Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận giáo dục kinh tế và sự hình thành văn hoá kinh tế cho người lao động việt nam thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.96 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm và quyết định. Làm thế nào để phát triển bền
vững? Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định một quy luật về vai trò của sự
phát triển lực lượng sản xuất mà trực tiếp là người lao động. Đó là trình độ,
năng lực sáng tạo, sử dụng tư liệu sản xuất, phong cách người lao động. Nói
cách khác văn hoá kinh tế người lao động chính là yếu tố quan trọng tác động
trực tiếp quyết định tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Điều này càng trở nên quan trọng hơn trong điều kiện hiện nay khi mà
xu thế chung của thế giới là toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Cùng
với đó là sự phát triển mạnh mẽ của khọc học-công nghệ cũng tác động không
nhỏ tới sự phát triển của các quốc gia. Vì vậy vai trò của con người và khả
năng làm chủ khoa học công nghệ đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, đặc
biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Yêu cầu với các quốc gia lúc này
là giúp cho người lao động thích nghi với điều kiện mới, nâng cao hơn nữa
văn hoá kinh tế người lao động trong thời kì hội nhập
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia
phát triển cho thấy rằng muốn phát triển nhanh chóng và bền vững cần khai
thác có hiệu quả tiềm năng con người, kích thích người lao đông tham gia vào
quá trình sáng tạo và sản xuất. Đối với họ kinh tế không đơn thuần là kinh tế
mà là sự tổng hợp các lĩnh vực khác. Trong đó họ đề cao việc hình thành văn
hoá kinh tế cho người lao động, xây dựng môi trường văn hoá trong kinh
doanh, từ đó hình thành nên đội ngũ lao động tiến bộ, mang bản sắc dân tộc.
Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển.Trong những
năm gần đây Việt Nam cùng với bạn bè thế giới đang cùng tham gia tích cực
vào xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới. Đây là thời cơ nhưng đồng

1



thời cũng mang tới nhiều thách thức cho chúng ta. Yêu cầu của sự phát triển
kinh tế-xã hội đặt ra đòi hỏi chúng ta cần nâng cao hơn nữa vai trò của công
tác tư tưởng mà trọng tâm là giáo dục kinh tế cho người lao động. Từ đó hình
thành văn hoá kinh tế cho đội ngũ lao động: có trình độ cao, phẩm chất tốt,…
Trên cơ sở trên em xin chọn đề tài nghiên cứu là: Giáo dục kinh tế và sự
hình thành văn hoá kinh tế cho người lao động Việt Nam thời kỳ hội nhập
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu về
vấn đề con người. Tuy nhiên mỗi tác giả lại nghiên ở các góc độ khác nhau.
Về lí luận có cuốn: “nguyên lý công tác tư tưởng” (tập 1) của tác giả Lương
Khắc Hiếu làm chủ biên đã nghiên cứu những vấn đề lí luận trong xây dựng
văn hoá kinh tế cho người lao động cũng như quá trình giáo dục kinh tế.
Trong rất nhiều các tác phẩm nghiên cứu về kinh tế Việt Nam của các
tác giả Đường Vinh Sường: “ Toàn cầu hoá kinh tế - cơ hội và thách thức đối
với các nước đang phát triển”…đã có những phân tích về xu thế hội nhập và
những ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam ; Nguyễn Thanh: “ Phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá-hiện đại hoá”, . PGS. TS. Trần Thọ
Đạt “ Các mô hình tăng trưởng kinh tế”, Phạm Minh Hạc: “ Vấn đề con người
trong công cuộc đổi mới” và các văn kiện đại hội Đảng… đã có những nghiên
cứu cụ thể về thực trạng người lao động cũng như những định hướng xây
dựng người lao động Việt Nam thời kì hội nhập.
Đề tài là sự tổng hợp đầy đủ và cụ thể hơn về người lao động Việt
Nam trong thời kì hội nhập. Thông qua đó làm sàn tỏ tình hình xây dựng văn
hoá kinh tế người lao động cũng như quá trình giáo dục kinh tế ở Việt Nam
hiện nay
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1.Mục đích
Đề tài nhằm làm rõ văn hoá kinh tế và vai trò của giáo dục kinh tế. Từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của người lao
2



động, củng cố niềm tin của họ vào Đảng, chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy quá trình
sáng tạo và sản xuất.
3.2. Nhiệm vụ
Xuất phát từ mục đích trên đề tài tập trung vào giải quyết 3 nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, làm rõ văn hoá kinh tế người lao động và mối quan hệ giữa
giáo dục kinh tế và sự hình thành văn hoá kinh tế cho người lao động
Thứ hai, đề tài nêu lên thực trạng văn hoá kinh tế cũng như công tác
giáo dục kinh tế cho người lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, từ đó cũng nêu ra những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường
hơn nữa quá trình giáo dục kinh tế, nâng cao hơn nưa văn hoá kinh tế cho
người lao động
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài dựa vào nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối chính sách của Đảng ta
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau: chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn kết hợp các phương pháp như:
tư duy logic, phân tích, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục kinh tế và sự hình thành
văn hoá kinh tế cho người lao động
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi nước ta thời kỳ hội nhập
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài làm rõ tính cấp thiết của quá trình giáo dục kinh tế để hình thành
văn hoá kinh tế cho người lao động ở Việt Nam hiện nay. Qua đó nâng cao

