Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số các tỉnh phía bắc, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.58 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm đầu thế kỷ XXI, khi cả nhân loại đang bước vào nền kinh
tế dựa trên tri thức, chúng ta càng xiết bao khâm phục trước tầm nhìn xa trông
rộng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, càng thấm thía lời dạy của Người: "Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu". Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc hiểm họa của sự dốt
nát, theo Người dốt nát cũng là kẻ địch. Nên Người chỉ rõ: "Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để nhằm
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, đòi
hỏi công tác giáo dục - đào tạo phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Tư
tưởng này được khẳng định và cụ thể hóa trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ II (khóa VIII) "Về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm
vụ đến năm 2000". Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: "Phát triển giáo dục
- đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững .
Nằm trong sự phát triển chung của đất nước, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi có một vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị,
an ninh quốc phòng, giao lưu quốc tế và môi trường sinh thái. Nhận thức rõ vị
thế đó, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc hoạch định và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc trong đó có chính sách về giáo dục - đào tạo. Nhờ sự
quan tâm ấy trong thời gian qua công tác giáo dục - đào tạo vùng dân tộc
thiểu số, miền núi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn
những khó khăn, bất cập, vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi, vùng dân tộc
thiểu số. Do đó việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục - đào tạo ở vùng dân
tộc thiểu số và miền núi là một vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay.


Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số các tỉnh phía Bắc, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” làm tiểu luận cho chuyên đề: " Phát triền
giáo dục – đào tạo ở các tỉnh phía Bắc nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích
Làm rõ yêu cầu cấp bách của việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đào tạo và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác

1


giáo dục - đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc).
3. Giới hạn.
Đối tượng nghiên cứu: Giáo viên, học sinh và các vấn đề liên quan đến
giáo dục đào tạo.
Không gian nghiên cứu: Các tỉnh miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh, trong
đó có 6 tỉnh vùng cao là: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Cạn, Lai Châu,
Sơn La và 8 tỉnh miền núi là: Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng
Ninh, Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang.
Thời gian nghiên cứu: Từ 6/9/2015 đến 10/9/2015
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu chủ yếu dựa vào phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp các phương pháp lôgic và lịch sử, thống kê,
phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn...
5. ý nghĩa của đề tài
- Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề giáo dục - đào tạo nói chung
và giáo dục - đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, về đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
- Là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
6. Cấu trúc tiểu luận
Gồm 3 phần:

A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
C. Phần kết luận

2


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận nội dung nghiên cứu.
Vấn đề con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là
mục đích cao nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi hình dung những nét đại
thể về xã hội tương lai, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt con người vào vị trí
trung tâm, con người là chủ thể xây dựng, đồng thời là kết quả của sự phát
triển đó. Một luận điểm nổi tiếng của Mác tạo nên bước ngoặt cách mạng
trong việc nhận thức về con người đó là quan niệm về bản chất con người:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội" [15, tr. 11]. Vì vậy trong chủ nghĩa Mác - Lênin cá nhân
và xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Do đó cả Mác, Ăngghen,
Lênin đều chú ý nhiều đến những vấn đề giải phóng xã hội, giải phóng con
người, đến những vấn đề phát triển cho mỗi cá nhân. Các ông đã phác họa ra
những nét chính của con người mới phù hợp với xã hội tương lai: đó là những
con người đã thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân,
đó là những con người được phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ. Chủ
nghĩa Mác - Lênin còn khẳng định: Chính con người đã sáng tạo ra lịch sử,
làm nên lịch sử. Để có được những con người mới ấy, công tác giáo dục - đào
tạo đóng một vai trò rất to lớn. Theo Mác - Ăngghen: "Công tác giáo dục sẽ
làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ
thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành
sản xuất này sang ngành sản xuất nọ theo nhu cầu của xã hội hoặc tùy theo sở

