp thiết để phát triển dịch vụ thuế


Cùng với sự phát triển và hội nhập không ngừng của nền kinh tế VN, số lượng các
doanh nghiệp (DN) ngày càng gia tăng. Theo Cục Thống kê TP Hà Nội, trong năm
`2015, Thành phố có khoảng 18.340 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, kéo theo
nhu cầu đối với dịch vụ làm thủ tục về thuế ngày càng lớn. Tuy nhiên, chủ thể cung
cấp dịch vụ thuế còn hạn chế về số lượng.
Trước năm 2007, việc cung cấp các dịch vụ thuế được thực hiện bởi một số đơn vị
trong số các công ty kiểm toán, công ty tư vấn về tài chính, kế toán và các công ty tư
vấn luật, trong đó nội dung chủ yếu của dịch vụ thuế được cung cấp là tư vấn thuế, lập
báo cáo thuế... Doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ thuế chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng số doanh thu của các DN này và khách hàng làm sử dụng dịch vụ thuế
cũng chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số khách hàng của những công ty này.
Từ tháng 7/2007 đến nay, cùng với việc thực hiện thống nhất và đồng bộ cơ chế tự
khai, tự nộp, Luật Quản lý thuế ra đời đã xác lập hành lang pháp lý cho hoạt động
cung cấp dịch vụ thuế. Như vậy, việc cung cấp dịch vụ thuế, bên cạnh các công ty
kiểm toán, kế toán, tư vấn luật, sẽ được thực hiện chủ yếu bởi các đại lý thuế. Người
nộp thuế có thể ký kết hợp đồng với các đại lý thuế để được cung cấp các dịch vụ về
đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn, giảm, gia hạn thuế…
Đại lý thuế đã được luật hóa tại Điều 20 trong Luật Quản lý thuế. Sau 7 năm thực hiện
Luật Quản lý thuế, đến nay cả nước mới có khoảng 1.900 người được cấp chứng chỉ
hành nghề dịch vụ phụ trách thủ tục về thuế, 160 xây dựng buôn bán dịch vụ phụ
trách thủ tục về thuế hoạt động dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong khi
đó, không kể hàng triệu người nạp thuế thu nhập cá nhân, hàng trăm ngàn xây dựng
có doanh thu phải đóng thuế, cả nước hiện có trên dưới 400.000 doanh nghiệp đang
hoạt động. Số liệu này cho thấy, số lượng đại lý thuế, người hành nghề dịch vụ phụ
trách thủ tục về thuế còn quá ít so với nhu cầu.

12



Mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch Phát triển hệ thống đại lý thuế mới được Bộ Tài chính
phê duyệt, đến năm 2015 cả nước có ít nhất 2.000 người được cấp chứng chỉ hành
nghề đại lý thuế; tối thiểu 3% số người đóng thuế là pháp nhân dùng dịch vụ đại lý
thuế; tối thiểu 80% số doanh nghiệp hài lòng với chất lượng dịch vụ do đại lý thuế
cung cấp. Giai đoạn 2016-2020, cả nước có ít nhất 6.000 người được cấp chứng chỉ
hành nghề đại lý thuế; tối thiểu 10% số người nạp thuế là pháp nhân dùng dịch vụ đại
lý thuế; tối thiểu 90% số doanh nghiệp hài lòng với chất lượng dịch vụ do đại lý thuế
cung cấp.
Như vậy, có thể nói, thị trường cung cấp dịch vụ thuế của khu vực tư ở Việt Nam chưa
thực sự phát triển. Số lượng các DN có cung cấp dịch vụ thuế tính đến thời điểm hiện
nay còn quá ít so với yêu cầu thực tế, chỉ bằng 0,021% số DN đang thực hiện kê khai,
thuộc diện quản lý của cơ quan thuế. Trong đó, phần lớn các DN có quy mô nhỏ và
vừa cả về vốn kinh doanh cũng như số lượng các nhân viên có chứng chỉ hành nghề
làm dịch vụ thủ tục về thuế đã làm ảnh hưởng đến năng lực thực hiện các hợp đồng tư
vấn có giá trị lớn, những đơn vị kinh doanh cần tư vấn có quy mô lớn.
2.2. Thực trạng phát triển các dịch vụ thuế chủ yếu hỗ trợ DNVVN
2.2.1. Các loại thuế doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải chịu

Đối với một doanh nghiệp vừa và nhỏ, hàng năm các khoản thuế phải nộp bao gồm:
 Thuế Môn Bài: là mức thuế phải nộp dựa trên số vốn điều lệ đăng ký trong giấy

chứng nhận kinh doanh (đối với doanh nghiệp) hoặc dựa vào thu nhập trung bình
của cá nhân, hộ gia đình.