3


nhận thức của người lao động trong đó có học sinh, sinh viên- lực lượng lao
động tương lai của đất nước về vấn đề xây dựng văn hoá kinh tế, thúc đẩy quá
trình hoàn thiện nhân cách, trau dồi tri thức của mỗi cá nhân. Đồng thời đề tài
cũng đóng góp thêm một số giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng quá trình
trên.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết của quá trình giáo dục kinh tế và sự hình thành
văn hoá kinh tế cho người lao động
Chương 2: Thực trạng văn hoá kinh tế của người lao động và công tác
giáo dục kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao công tác giáo dục kinh tế và
hình thành văn hoá kinh tế cho người lao động

4


CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC KINH TẾ VÀ SỰ HÌNH THÀNH
VĂN HOÁ KINH TẾ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1 . VĂN HOÁ KINH TẾ NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1.1 Khái niệm văn hoá kinh tế
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người
và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng
các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng
cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Văn hoá là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong quá trình lịch sử. Nó thể hiện năng lực bản chất của con người và khả

năng cải tạo thực tiễn nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người.
Qua nhiều thế kỷ, hoạt động sáng tạo của nhân loại đã hình thành một
hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần,các truyền thống và thị hiếu. Đó là
những yếu tố văn hóa xác định đặc thù mỗi dân tộc. Trong lĩnh vực kinh tế,
các yếu tố văn hoá ghi dấu ấn đậm nét lên các công cụ lao động, các hoạt
động sản xuất kinh dianh và quản lý kinh tế. Đồng thời nó xác định những
mặt mạnh yếu riêng của mỗi quốc gia, mỗi ngành, mỗi đơn vị kinh tế cơ sở và
mỗi người lao động. Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực gắn bó hữu cơ với
nhau, trong đó kinh tế quyết định trạng thái văn hoá, văn hoá tạo tiền đề và
động lực cho sự phát triển kinh tế.
Nếu hiểu văn hoá là năng lực, bản chất của con người thì sự thâm nhập
của văn hoá vào kinh tế sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thiện nhân cách
con người. Đó là tính sáng tạo, lòng nhiệt tình hăng say lao động, lao động co
kỹ thuật, có năng suất cao và chất lượng tốt; đồng thời có ý thức vươn tới
những mục tiêu cao đẹp, trên cơ sở làm chủ tri thức và làm chủ bản thân. Vì
thế, có thể khẳng định rằng văn hoá kinh tế là một phạm trù phản ánh tính

5


nhân văn trong các hoạt động kinh tế của người lao động, nhất là trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn hoá kinh tế gắn với văn hoá kinh tế cá nhân mỗi người lao
động.Văn hoá kinh tế cá nhân là một cấu trúc phức tạp gồm nhiều yếu tố. Yếu
tố cơ bản đầu tiên cấu thành văn hoá kinh tế là tri thức, sự hiểu biết của con
người về lĩnh vực kinh tế. Song chỉ riêng tri thức về kinh tế chưa đủ hình
thành văn hoá kinh tế, nếu tri thức đó không biến thành niềm tin và tính tích
cực trong hoạt động thực tiễn kinh tế. Trước khi tiến hành hoạt đông trong
lĩnh vực kinh tế con người đánh giá những tri thức kinh tế thu nhận được và
khả năng vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn kinh tế, đánh giá mục tiêu

mà họ cần đạt tới. Nhờ vậy,ở mỗi người hình thành ý chí tinh thần sẵn sàng
tham gia hoat động sáng tạo kinh tế,hình thành niềm tin như một yếu tố cấu
thành văn hoá kinh tế.
Một yếu tố quan trọng khác của văn hoá kinh tế là sự tham gia của
người lao động vào hoạt động kinh tế. Văn hoá kinh tế thể hiện đầy đủ nhất,
cao nhất trong các hình thức mà quần chúng tham gia vào hoạt động kinh tế
của xã hội. Người có văn hoá kinh tế, ngoài khả năng am hiểu sâu sắc tri thức
trong lĩnh vực kinh tế còn phải là người tham gia tích cực và có hiệu quả vào
hoạt động kinh tế do nhu cầu xã hội
Như vậy, văn hoá kinh tế là sự thống nhất biện chứng của các yếu tố tri
thức, niềm tin và hoạt động thực tiễn kinh tế, sáng tạo của con người, cũng
như những thành tựu mà con người đạt được trong hoạt động ấy.
1.1.2. Cấu trúc văn hoá kinh tế
Từ khái niệm trên có thể hiểu rằng cấu trúc văn hoá kinh tế gồm ba bộ
phận:
Thứ nhất là tri thức kinh tế. Tri thức kinh tế chính là sự hiểu biết của
con người về kinh tế. Ở đây chính là sự hiểu biết về các tư liệu sản xuất, trực
tiếp là các công cụ sản xuất và nguyên lý vận hành của chúng. Đó cũng là khả
năng phán đoán tình hình, xu thế phát triển, từ đó vận dụng vào quá trình sản
6