thích của bản thân họ. Do đó, công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình
trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người
phải theo. Nhờ có giáo dục, con người mới có tri thức, nắm bắt được quy luật
của tự nhiên và xã hội, mới có khả năng để thực hiện năng lực làm chủ của
mình, hoàn thành vai trò chủ thể của quá trình phát triển của xã hội, bởi theo
Lênin: không thể xây dựng CNXH trên đất nước toàn những người mù chữ.
Tiếp thu những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ
vĩ đại của chúng ta đã có những công lao to lớn trong việc giáo dục, đào tạo
con người mới, phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
luôn chăm lo đến việc giáo dục thế hệ trẻ, mở mang dân trí, coi đó như là một
điều kiện hết sức quan trọng để giải phóng con người, làm cho mỗi con người
thực sự được tự do và bình đẳng. Người viết: "Mọi người Việt Nam muốn
hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình phải có kiến thức mới để có
thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ".
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc: "một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu" vấn đề giáo dục đã trở thành một mặt trận quan trọng. Bởi
3


vì: "Dốt nát cũng là kẻ địch, địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch
dốt tấn công ta về mặt tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ
lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân"
Theo Hồ Chí Minh, đào tạo thế hệ trẻ hôm nay cho tương lai đất nước
là vì lợi ích trăm năm của dân tộc, lợi ích lâu dài của đất nước. Tương lai của
đất nước phụ thuộc vào giáo dục, vào việc mang lại văn hóa cho mỗi người,
trước hết là cho thế hệ trẻ.
Từ chỗ xác định vai trò, vị trí quan trọng của giáo dục đào tạo Người
đã khai sinh ra nền giáo dục mới, tiến bộ, một nền giáo dục khoa học, dân tộc,

nhân dân, đại chúng. Người xác định rất rõ mục tiêu của giáo dục - đào tạo:
Học để làm việc, làm người làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp
và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. Học để tin tưởng; học để tu dưỡng đạo đức
cách mạng; học để hành, học tốt để lao động cho tốt; để xây dựng nền công
nghiệp và nông nghiệp tiên tiến...
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư t ưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục - đào tạo con người mới và phát huy truyền thống hiếu
học của dân tộc, cũng như những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để
nhằm không ngừng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trong giai đoạn
lịch sử hiện nay, đứng trước những thời cơ và thử thách mới, một câu hỏi đặt
ra và phải làm gì, làm thế nào để đưa đất nước phát triển mạnh, tránh nguy cơ
tụt hậu. Đảng ta đã xác định: lấy phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học
công nghệ làm khâu đột phá, và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện đất nước. Hội nghị Ban chấp hành
trung ương II (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Muốn tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển giáo dục - đào tạo phát huy
nguồn lực con người, yếu tố để phát triển nhanh bền vững.
2. Thực trạng công tác giáo dục – đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số
Các tỉnh vùng cao và miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh, trong đó có 6
tỉnh vùng cao là: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Cạn, Lai Châu, Sơn La
và 8 tỉnh miền núi là: Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh,
Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang. Đây là vùng kinh tế sinh thái lớn,
có vị trí chiến lược, là vùng giàu tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
cùng với sự nỗ lực cố gắng của nhân dân các dân tộc, các tỉnh miền núi phía
Bắc đã đạt được những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực trong đó có
giáo dục - đào tạo.
Chất lượng giáo dục cả trong dạy và học đã được nâng cao rõ rệt.
Giáo dục mầm non từ chỗ hầu như không phát triển hoặc chỉ phát triển ở các


4


thị trấn, thị xã, thì nay đa số vùng cao đã có lớp mẫu giáo, nhóm trẻ gắn với
trường tiểu học. Tất cả các xã đều có trường tiểu học, số bản "trắng" về giáo
dục tiểu học hầu như không còn. Phần lớn các xã và cụm xã có trường trung
học cơ sở. Huyện nào cũng có ít nhất một trường phổ thông. Bên cạnh đó còn
có hàng trăm trường bán trú dân lập hoặc trường nội trú dân nuôi tại xã và
cụm xã.
Hệ thống cơ sở vật chất của các trường cấp xã, huyện đều được tăng
cường đáng kể và trở thành các hạt nhân đối với phong trào xây dựng văn
hóa, nông thôn mới ở miền núi.
Đội ngũ giáo viên đã được củng cố và phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Từ chỗ phải chờ sự chi viện giáo viên từ các tỉnh miền xuôi, nay
nhiều tỉnh đã tự túc được giáo viên do tỉnh nào cũng có trường trung cấp sư
phạm để đào tạo giáo viên tiểu học, nhiều tỉnh có trường cao đẳng sư phạm.
Tuy nhiên, nằm trong tình trạng chung của miền núi, kinh tế các tỉnh
miền núi, vùng cao phía Bắc nhìn chung vẫn còn lạc hậu, sản xuất mang tính
tự nhiên, du canh du cư và phát nương làm rẫy. Đường giao thông do địa hình
hiểm trở, chia cắt nên còn nhiều khó khăn, gây trở ngại cho đầu tư phát triển
tại khu vực này cũng như cho sinh hoạt của đồng bào. Những hạn chế đó đã
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục đào tạo.
2.1. Hiệu quả của công tác giáo dục - đào tạo còn thấp
Học sinh là những chủ nhân tương lai quyết định sự phát triển của đất
nước, cho nên việc đầu tư để có được đội ngũ trí thức có chất lượng, nhất là
trong thời đại khoa học - công nghệ, được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.
Riêng đối với các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mặc dù được sự chỉ đạo
sát sao của Đảng, Nhà nước và các cấp, nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội ở
các vùng này còn gặp rất nhiều khó khăn nên công tác giáo dục - đào tạo kết