Đối với doanh nghiệp:
Bậc thuế
môn bài

Thu


nhập

tháng
13

1

Mức thuế cả năm


Bậc 1

Trên 10 tỷ

3.000.000

Bậc 2

Từ 5 tỷ đến 10 tỷ

2.000.000

Bậc 3

Từ 2 tỷ đến 5 tỷ

1.500.000

Bậc 4


Dưới 2 tỷ

1.000.000

Đối với hộ gia đình:
Bậc

Thu nhập 1 tháng

thuế

Mức thuế cả năm

1

Trên 1.500.000

1.000.000

2

Trên 1.000.000 đến 1.500.000

750.000

3

Trên 750.000 đến 1.000.000

500.000


4

Trên 500.000 đến 750.000

300.000

5

Trên 300.000 đến 500.000

6

Bằng hoặc thấp hơn

100.000

300.000

50.000

 Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong

quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp:
Thuế TNDN là loại thuế trực thu, được tính dựa trên phần thu nhập trực tiếp của
doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản chi phí.
Thuế TNDN được hiểu như là khoản những ưu đãi, lợi thế mà nhà nước hỗ trợ cho
doanh nghiệp như: cơ sở vật chất, hạ tầng, các chính sách bảo vệ phát lý, các chính
sách hỗ trợ phát triển về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật…

Hiện này thuế suất thuế TNDN được tính như sau:


20% tổng lợi nhuận của DN nếu tổng doanh thu năm liền trước của DN < 20 tỷ



22% tổng lợi nhuận của DN đối với các TH còn lại
14


 Thuế Thu Nhập Cá Nhân

Thuế TNCN là khoản tiền mà người lao động phải nộp một phần lương hoặc từ các
nguồn thu nhập khác vào ngân sách nhà nước.
 Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt (nếu có)

Thuế TTĐB là khoản thuế gián thu có thuế suất cao chỉ áp dụng với một số sản
phẩm, dịch vụ mà nhà nước có chính sách định hướng nhằm điều tiết thu nhập của
những cá nhân tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ đặc biệt.
Các hàng hóa chịu thuế TTĐB gồm:


Thuốc lá, xì gà



Bia, rượu




Ô tô dưới 24 chỗ ngồi



Xăng các loại, nap – ta, chế phẩm tái hợp và các sản phẩm pha chế xăng



Điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống



Bài lá



Vàng mã, hàng mã
Các dịch vụ chịu thuế TTĐB gồm:



Kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke



Kinh doanh sân gôn,




Các dịch vụ giải trí có đặt cược



Casino, trò chơi bằng máy jackjot



Sổ xổ kiến thiết
 Thuế xuất – nhập khẩu (nếu có): là loại thuế gián thu, đnáh vào các mặt hàng được

xuất – nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.
Cách tính thuế GTGT hàng nhập khẩu [tham khảo]
 Thuế Tài Nguyên (nếu có): là loại thuế thu vào các hoạt động khai thác tài nguyên

thiên nhiên.

2.2.2. Các dịch vụ thuế chủ yếu hỗ trợ cho DNVVN

Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ công và dịch vụ tư.
15


2.2.2.1. Dịch vụ thuế công
a. Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của bộ phận làm công tác hỗ trợ
DNVVN nộp thuế:
Cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác hỗ trợ NNT có những ảnh hưởng nhất định đến
công tác cung cấp dịch vụ hỗ trợ DNVVN nộp thuế. Do vậy, khi nghiên cứu thực
trạng công tác cung cấp dịch vụ hỗ trợ DNVVN nộp thuế thì không thể không đề cập
đến cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác hỗ trợ người nộp thuế.