xuất. Tri thức kinh tế thể hiện trình độ của người lao đọng. Xã hội xàng phát
triển thì trình độ người lao động càng được nâng cao. Tri thức kinh tế là yếu
tố đầu tiên và là nền tảng trong sự hình thành văn hoá kinh tế, quyết định tới
các yếu tố niềm tin và hành động kinh tế
Thứ hai là niềm tin kinh tế. Đây là năng lực đánh giá các hoạt động
kinh tế, từ đó mà bộc lộ tình cảm. Đó chính là động lực thúc đẩy người lao
động tự giác, sáng tạo trong sản xuất, tránh những biểu hiện sai trái
Thứ ba là hoạt động thực tiễn của người lao động. Đây là kết quả cuối

cùng và là sự biểu hiện cao nhất của văn hoá kinh tế người lao động. Trên cơ
sở trình độ kinh tế của mình cùng với thái độ, niêm tin mà người lao động tích
cực tham gia trực tiếp và vận dụng vào thực tiễn quá trình lao động sản xuất.
Các yếu tố trên kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh thể,
trong đó tri thức được coi là nền tảng của văn hoá kinh tế, là cơ sở để hình
thành văn hoá kinh tế cá nhân ; niềm tin thể hiện năng lực làm chủ đối với
hiện thực ấy và sẵn sàng hành động cải tại hiện thực vì mục đích kinh tế đặt
ra ; còn hoạt động thực tiễn kinh tế là biểu hiện cao nhất, là tiêu chuẩn cao
nhất đánh giá văn hoá kinh tế của mỗi người.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới văn hoá kinh tế người lao động
Thứ nhất là lực lượng sản xuất mà trực tiếp là sự phát triển kinh tế.
Văn hoá và kinh tế là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong đó kinh
tế giữ vai trò quyết định. Sự phát triển không ngừng của từ kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của công cụ sản xuất từ
đồ đá sang máy móc đã tạo ra sự phát triển của người lao động từ lao động
chân tay sang lao động trí óc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất không những tạo ra sự phát triển
về mặt vật chất cho nền kinh tế mà còn làm nảy sinh nhu cầu văn hoá trong
kinh tế mà tập trung ở mỗi người tham gia lao động sản xuất. Trong phạm vi
hẹp chúng ta thấy rằng trình độ phát triển kinh tế quyết định văn hoá kinh tế
của người lao động. Lịch sử đã chứng minh rằng cùng với sự thay đổi các
7


hình thái kinh tế xã hội là sự thay đổi vị thế của người lao đông. Từ người nô
lệ đến người nông nô trong chế độ phong kiến và công nhân trông xã hội tư
bản tới người lao động trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, văn hoá kinh tế mang tính dân tộc.Trong sự phát triển chung
của nhân loại thì mỗi dân tộc có sự phát triển riêng phù hợp với đặc điểm
riêng của mỗi quốc gia….Chúng ta vẫn nói rằng người Mỹ hiện đại và thực

dụng? Người Đức tiết kiệm và nghiêm khắc?...Trong sự phát triển chung của
mỗi dân tộc lại có sự phát triển riêng phù hợp với những đặc điểm riêng của
mỗi quốc gia đó. Mỗi người lao động cũng chịu sự chi phối của các điều kiện
đó
Thứ ba là yếu tố chế độ chính trị xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã
hội giai cấp thống trị luôn phát triển kinh tế theo hướng phục vụ giai cấp của
mình. Do dó người lao động chịu sự chi phối của những chuẩn mực xã hội do
giai cấp thống trị đề ra. Đây là cơ sở của sự khác nhau giữa văn hoá kinh tế
người lao động trng xã hội có giai cấp và không có giai cấp, xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa.Giai cấp đại diện cho chế độ chính trị nào càng tiến bộ thì
trong xã hội đó người lao động càng được giải phóng, hình thành văn hoá
kinh tế tiến bộ.Trong xã hội chủ nghĩa người lao động có trình đọ làm chủ cao
nhất.
Những yếu tố tác động trên đan xen trong mỗi con người và cùng với
quá trình giáo dục kinh tế hình thành nên văn hoá kinh tế người lao động
1.2.GIÁO DỤC KINH TẾ
1.2.1. Khái niệm giáo dục kinh tế
Giáo dục là quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục và người
được giáo dục một cách cụ thể, có kế hoạch nhằm truyền thụ và lĩnh hội
những kinh nghiệm xã hội lịch sử để hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo dục kinh tế là một công việc rất quan trọng nhằm hình thành văn
hoá kinh tế cho người lao động. Giáo dục kinh tế thông qua con đường trực
tiếp hoặc gián tiếp để trang bị cho người lao động tri thức, kiến thức kinh tế
8