quả đạt được vẫn chưa cao.
Tuy số lượng học sinh hàng năm tăng lên đáng kể, số học sinh giỏi đạt
giải quốc gia cũng tăng, nhưng chất lượng như vậy vẫn chưa cao, bởi số học
sinh thi vào trường chuyên, lớp chọn và thi đỗ vào Đại học vẫn ở mức hạn
chế, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: công tác quản lý của hiệu
trưởng các trường, của các phòng giáo dục huyện, thị, của trường sư phạm,
chất lượng giảng dạy của thầy, điều kiện phục vụ cho việc học tập và sự cố
gắng chăm chỉ của trò, chất lượng tuyển sinh đầu vào của các lớp... dẫn tới
nhiều học sinh, nhất là học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng cao còn yếu.
Do điều kiện kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi còn chưa phát
triển, cho nên cơ sở vật chất của ngành giáo dục vẫn còn đầu tư ở mức hạn
chế. Bên cạnh đó đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn,
do vậy để nâng cao trình độ, nâng cao chất lượng giáo dục là một thách thức

5


lớn. Tình trạng lớp học ghép, lớp học dồn, lớp học ca ba... làm cho học sinh
tiếp thu kiến thức rất khó khăn. Đồng thời việc dạy của thầy cũng không kém
phần vất vả. Vì trong một lớp học ghép tất nhiên sẽ có nhiều độ tuổi khác
nhau, dẫn đến việc tiếp thu tri thức cũng khác nhau. Mặt khác, do trình độ học
sinh trong một lớp khác nhau, người học lớp 1, người học lớp 2... cho nên
trong quá trình giảng dạy giáo viên phải truyền đạt rất nhiều kiến thức trong
một tiết dạy, do đó mà giáo viên không thể chú ý đến từng học sinh, đặc biệt
là những học sinh khá, giỏi hoặc yếu, kém để có biện pháp giáo dục thích hợp
nhằm đem lại kết quả cuối cùng là chất lượng học sinh cao.
Cũng do điều kiện kinh tế còn khó khăn, nên học sinh vừa phải đi học
lại phải tranh thủ làm thêm phụ giúp gia đình, ngoài giờ đi học học sinh còn
phải lên rừng kiếm củi, bẻ măng, săn thú... thậm chí còn bỏ học nếu trong nhà
hôm nay chưa có củi đun, chưa có thức ăn. Chính đặc điểm này đã dẫn đến