Từ năm 2007 đến nay, mô hình tổ chức bộ máy ngành Thuế được tổ chức chủ yếu
theo mô hình chức năng, là việc tổ chức bộ máy trong đó cơ cấu bao gồm các bộ phận
(Phòng, Vụ, Tổ), mỗi bộ phận thực hiện một chức năng quản lý thuế cơ bản đối với
hầu hết các loại thuế và đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo thẩm quyền được
phân công.

16


Nguồn: Tổng cục Thuế
Ở cấp Tổng cục có sự đổi tên một số đơn vị từ Ban thành Vụ, trong giai đoạn này đã có sự
sáp nhập bộ phận Tuyên truyền và bộ phận Hỗ trợ đối tượng nộp thuế thành Vụ Tuyên truyền
- Hỗ trợ NNT. Bắt đầu từ 1/7/2007, cùng với việc Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành, cơ
chế NNT tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế được áp dụng rộng rãi trong phạm vi toàn quốc. Do
đó, nhu cầu cần hỗ trợ NNT có xu hướng tăng lên. Đối với DNVVN, việc hỗ trợ nộp thuế có
thể biểu diễn theo sơ đồ sau:

17


Nguồn: Tổng cục thuế
b. Về quy trình hỗ trợ người nộp thuế:
Cùng với sự thay đổi trong mô hình tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế,
quy trình hỗ trợ người nộp thuế cũng đã được ban hành. Hiện nay, quy trình này được thực
hiện theo hai mô hình cơ bản là mô hình hỗ trợ theo cơ chế một cửa và mô hình hỗ trợ thông
thường.
* Với quy trình hỗ trợ theo cơ chế một cửa, thì mọi yêu cầu cần hỗ trợ của NNT khi NNT
trực tiếp đến cơ quan thuế, hoặc liên hệ bằng điện thoại sẽ được bộ phận Hỗ trợ NNT tiếp
nhận và trả kết quả cho NNT ở tại cùng một địa điểm. Trong trường hợp yêu cầu của NNT
được gửi bằng đường bưu điện đến cơ quan thuế thì bộ phận Hành chính văn thư sẽ tiếp

nhận yêu cầu, khi có kết quả trả lời, bộ phận Hành chính văn thư có trách nhiệm thực hiện
thủ tục đóng dấu, đăng ký văn bản đi và gửi kết quả trả lời cho NNT.

18


Sơ đồ: Quy trình hỗ trợ theo cơ chế một cửa
Với việc áp dụng cơ chế một cửa trong việc hỗ trợ NNT đã giúp doanh nghiệp được thuận
lợi hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, tiết kiệm được nhiều chi phí về thời gian và tiền
của.
*Cùng với quy trình hỗ trợ NNT theo cơ chế một cửa, công tác hỗ trợ NNT còn kết hợp thực
hiện hỗ trợ theo quy trình hỗ trợ thông thường. Quy trình này được thiết lập theo các nội
dung cụ thể, riêng biệt cho từng loại hình hỗ trợ, được quy định rõ tại quy trình hỗ trợ NNT
đã được ban hành theo quyết định số 1788/TCT/QĐ/TTHT của Tổng cục trưởng Tổng cục
Thuế ngày 1/12/2004.

19


Sơ đồ: Quy trình hỗ trợ thông thường
Như vậy, việc ban hành các quy trình cụ thể này đã tạo được cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện công tác hỗ trợ có quy cách hơn, bài bản và thống nhất hơn tại cơ quan thuế
các cấp. Nhưng các quy trình nêu trên còn khá rườm rà, chưa thể hiện việc hiện đại hóa
trong các thao tác nghiệp vụ.
c. Về hình thức hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế:
Hiện nay, việc hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế được thực hiện thông qua rất nhiều hình thức:
hỗ trợ qua điện thoại, bằng văn bản; tổ chức đối thoại, tập huấn... Bên cạnh các hình thức đó,
cơ quan thuế cũng đã mở rộng thêm nhiều hình thức hỗ trợ khác tạo thuận lợi hơn cho doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ như: Triển khai các dự án tin học, cung cấp miễn
phí phần mềm hỗ trợ kê khai (iHTKK); triển khai ứng dụng nộp hồ sơ khai thuế qua mạng và

qua các nhà truyền nhận dữ liệu điện tử trung gian (T-VAN)…
 Giải đáp qua điện thoại:

Cơ quan thuế các cấp đã bố trí các số điện thoại tại mỗi bộ phận tuyên truyền và hỗ trợ
người nộp thuế để tiếp nhận và giải đáp vướng mắc. Các số điện thoại này được công bố
công khai trên Website ngành Thuế, trang điện tử của các Chi cục Thuế, trên các ấn phẩm
tuyên truyền hoặc quảng cáo trên các tờ báo địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn
một số trường hợp giải quyết chưa thoả đáng theo đề nghị của người nộp thuế, chất lượng trả
20


lời chưa cao, chưa có trách nhiệm, trả lời qua loa, hoặc tìm cách đùn đẩy, thậm chí trả lời,
hướng dẫn thiếu chính xác.
 Giải đáp bằng văn bản:

Việc giải đáp vướng mắc bằng văn bản là hình thức hỗ trợ được coi là căn cứ pháp lý để giải
quyết các trường hợp vướng mắc về thuế mang tính phức tạp. Với các vấn đề vướng mắc
vượt quá thẩm quyền giải quyết, các cơ quan thuế cấp dưới phải báo cáo lên Tổng cục Thuế
để được hướng dẫn thực hiện hoặc Tổng cục Thuế phải tổng hợp để trình Bộ Tài chính sửa
đổi chính
sách cho phù hợp.
Tuy nhiên, cũng có một số lượng nhất định văn bản không được trả lời kịp thời , có văn bản
được trả lời chậm so với quy định vài tháng. Ngoài ra cũng có cá biệt một vài văn bản trả lời
cho các doanh nghiệp còn chưa thống nhất mặc dù nội dung hỏi là như nhau.
Trong những năm gần đây, việc tổ chức các hội nghị đối thoại, lắng nghe ý kiến người nộp
thuế được tổ chức thường xuyên, liên tục trong khắp các cơ quan thuế cả nước. Việc làm
này nhằm tiếp nhận và tháo gỡ kịp thời các vướng mắc khó khăn cho người nộp thuế nói
chung và DNVVN nói riêng, tạo thuận tiện trong sản xuất kinh doanh. Thông qua hội
nghị, doanh nghiệpđược đại diện cơ quan thuế hoặc cấp có thẩm quyền trả lời trực tiếp các
vấn đề liên quan đến chính sách pháp luật, quy trình, thủ tục về thuế. Đối với những

vấn đề phức tạp, vấn đề có liên quan đến thẩm quyền phối hợp của nhiều cơ quan, sẽ được
cơ quan thuế tiếp thu, nghiên cứu và trả lời sớm nhất.
Bên cạnh đó, định kỳ hàng quý, cơ quan thuế các cấp đã tập hợp danh sách các doanh nghiệp
mới thành lập để tổ chức tập huấn các quy định chung về việc kê khai, nộp thuế, việc ghi
chép, lưu trữ sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn, chứng từ… Khi có các thay đổi lớn trong
chính sách thuế, cơ quan thuế cũng sẽ gửi thông báo để doanh nghiệp đến tham dự các lớp
tập huấn, hướng dẫn thực hiện theo các quy định mới.
c. Về hình thức nộp thuế điện tử qua mạng:
 Kê khai thuế qua mạng:

21


Hiện nay, việc kê khai thuế qua mạng là bắt buộc đối với các doanh nghiệp, điều đó cũng
được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật:
- Tại Điều 19 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định:
“Nhà nước đảm bảo đầu tư, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phát triển công nghệ và
phương tiện kỹ thuật tiên tiến để áp dụng phương pháp quản lý thuế hiện đại; khuyến khích
tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, thực hiện giao dịch điện tử và quản lý thuế điện tử; đẩy
mạnh phát triển các dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng khác để từng bước hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt của người nộp
thuế. Chính phủ ban hành chính sách về hiện đại hóa quản lý thuế”.
- Tại Khoản 1, Điều 48, Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Quản lý thuế ghi:
“Người nộp thuế là tổ chức kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin
phải khai thuế, nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện
điện tử…”.
Kê khai thuế qua mạng thực chất là việc gửi các Tờ khai thuế đã được kết xuất ra file *.pdf
từ phần mềm HTKK lên website của Tổng cục Thuế.