nhằm hình thành thái độ,niềm tin tích cực,đúng đắn trong hoạt động kinh tế
cũng như phương pháp, khả năng áp dụng những tri thức đó phục vụ nhu cầu
của cá nhân cũng như xã hội.
Như vậy giáo dục kinh tế là quá trình tác động của chủ thể vào đối

tượng người lao động thông qua các hoạt động về tư tưởng. Nói cách khác
giáo dục kinh tế là một nhiệm vụ của công tác tư tưởng trong việc định hướng
tư tưởng và hành động của con người. Quá trình giáo dục kinh tế là một quá
trình lâu dài và thẩm thấu từ tác động vào hành động dẫn tới hình thành niềm
tin và cuối cùng là hành động kinh tế đúng đắn.
1.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục kinh tế
Nội dung của giáo dục kinh tế
Trang bị những tri thức kinh tế cần thiết cho người lao động
Giáo dục sâu sắc quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng
và Nhà nước
Giáo dục tri thức về cơ chế kinh tế và vận dụng cơ chế kinh tế mới
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
Giáo dục các chuẩn mực đạo đức kinh doanh và hệ thống luật kinh tế
cho các nhà quản lý và người lao động
Giáo dục về phương pháp hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Giáo dục tính tích cực và sáng tạo trong hoạt động kinh tế của mọi
tầng lớp nhân dân
Giáo dục ý thức và tính tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống
các tội phạm kinh tế và chống âm mưu diễn biến hoà bình trên lĩnh vực kinh
tế
Con đường và phương thức giáo dục kinh tế
 Giáo dục trực tiếp thông qua hệ thống trường lớp
 Giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

9


 Đào tạo,bồi dưỡng về kinh tế thông qua các hoạt động tư vấn, quản
trị

 Giáo dục thông qua các điển hình tiên tiến về kinh tế và tổ chức cho
nhân dân lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế
1.3 SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIÁO DỤC KINH TẾ HÌNH THÀNH
VĂN HOÁ KINH TẾ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Tri thức kinh tế,trình độ văn hoá kinh tế là tiền đề để người lao động
tham gia vào các hoạt động kinh tế và là điều kiện để học ý thức được vai trò,
vị trí của mình trong hệ thống các quan hệ xã hội. Vì vậy, phải chăng bị trri
thức, hình thành các yếu tố văn hoá kinh tế cho người lao động.Thông qua các
hoạt động giáo dục và đào tạo
Dưới chế độ nô lệ, người nô lệ do thiếu hiểu biết về văn hoá nói chung
và văn hoá kinh tế nói riêng nên đứng ngoài quá trình quản lý nền sản xuất xã
hội. Họ bị coi là “những công cụ biết nói” và cam chịu sự bóc lột nặng nề của
giai cấp thống trị, cam chịu địa vị nô lệ của mình. Có thể nói, dưới chế độ
người bóc lột người về kinh tế,các giai cấp thống trị chỉ đặt vấn đề nâng cao
trình độ văn hoá kinh tế cho người lao động ở chừng mực mà chúng co thể
bóc lột được nhiều hơn,ở chừng mực mà vẫn duy trì được sự bóc lột lao động.
Không bao giờ giai cấp thống trị dặt vấn đề nâng cao trình độ văn hoá kinh tế
cho người lao động đến mức họ co thể ý thức được vị trí,vai trò của mình
trong các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội. Đó chính là giới hạn và là
một mâu thuẫn trong việc giáo dục kinh tế dưới các chế độ xã hội trước đây.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa,ngưòi lao động được nhìn nhận là tài
sản quý nhất,kĩ thuật nhất,nghệ thuật nhất và là loại tài nguyên có khả năng
tái tạo. Sự nhìn nhận và đánh giá đó phản ánh đầy đủ ý nghĩa của văn hoá
kinh tế trong các hoạt động của người lao động trong xã hội mới.
Kinh tế là nền tảng của sự phát triển xã hội,do đó phát triển kinh tế là
nhiệm vụ cơ bản,trọng tâm của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay,Đảng ta xác định phát triển phát triển
10