chất lượng giáo dục của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang còn thấp,
vì học sinh hôm nay bỏ học thì ngày mai đến lớp giáo viên không có điều
kiện giảng lại cho học sinh đó, mỗi lần như vậy là mỗi lần hổng kiến thức,
như vậy hiệu quả giáo dục thấp là điều không tránh khỏi.
Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề đặt ra nếu không nâng cao được tri
thức, chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Bởi như chúng ta đã biết, giáo
viên là người quyết định chất lượng giáo dục, có được kết quả như thế nào là
tùy thuộc vào vai trò của người giáo viên. Học sinh sẽ có hứng thú học tập
nếu người thày luôn đưa ra những tri thức mới để học sinh tự tìm tòi, khám
phá làm phong phú vốn hiểu biết. Tình trạng học sinh lớp 2 chưa thuộc hết
bằng chữ cái, học sinh lớp 4, lớp 5 chưa đọc thông, viết thạo vẫn còn . Tỷ lệ
học sinh ở các vùng cao bỏ học còn diễn ra rất nhiều. Theo điều tra sơ bộ năm
1999, ở các huyện Hoàng Su Phì và Bắc Quang, tỉnh Hà Giang số người mù
chữ là 64%, số dân chỉ học hết cấp I là 28%, riêng dân tộc Cơ ho ở Hà giang
chưa có ai học đến trung học chuyên nghiệp, các huyện Trùng Khánh, Quảng
Hòa của Cao Bằng có số người mù chữ chiếm tới 20%, số học sinh học hết
cấp I là 36,7%, học hết cấp III chỉ có 13,3%. Những số liệu trên nói chung chỉ
thể hiện ở diện rộng, còn đi vào từng bản làng ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa,
tỷ lệ mù chữ của người dân còn cao hơn rất nhiều, chẳng hạn số người
H'Mông còn mù chữ ở Sơn La là 86,93% - 96%. (Số liệu điều tra của Viện
CNXHKH, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tháng 3-1999). Do đời
sống của người dân nơi đây còn nhiều khó khăn, chưa có điều kiện để con em
họ đi học, hoặc do trường lớp quá xa so với địa bàn cư trú, nên việc đi lại
không được thuận lợi. Giáo viên có nơi phải quyên góp tiền, đến tận nhà trao
sách, vở, bút... động viên học sinh đi học, nhưng cũng chỉ được một thời gian,
sau đó tình trạng bỏ học vẫn tiếp tục diễn ra. Một phần do dân cư ở đây chủ
yếu là người dân tộc thiểu số, giao tiếp với nhau bằng tiếng dân tộc, cho nên
nhiều gia đình, bố mẹ còn tư tưởng cổ hủ, lạc hậu nghĩ rằng: học chỉ để biết

6



cái chữ là được rồi, ở nhà đi cày, đi cuốc, lên nương làm rẫy còn có miếng
cơm mà ăn... do đó làm nhụt chí học tập của học sinh, họ không còn hứng thú
đến trường nữa. Vì vậy tỷ lệ học sinh mù chữ và có trình độ học vấn thấp là
tất yếu.
2.2. Thiếu trường, lớp, giáo viên còn diễn ra ở các làng bản, vùng
cao, vùng sâu, vùng xa
Có thể nói, giáo dục - đào tạo là một mắt khâu quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nó quyết định tốc độ và chiều
hướng phát triển trong việc thực hiện chiến lược ấy. Đánh giá về vai trò của
giáo dục - đào tạo. Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) khẳng định: "Giáo
dục - đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động
có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các
nhu cầu kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng" ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng cao của các tỉnh miền núi đến nay đã có mạng lưới rộng khắp các trường
tiểu học. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một thực tế là, trong những năm gần
đây, công tác giáo dục - đào tạo nâng cao dân trí các tỉnh miền núi, vùng cao
phía Bắc chưa đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi của công cuộc CNH, HĐH
đất nước. Cơ sở vật chất trong ngành giáo dục rất thiếu thốn, nhiều nơi xuống
cấp tới mức báo động: trường không ra trường, lớp không ra lớp, bàn ghế
thiếu thốn... Còn nhiều xã, nhiều bản ở vùng núi cao chưa có trường hoặc
chưa có lớp học. Nhiều lớp học ở vùng cao thậm chí chỉ là 4 cột nhà và mái
lợp, xung quanh không có phên che, tường chắn, bàn ghế là những cây tre
ghép lại mà thành. Số trường được tu sửa, nâng cấp, xây dựn, lại phần lớn tập
trung ở thị xã và các trung tâm huyện. Nhìn chung ở các làng bản vùng cao,
vùng sâu, vùng xa tình trạng trường lớp còn thiếu thốn khá nhiều, nếu có
trường thì chủ yếu là tranh, tre, nứa, lá. Việc thiếu trường, thiếu lớp đã dẫn tới
tình trạng có trường phải học ca ba, trong trường có lớp phải học ghép, thậm
chí có nơi phải tranh thủ học buổi tối. Sự thiếu hụt đó cũng đang được Đảng