22


Theo mô hình cũ, doanh nghiệp sẽ phải đến cơ quan thuế để nộp tờ khai theo định kì. Hình
thức này đã gây ra nhiều bất cập khi mà số lượng doanh nghiệp ngày càng nhiều, các doanh
nghiệp có thói quen đến hạn mới đi nộp tờ khai, từ đó dẫn đến tình trạng có khi doanh
nghiệp phải xếp hàng cả buổi mà vẫn không nộp được, gây lãng phí không chỉ thời gian mà
còn làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Với mô hình mới nộp tờ khai qua mạng sẽ giúp doanh nghiệp:
Thứ nhất, giảm được thời gian, chi phí và nhân lực cho doanh nghiệp khi thực hiện
nghĩa vụ kê khai thuế vì không phải in tờ khai và bảng kê bằng giấy, không
phải đến cơ quan Thuế để nộp tờ khai;
Thứ hai, phần mềm hỗ trợ kê khai thuế sẽ hỗ trợ việc tính toán, kiểm tra lỗi không cố ý
khi kê khai;
Thứ ba, bất kỳ nơi nào có kết nối internet, doanh nghiệp đều có thể gửi hồ sơ khai thuế
24/24 giờ trong ngày và 7/7 ngày trong tuần, thông tin và số liệu kê khai của doanh nghiệp
được gửi đến cơ quan Thuế nhanh chóng, chính xác;
Thứ tư, doanh nghiệp được tra cứu, xem, in và tải các loại tờ khai thuế, Thông báo xác
nhận đã nộp hồ sơ khai thuế nhanh chóng;
Thứ năm, việc lưu trữ hồ sơ khai thuế được an toàn, bảo mật; thuận tiện hơn và có tính
pháp lý cao hơn.
Đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ
Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp thay thế cho Quyết định số
15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thông tư số
244/2009/TT-BTC ngày 31/12/2009 của Bộ Tài chính, áp dụng lập mẫu biểu Báo cáo tài
chính doanh nghiệp cho năm tài chính 2015, Tổng cục Thuế đã hoàn thành nâng cấp ứng
dụng hỗ trợ kê khai thuế (HTKK) phiên bản 3.3.6,ứng dụng Kê khai thuế qua mạng
(iHTKK) phiên bản 3.1.7 và ứng dụng Hỗ trợ đọc, xác minh tờ khai, thông báo thuế định
dạng XML (iTaxViewer) phiên bản 1.1.4, cụ thể như sau:

Nâng cấp các chức năng lập báo cáo tài chính theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC trên
ứng dụng HTKK 3.3.6, iHTKK 3.1.7, bao gồm các mẫu biểu:
23




Bảng cân đối kế toán (áp dụng đối với doanh nghiệp đáp ứng giả định hoạt động liên

tục).
 Bảng cân đối kế toán (áp dụng đối với doanh nghiệp không đáp ứng giả định hoạt động
liên tục).
 Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp.
Bắt đầu từ ngày 10/03/2016, khi lập báo cáo tài chính có liên quan đến nội dung
nâng cấp nêu trên, tổ chức cá nhân nộp thuế sẽ sử dụng các mẫu biểu kê khai tại ứng
dụng HTKK 3.3.6, iHTKK 3.1.7, iTaxViewer 1.1.4 thay cho các phiên bản trước đây.
 Nộp thuế điện tử