kinh tế là trọng tâm,xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vì vậy phải giáo
dục kinh tế trở thành nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và sự nghiệp đổi mới đất nước ta
hiện nay nói riêng.
Thông qua giáo dục kinh tế,trình độ kiến thức và chuyên môn nghiệp
vụ về kinh tế của quần chúng nhân dân được nâng cao. Hàng triệu con người
sẽ được khuyến khích lôi cuốn vào các hoạt động quản lý kinh tếvà sản xuất
kinh doanh. Đời sống của người lao động sẽ được cải thiện,niềm tin của nhân
dân vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội sẽ được củng cố. Nói cách khác
giáo dục kinh tế góp phần quan trọng vào việc hình thành tri thức, niềm tin và
biến tri thức, niềm tin thành hành động cụ thể của mỗi nguời, nhằm thực hiện
thắng lợi công cuộc phát triển đất nước.
V.I.Lênin đã từng dạy rằng: Người sản xuất phải “ là người thông thạo
chuyên môn, phải biết một cách đầy đủ và chính xác tất cả những điều kiện
của sản xuất, phải hiểu được kỹ thuật của nền sản xuất đó ở trình độ hiện đại
của nó, phải có một trình độ khoa học nhất định”. Tri thức kinh tế, sự hiểu
biết về lĩnh vực kinh tế là tiền đề để người lao động tham gia vào các hoạt
động kinh tế. Tri thức kinh tế, năng lực hoạt động kinh tế, do đó trở thành một
yêu cầu đào tạo người lao động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

11


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VĂN HOÁ KINH TẾ NGƯỜI
LAO ĐỘNG VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC VĂN HOÁ KINH
TẾ HIỆN NAY
2.1. ĐẶC ĐIỂM THỜI ĐẠI ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM
Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng
sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những

căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp
lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt;
các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn
tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các
quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn
nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ
cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước;
tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có
nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài
nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất
lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như: an
ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân

12


sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và
giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam
Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố
gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện
các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy
mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng

trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã
tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước.
Trong giai đoạn tiếp theo kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng
trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại
tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong
các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và
Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” có những diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, tình hình và xu hướng nêu trên tạo ra cả những thời cơ và
thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước nói chung và nền kinh tế
nói riêng.

13


2.2. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Từ sau cuộc cải cách kinh tế bắt đầu từ năm 1986 nền kinh tế nước ta
đã từng bước thoát ra khỏi khó khăn và có những bước phát triển đáng kể
Kinh tế có bước phát triển nhanh chóng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2006-2011 đạt 7%. Tổng

vốn đầu tư toàn xã hội đạt 42,9% GDP. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
nước ta đạt cao. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính
theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình
quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp,
nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế
nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng
suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công
nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói,
giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong
phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng
cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước
và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công
nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục
được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng
bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường
và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành
phần có bước phát triển mạnh.

14


Văn hoá –giáo dục- khoa học công nghệ có những bước chuyển biến
mạnh mẽ.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực

xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống
các tầng lớp nhân dân được cải thiện
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước
cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các
nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm.
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh,
thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua
đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới,
thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị
trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công
nghệ được nâng lên.
Giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với
người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực.
Chính trị - xã hội ổn định và phát triển
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ
nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính
sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân,
Hội nhập quốc tế có những bước phát triển quan trọng

15


Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp
phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng

giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng.
Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc
tế; đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành
công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước
Đông Nam Á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng
cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân
tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả
tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn
về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp
định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan
trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan
trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác.
2.3. VÀI NÉT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
2.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới đặc điểm người
lao động Việt Nam
Thứ nhất, từ xưa tới nay Việt Nam là một nước lấy sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu. Mặc dù hiện nay đất nước đã có bước chuyển dịch về cơ
cấu kinh tế song sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vaii trò chủ đạo. Điều này có
tác động không nhỏ tới việc hình thành nhận thức cũng như phong cách sản
xuất của người lao động.