và Nhà nước quan tâm, khắc phục, tháo gỡ dần những khó khăn trước mắt,
dần đi vào ổn định, phấn đấu hạn chế tới mức thấp nhất không để xảy ra
những hiện tượng nêu trên.
Đội ngũ giáo viên yếu về chất lượng. Tình trạng này kéo theo một loạt
các vấn đề khác như không thu hút được trẻ em tới trường, chất lượng giáo
dục và đào tạo kém. Một trong những nguyên nhân là thiếu nguồn đào tạo
giáo viên, nhất là giáo viên người dân tộc thiểu số, lại chưa có chính sách và
biện pháp thu hút giáo viên lên công tác ở miền núi, sự tự vươn lên của giáo viên
về chuyên môn, nghiệp vụ còn rất hạn chế, dẫn đến bất cập về năng lực giảng
dạy.
2.3. Phương tiện phục vụ cho giảng dạy và học tập của giáo viên
và học sinh còn thiếu

7


Các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, do đặc điểm và địa bàn cư trú,
sự đan xen ngôn ngữ và trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, làm cho
giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn. Muốn phát triển
được giáo dục, một trong những điều kiện tiên quyết là cơ sở vật chất, mà ở
các vùng cao, vùng sâu, vùng xa cơ sở vật chất thiếu thốn, nghèo nàn và lạc
hậu.
Bên cạnh vấn đề không chỉ thiếu trường, thiếu lớp, thiếu giáo viên, mà
những trang thiết bị thiết yếu nhất phục vụ cho giảng dạy và học tập của giáo
viên và học sinh như: bảng, đồ dùng trực quan, sách giáo khoa, tài liệu tham
khảo, vở, bút, mực... có thể nói là rất thiếu.
Giáo viên lên lớp hầu như phải dạy chạy, không có đồ dùng giảng dạy
để dạy học. Sách giáo khoa là vật dụng học tập quan trọng nhất của học sinh,
nhưng đến nay số học sinh không có sách không phải là ít, nên việc học tập
rất khó khăn.

Hiện nay, ở các làng bản, vùng cao, vùng sâu, vùng xa ở các trường
học hầu như không có thư viện, nếu có thì chỉ có ở thị xã hoặc thị trấn, thư
viện ở thị xã thì sách vở cũng chỉ mới là tương đối, chủng loại sách, tài liệu
tham khảo nghiên cứu chưa phong phú, đa dạng. Thư viện ở các huyện cũng
chỉ phục vụ được cho số ít độc giả. Trong mỗi trường đã có những thư viện,
tủ sách nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Đặc biệt ở những làng bản vùng cao,
vùng sâu, vùng xa, có trường ngay đến bảng của giáo viên cũng mang tính
chất tạm bợ, phải lấy cánh cửa để làm bảng viết. Bàn giáo viên thậm chí
không có. ở những nơi đồng bào dân tộc thiểu số sống theo kiểu du canh, du
cư, lớp học gần như phải "du cư" theo, nên việc xây dựng trường, lớp kiên cố
gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù được sự chú trọng, quan tâm, đầu tư xây dựng nâng cấp chất
lượng lớp học, trường học, nhưng do điều kiện khách quan và chủ quan, nên ở
các vùng này vẫn còn sự thiếu thốn về cơ sở vật chất cho cả việc dạy và học.
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cho trường học là một vấn đề đang
đặt ra nhằm đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo đòi hỏi các cấp, bộ giáo
dục cần phải nghiên cứu, tìm tòi, vạch ra những giải pháp, bước đi thích hợp
đem lại hiệu quả.
2.4. Nội dung giáo dục đặc thù như giáo dục văn hóa dân tộc, dạy
chữ dân tộc, còn lúng túng trong tổ chức thực hiện
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, dân tộc nào cũng có tiếng nói
riêng tồn tại cùng với tiếng nói trong vùng và tiếng phổ thông, nhưng không
phải dân tộc nào cũng có ký tự ghi lại tiếng nói của dân tộc mình, trong 31
dân tộc đang sinh sống ở các tỉnh phía Bắc chỉ có 4 dân tộc có chữ viết: Tày,
Thái, Nùng, H'Mông. Do đặc điểm về địa bàn cư trú, trình độ dân trí không