Về quy trình đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử qua mạng:
Bước 1: Đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử trên cổng thông tin điện tử
theo các bước trong tài liệu hướng dẫn sử dụng.
Bước 2: Tải bản đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản với ngân hàng.
Bước 3: Đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản cho dịch vụ nộp thuế điện tử.
Bước 4: Nộp thuế điện tử.
Nguồn:
Theo thống kê của Tổng cục thuế, tính đến ngày 30/9/2015 có khoảng 90% doanh nghiệp
đăng ký nộp thuế điện tử thông qua cổng thông tin điện tử của Tổng cục thuế, trên 98% số
doanh nghiệp kê khai thuế điện tử và liên kết với các ngân hàng, vừa giúp doanh nghiệp dễ

tiếp cận với phương pháp mới vừa hỗ trợ doanh nghiệp nộp ngân sách Nhà nước một
cách hiệu quả và không phát sinh nhiều chi phí “không có trên giấy tờ”.
Với việc triển khai có hiệu quả việc nộp thuế qua mạng, số giờ nộp thuế của doanh nghiệp đã
giảm được 420 giờ, số giờ thực hiện thủ tục hành chính về thuế chỉ còn 117 giờ (đã đạt và
vượt mục tiêu mà Nghị quyết 19 năm 2015 về cải cách thủ tục hành chính đặt ra).

24


Theo Kết quả khảo sát đánh giá “Mức độ hài lòng của doanh nghiệp” về cải cách thủ tục
hành chính thuế vào ngày 07/03/2016 do Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI)
và Cơ quan Tài chính quốc tế (IFC) phối hợp thực hiện cho thấy, 71% doanh nghiệp đánh giá
sự hài lòng với cải cách thủ tục hành chính; trong đó, 92% doanh nghiệp cho rằng những quy
định về chính sách, pháp luật thuế có sự chuyển biến tích cực.
Tổng cục Thuế hiện phối hợp với 43 ngân hàng triển khai thu thuế điện tử và số doanh
nghiệp đăng ký nộp qua ngân hàng cũng đạt gần 91%. Tuy nhiên, số chứng từ nộp thuế và số
tiền nộp ngân sách Nhà nước bằng phương thức điện tử còn thấp. Cơ quan thuế thừa nhận,
nhiều nguyên nhân như tâm lý e dè, thói quen thanh toán tiền mặt, sợ phát sinh thêm nhiều
khoản phí tốn kém khiến việc thu thuế điện tử chưa đạt được con số kỳ vọng.
 Ngân hàng chưa đồng hành

Cục Thuế TP.HCM đã chính thức triển khai nộp TĐT từ quý IV/2014, tuy nhiên, cho đến
nay, tốc độ triển khai còn chậm so với quy mô. Tính đến ngày 26/5, tại Cục Thuế TP.HCM
mới có 9.545 DN đăng ký nộp TĐT, đạt gần 7% so với chỉ tiêu được giao (134.297 DN).
Theo ông Trần Ngọc Tâm, Phó Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM, có nhiều nguyên nhân dẫn
đến việc triển khai nộp TĐT tại đơn vị chưa như kì vọng. Trước hết, vào thời điểm mới triển
khai (cuối năm 2014 đầu năm 2015), Cục Thuế TP.HCM phải dồn sức vào việc chuyển đổi
hệ thống dữ liệu tập trung, đồng thời chuẩn bị cho công tác chuyển trụ sở nên đã phần nào
ảnh hưởng đến kết quả triển khai nộp TĐT.
Bên cạnh đó, mặc dù ngày càng có nhiều ngân hàng (NH) tham gia kết nối nộp TĐT nhưng

sự tham gia của các NH chưa thực sự quyết liệt. Một số chi nhánh NH còn chưa hưởng ứng
tích cực dù việc nộp TĐT đang mang lại quyền lợi trực tiếp cho ngành này. Không chỉ NH
trong nước, các NH có vốn đầu tư nước ngoài do còn e ngại về tính bảo mật nên cũng chưa
sẵn sàng tham gia. Trên thực tế, dù Bộ Tài chính đã có những biện pháp can thiệp nhưng tại
TP.HCM vẫn chưa có chi nhánh NH nước ngoài nào kết nối với hệ thống nộp TĐT. Mặc dù
việc nộp TĐT mang lại quyền lợi cho cả DN, NH và cơ quan thuế nhưng hiện nay việc tuyên
truyền DN nộp TĐT mới chỉ do cơ quan thuế thực hiện và việc thông tin trên các cơ quan
truyền thông cũng còn hạn chế. Do vậy, nhiều DN vẫn còn tâm lý e ngại, trông chờ và chưa
25


×