16


Thứ hai, Việt Nam là một trong số những quốc gia lựa chon con đường

phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó người lao động nứơc ta
chịu sự chi phối của nền giáo dục theo hướng xã hội chủ nghĩa đó.
Thứ ba, Việt Nam có một nền văn hoá truyền thống lâu đời với những
đặc trưng: chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa, hiếu học,cần cù,..những đặc điểm
đó đã thấm sâu vào cá nhân mỗi con người, hình thành nên bản sắc văn hoá
của dân tộc.
Ngoài ra người lao động Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của những tập
tục, tàn dư tư tưởng lạc hậu còn rơi rớt lại từ chế độ phong kiến, thực dân
2.3.2. Đặc điểm người lao động
Nguồn lao động Việt Nam rất dồi dào. Việt Nam chúng ta đang có
nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước gần 86 triệu người (Tính đến
ngày ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam: 85.789.573 người), nước đông dân
thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực. Trong đó số người trong độ tuổi
lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67% dân số cả nước.
Như chúng ta đã biết, trong gần 86 triệu người ở Việt Nam thì nông dân
chiếm gần khoảng 73% dân số cả nước. Điều này cho thấy nông dân vẫn là
lực lượng lao động xã hội chiếm tỉ lệ cao nhất.
Về nguồn nhân lực công nhân thì hiện nay số lượng giai cấp công nhân
Việt Nam có khoảng 5 triệu người, chiếm 6% dân số cả nước
Bên cạnh đó thì nguồn lao động trí thức cũng đang ngày càng tăng lên
một cách nhanh chóng

17


Ngưòi lao đông Việt Nam vốn có tính cần cù, sáng tạo, đặc biệt có lòng
tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết…
Ngoài ra người lao động Việt Nam cũng rất giàu tinh thần học hỏi, giao
lưu hợp tác. Cùng với đó là sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, người lao động Việt Nam được giáo dục hình thành người lao

động mới- người lao động xã hội chủ nghĩa.
2.4. THỰC TRẠNG VĂN HOÁ KINH TẾ NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM
2.4.1. Những biểu hiện tích cực
Trình độ người lao động được nâng cao.
Trình độ người lao động được biểu hiện ở học vấn, trình độ khoa học kĩ
thuật
Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt
nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức
có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh.Theo thống kê cả nuớc đến 2008
có hơn 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học
Nguời lao động Việt Nam hiện nay có khả năng nhận biết,phân tích
các đặc điểm kinh tế xã trong và ngoài nước. Họ am hiểu khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội và nhân văn, biết sử dụng ngoại ngữ và phương tiện kỹ
thuật hiện đại. Ngoài những tri thức trên người lao động Việt Nam còn am

18


hiểu những tri thức về kinh tế, pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước…
Khả năng tiếp cận các thành tựu văn minh nhân loại
Những thành tựu văn minh nhân loại ở đây là những thành tựư về khoa
học-công nghệ , nhưng kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. đó là kế thừ các giá trị
văn hoá của mỗi quốc gia
Hiện nay năng lực của người lao động cũng đang được nâng lên một
cách rõ rệt, đã xuất hiện nhiều lực lượng lao động có trình độ cao phục vụ quá
trinh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước

Ngưòi lao động Việt Nam đã biết ứng dụng những thành tựu kinh tế

vào các ngành sản xuất mũi nhọn của đất nước như là công nghệ thông tin,
dầu khí, nông nghiệp….Năng lực quản lý cán bộ cũng dần được nâng cao.
Người lao động và nhà quản lý đã dần thích ứng được với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có trình độ chuyên môn cao, tác
phong sản xuất công nghiệp
Hoà nhập mà không hoà tan
Việt Nam tích cực tham giao vào quá trình hội nhập quốc tế. Người lao
động Việt Nam hội nhập thông qua hợp tác trao đổi về tất cả các mặt, đặc biệt
là sự lên kết đầu tư, xuất khẩu lao động,…Người lao động Việt Nam đã thể

19


hiện tinh thần hợp tác cởi mở, thân thiện. kế thừa có chọn lọc những thành tựu
khoa học,kĩ thuật sản xuất tiên tiến…
Tuy nhiên người lao động Việt Nam vẫn phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Đó là đức tính cần cù, thông minh, khéo léo, đoàn kết,
ngoài ra còn có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, sự trung thành với Đảng
cộng sản Việt Nam và chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đang áp dụng cơ chế thị
trường nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Người lao động
Việt Nam không phân chia giai cấp và trình độ, đoàn kết trong lao động và
sản xuất
Trình độ làm chủ của người lao động
Văn hoá kinh tế người lao động còn thể hiện ở trình độ làm chủ của
người lao động đối với nền kinh tế-xã hôi, mà chủ yếu là tư liêu sản xuất và
sử dụng thành thạo khoa học kĩ thuật.
Người lao động dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung và người lao
động Việt Nam nói riêng là những ngưòi chủ sở hữu cao nhất mọi tư liệu sản
xuất.Với sự nâng cao trình độ khoa học-kĩ thuật, họ ngày càng tham gia tích
cực hơn vào quá trình sản xuất. Đó còn là việc người lao động tham gia vào

quá trình quản lý và lãnh đạo, có quyền dân chủ cao trong sản xuất cũng như
hoạt động xã hội. Trình độ làm chủ của người lao động thể hiện ở khả năng
làm chủ tri thức, khoa học-kĩ thuật, và sự hưởng thụ chính đáng thành quả mà
mình làm ra
Tính năng động, sáng tạo
Người lao động Việt Nam hiện đại đã thể hiện tính năng động, sáng tao
của mình tring sản xuất. Đó là tính tích cực trong lao động sản xuất, không
rập khuôn, máy moc, linh động, sáng tạo trong tìm kiếm cơ hội việc làm và
phát triển bản thân. Đó là sự chủ động trong tìm kiếm cơ hội hợp tác với các
doanh nghiệp trong và ngoài nước, mở rộng đầu tư, mạnh dạn khai thác, tìm
tòi những ngành sản xuất mới đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Người lao động cũng hình thành được tác phong lao động công nghiệp:
nhanh nhẹn, linh hoạt, có tổ chức, khoa học.