8


đồng đều, sự đan xen ngôn ngữ và phát triển kinh tế xã hội còn thấp làm cho

giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình phát
triển giáo dục ở vùng này có những yếu tố đặc thù riêng. Như là giáo dục văn
hóa dân tộc, dạy chữ dân tộc, còn đang lúng túng trong khâu tổ chức thực
hiện. Nhiều nội dung dạy học mang tính địa phương tuy được bổ sung, nhưng
mới dừng ở các tài liệu tham khảo, đọc thêm, chứ chưa đưa vào dạy học chính
khóa. Việc dạy chữ dân tộc cho đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được tiến
hành liên tục, chưa theo một kế hoạch chương trình đồng bộ, thống nhất, mới
tập trung ở những nơi thuận lợi, những dân tộc đông người. Đối với các dân
tộc có dân số ít, địa bàn khó khăn chưa làm được nhiều. Nội dung sách giáo
khoa, tài liệu dạy học về tiếng dân tộc chưa được chỉnh lý, bổ sung cho phù
hợp với đặc điểm học sinh dân tộc.
Đối với ngành học mầm non chưa có chương trình chăm sóc, giáo dục
trẻ 5 tuổi bằng nội dung phù hợp với điều kiện giáo viên, cơ sở vật chất và đối
tượng là trẻ em vùng cao, vùng sâu, vùng hẻo lánh. Nội dung dạy nói tiếng
Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở vùng này chưa được tăng cường. Việc triển
khai dạy học tiếng nói, chữ viết dân tộc trong các trường tiểu học ở những
vùng dân tộc không đồng bộ, mới chỉ tập trung ở thị trấn, thị xã. Dạy tiếng
dân tộc xen kẽ với tiếng phổ thông trong tất cả các môn học trong chương
trình còn lúng túng và thiếu các loại tài liệu dạy học song ngữ dân tộc - Việt,
kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt... chưa thực hiện được theo nguyên tắc không
lấy việc dạy học tiếng dân tộc thay cho việc dạy học ngôn ngữ phổ thông
ngày càng thuận lợi và có hiệu quả.
Trong nhiều năm, ngành giáo dục đã triển khai việc dạy chữ dân tộc
đối với các dân tộc đã có chữ viết. Nhưng công cuộc này trong những năm
qua đạt hiệu quả chưa cao, vì tài liệu tham khảo, sách giáo khoa dạy tiếng dân
tộc còn thiếu, nội dung chưa được điều chỉnh cho phù hợp. Đội ngũ giáo viên
ở miền núi và vùng dân tộc thường ở tình trạng mất ổn định, bởi phần lớn
giáo viên là người Kinh từ các nơi khác đến, không biết tiếng dân tộc và thiếu
hiểu biết về tập quán, phong tục của đồng bào địa phương, sau một vài năm
công tác lại có nhu cầu chuyển vùng.

Việc giáo dục văn hóa dân tộc thông qua chữ viết, và các bài giảng
chưa được phát huy. Qua đó chất lượng dạy tiếng Việt và chất lượng giáo dục
văn hóa, giáo dục nhân cách chưa được nâng cao. Một số tài liệu học thêm và
đọc thêm được biên soạn chưa khai thác hết theo hướng các tinh hoa văn hóa
dân tộc nhằm giúp học sinh dân tộc hiểu biết và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc mình.
Việc giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh dân tộc trong các trường
phổ thông chưa được chú trọng, vì vậy ở trong nước các dân tộc thiểu số có
xu hướng ngày một "Kinh hóa". Đã có nhiều bài viết đăng trên một số báo
báo động tình trạng này. Ví dụ: Người Mường ở Hòa Bình đang từ bỏ kiểu
9


nhà sàn truyền thống làm nhà đất kiểu dáng như nhà ở của người Kinh. Lễ
cưới của nhiều dân tộc đang bị "Kinh hóa" từ nghi thức, ăn mặc cho đến các
món ăn trên mâm cỗ. Chữ viết là tài sản vô giá của một số dân tộc có nguy cơ
trở thành "đồ cổ" cất giữ trong bảo tàng. Đặc biệt ở một số dân tộc như: Phù
Lá, Lô Lô, Chứt, Rục, Brâu... có nguy cơ mất tiếng mẹ đẻ. Do vậy, trong
những năm tới, cần tiếp tục triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học về giáo
dục song ngữ để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp, cải tiến tài liệu,
cách đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, tạo điều kiện tốt hơn cho người dạy và
học. Tiếp tục đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi về tiếng dân tộc có tri thức sâu
về giáo dục làm nòng cốt trong đội ngũ tác giả biên soạn các tài liệu giáo
khoa và giảng dạy song ngữ. Ngành giáo dục tiếp tục khai thác tinh hoa văn
hóa truyền thống đang được lưu giữ trong cộng đồng, soạn thành tài liệu đọc
có hình ảnh minh họa giúp học sinh dân tộc học tiếng Việt, học tiếng dân tộc
có hiệu quả, giúp các em thêm yêu, thêm hiểu biết về cộng đồng mình và có ý
thức giữ gìn, phát huy các tinh hoa văn hóa ấy.
3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo
3.1. Tiếp tục phát triển quy mô xây dựng mạng lưới trường lớp