20


Tinh thần lao động sản xuất, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu Đảng
Đó là nét đẹp của người lao đông Việt Nam từ xưa tới nay.Nó phát huy
trong cả những giai đoạn khủng hoảng của đất nước cũng như chủ nghĩa xã
hội trên thế giới
Người lao động Việt Nam luôn tích cực trong lao động sản xuất để nuôi
sống bản thân cũng như xây dựng xã hội. Dù trải qua nhiều khó khăn nhưng
người lao động vẫn giữ trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
tin tưởng vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và luôn có tinh thần cảnh giác,
đấu tranh chống lại âm mưu diên biến hoà bình của các thế lực thù địch
2.4.2 . Tiêu cực
Trình độ người lao động chưa đáp ứng yêu cầu
Mặc dù có nhiều biến chuyển song chất lượng của nguồn lao động
nước ta vẫn thấp hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Người lao động có chất xám cao còn rất ít, những lao động chưa qua
đào tạo còn rất phổ biến. Điều này thể hiện rõ nét tại vùng nông thôn và vùng
núi. Theo một khảo sát đã cho thấy rằng cứ 1000 dân chỉ có 10 người tốt
nghiệp đại học trong khi đó con số này ở Nhật bản là 71, Hàn quốc là 53,
Philippin là 37
Điều đáng chú ý là trình độ người lao động vẫn mang nặng tính lý
thuyết, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với ứng dụng thực tiễn. Đa số cán bộ, tri
thức làm việc tại các trường đại học, các viện nghiên cứu. Trong khi đó con
số này ở các nước tiên tiến như Thái Lan là 58%, Nhật Bản là 64%,… Bên
cạnh đó còn xuất hiện một số cán bộ còn chưa hăng say gắn bó với nghề,
thiếu sự tâm huyết, hăng say lao động phục vụ đất nước.
Sự mất cân đối trong việc phân bố người lao động ở các vùng, các ngành.
Cơ cấu nguồn nhân lực phân theo ngành và khu vực kinh tế
Tỷ lệ lực lượng lao động (%)
Phân theo ngành:
- Nông nghiệp

53,9

- Công nghiệp

20,0
21


- Dịch vụ
Phân theo khu vực kinh tế:

26,1


- Ngoài nhà nước

87,5

- Nhà nước

9,0

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007

3,5

Ngoài ra lực lương sản xuất còn tập trung chủ yếu ở các trung tâm kinh
tế, đô thi lớn của đất nước. Điều này đã dẫn tới tình trạng thiếu lao động có
trình độ cao tại các vùng nông thôn và miền núi.
Những hiện tượng trên đã làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
nước ta hiện nay, khiến cho trình độ của người lao động không đáp ứng được
yêu cầu xã hội
Năng lực thực tế còn hạn chế
Mặc dù trình độ của người lao động đang dần được nâng cao nhưng
khả năng áp dụng khoa học- công nghệ của người lao động Việt Nam con
nhiều hạn chế, khiến cho năng suất lao động thấp và chưa mang lại khả năng
cạnh tranh cao trên thị truờng thế giới. Chất lượng của nguồn nhân lực thể
hiện bởi năng suất lao động (NSLĐ), năng suất lao động thể hiện năng suất
của nền kinh tế và khả năng duy trì quá trình tăng trưởng. Năng suất lao động
thường được thể hiện bởi GDP/lao động. Tiêu chí nhân lực chất lượng cao

22



Cũng theo báo cáo khảo sát năm 2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả
nước có 205.690 doanh nghiệp, trong 63.000 doanh nghiệp khảo sát chỉ có
40% nguồn nhân lực quản lý có khả năng đảm nhận chức vụ thực sự. Tỷ lệ
giám đốc doanh nghiệp có trình độ thạc sĩ khoảng 3%, Đại học 38%, cao đẳng
4%, trung cấp 12,5%, cấp ba trở xuống 43,3%.
Ở Việt Nam hiện nay còn có tình trạng chay đua theo bằng cấp mà
năng lực thực chất còn nhiều hạn chế. Một khảo sát của Trung tâm Dự báo
nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh cho biết
khoảng 40% sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm đúng trình
độ ngành nghề, 40% làm việc trái ngành nghề, thu nhập thấp, việc làm chưa
thực sự ổn định và có thể chuyển việc khác. Còn 20% tìm việc rất khó khăn
hoặc không tìm được việc làm phải chuyển đổi ngành học hoặc làm những
công việc thấp hơn trình độ đào tạo. Thêm vào đó là một số đơn vị nhận
người vào làm phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Phải chăng lao động đã qua đào
tạo còn nhiều bất cập so với yêu cầu của thị trường lao động?
ảnh hưởng của lối sản xuất cũ
23


Nguời lao động Việt Nam còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng tàn
dư của chế độ cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , và tác phong nông
nghiệp. Đó là tác phong lao động chậm chạp, ỷ lại, giờ cao su, duy ý chí, bảo
thủ…Tác phong lao động thiếu tổ chức , kỷ luật con tồn tại tại nhiều cơ quan,
công ty. Ngoài ra ở cán bộ quản lý còn xuất hiện tình trạng quan liêu, cửa
quyền…Điều này đã tác động không nhỏ đến năng suất lao động, hiệu quả
trong sản xuất của nền kinh tế.
Ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường
Trong thời kỳ quá độ này sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường là
cần thiết nhằm đưa nước ta nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hôi. Nó mang

lại nhiều thời cơ nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn vô vàn những thách thức đối
với những người lao động. Một là hình thành chủ nghĩa cá nhân trong người
lao động, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh “cá lớn nuốt cá bé”. Hai là
sự suy thoái nghiêm trọng về mặt đạo đức của người lao động: tham ô, tham
nhũng,..Ba là sự thống trị của đồng tiền làm người lao đông lãng quên những
giá trị truyền thống của dân tộc, tệ sùng bái nước ngoài, chạy theo lối sống
thực dụng, đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển chung của đất nước.
2.5. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KINH TẾ CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.5.1. Những thành tựu đạt được của quá trình giáo dục kinh tế
Trong những năm qua giáo dục kinh tế đã đạt được những thành tựu to
lớn, góp phần hình thành văn hoá kinh tế cho người lao động Việt Nam
Thứ nhất nâng cao trình độ nhận thức của người lao động. Đảng ta luôn
coi vấn đề giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, có vai trò quan trọng trong
việc phát triển đất nước một cách nhanh chóng và bền vững. Công cuộc giáo
dục kinh tế hướng tới phổ biến sâu rộng những kiến thức khoa học, kinh tế,
vận dụng những tri thức kinh tế đó vào quá trình sản xuất. Bên cạnh các
trường đào tạo tri thức khoa học, chúng ta con có hệ thống các trường Đảng
24


để giảng dạy những tri thức kinh tế, tuyên truyền, phhỏ biến đương lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
Thứ hai, hệ thống giáo dục đào tạo trong cả nước đựoc quan tâm, phát
triển. Hiện nay Nhà nước đầu tư cho phát triển giáo dục khoảng gần 20% tổng
ngân sách Nhà nước. Hệ thống giáo dục đào tạo phát triển rộng rãi ở khắp
mọi nơi trên đất nước. Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên
nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ
thông, 226 trường dân tộc nội trú

Thứ ba, không ngừng hoàn thiện hệ thống phương tiện thông tin đại
chúng như: phát thanh, truyền hình, báo chí.. để phổ biến những tri thức khoa
học công nghệ, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tới
đông đảo quần chúng nhân dân. Hiện nay hệ thống các phương tiện thông tin
đại chúng này không những chỉ phổ biến ở các đô thị lớn mà con được đầu
tư , hỗ trợ phát triển ở cả vùng nông thôn, miền núi và hải đảo. Các tờ báo
như: “người lao động”, “tri thức trẻ”, hay những chưong trình như: “bạn nhà
nông”… đang ngày càng trở thành ngườo bạn thân thiết của người lao động,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đông đảo người lao động Việt Nam.
Thứ tư là công tác nghiên cứu, giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm
đang ngày càng phổ biến, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động Việt
Nam học hỏi kinh nghiệm, nắm bắt được nhũng thành tựu khoa học công
nghệ mới để áp dụng vào thực tiễn sản xuất.
Thứ năm, trong những năm qua Việt Nam đã tổ chức được nhiều
chương trình, phong trào thi đua yêu nước như là: “ lao động giỏi”, “lao động
sán tạo”, “trí tuệ Việt Nam”
Đây là một trong những phương thức giáo dục kinh tế có hiệu quả cao
nhất. Bằng việc nêu gương những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc
trong sản xuất kinh doanh, người lao động có điều kiện nâng cao sự hiểu biết
về kiến thức và kinh nghiệm hoạt động kinh tế. Những thành tựu mới về khoa
học kinh nghiệm,về phát triển kinh tế đã được phổ biến, trao đổi thông qua
25


×