thích hợp
Muốn phát triển được giáo dục một trong những điều kiện tiên quyết
là cơ sở vật chất. Vì vậy, tiếp tục xây dựng và phát triển mạng lưới trường,
lớp cho các đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang là một vấn đề cấp
thiết đặt ra, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định "xây dựng hệ thống trường chuyên,
trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Coi trọng việc
dạy ngoại ngữ và tin học từ cấp phổ thông. Mở thêm các trường phổ thông nội
trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số. coi trọng giáo dục gia
đình" . Quán triệt tình thần ấy, càng ở những nơi khó khăn, giáo dục phát triển
chậm, càng phải tập trung đầu tư, đầu tư đủ mạnh. Đặc biệt chú trọng đầu tư
từ cơ sở, hệ thống trường lớp phải được tới tận bản làng, trên cơ sở đó triệt để
thanh toán nạn mù chữ, hoàn thiện phổ cập giáo dục tiểu học. Kinh nghiệm
cho thấy ở miền núi những sự đầu tư nửa vời, thiếu đồng bộ không kích thích
được sự phát triển, không đủ sức tồn tại trước mọi khó khăn. Đồng bào miền
núi còn nghèo, khả năng đóng góp rất hạn chế. Do vậy sự đầu tư của Nhà
nước phải là sự đầu tư cơ bản, toàn bộ và triệt để, bao gồm:
- Xây dựng kiên cố và trang bị ở mức cao nhất cho các trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở.
- Cấp sách giáo khoa cho học sinh tiểu học, đồ dùng giảng dạy cho
giáo viên, xây dựng phòng đọc sách báo, tủ sách, thư viện, cung cấp trang
thiết bị dạy học để từng bước đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo.

10


- ở các vùng cao, xa xôi hẻo lánh, ngành học mầm non chưa có điều
kiện phát triển, thì tập trung ưu tiên tạo điều kiện cho trẻ 5 tuổi được hưởng
chương trình giáo dục mẫu giáo ở các lớp mẫu giáo gắn liền với tiểu học.
Từng bước mở các trường mẫu giáo, lớp mẫu giáo ở các xã, cụm xã, thôn bản

có điều kiện.
- Củng cố các lớp cắm bản, mở các lớp ghép, lớp treo để thu hút phần
lớn số trẻ đến học.
- Mở các lớp bán trú ở xã, cụm xã theo hình thức nhà nước và nhân
dân cùng làm để trẻ ở xa có điều kiện học tại lớp.
- Củng cố các trung tâm giáo dục thường xuyên thành cơ sở vừa dạy
chữ vừa dạy nghề cho thanh niên các dân tộc.
- Tiếp tục củng cố các trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp, gắn
công tác tuyển sinh với quy hoạch đào tạo, tạo ra sự liên thông giữa các tuyến
dưới với tuyến trên, quan tâm tuyển các đối tượng người dân tộc thiểu số, học
sinh nữ.
- Đa dạng hóa hệ thống mạng lưới trường lớp và hình thức dạy học để
huy động mọi người đi học, xây dựng mạng lưới trường lớp phủ kín, xóa bản
"trắng", xây dựng các trường tiểu học hoàn chỉnh, mở trường trung học cơ sở
cho các cụm xã... Ngoài ra còn phải mở các loại hình trường chuyên nghiệp từ
sơ cấp đến đại học, còn có những trường lớp có hình thức đặc thù như: trường
phổ thông lao động, trường thanh niên dân tộc, trường thiếu nhi vùng cao,
trường dự bị đại học Trung ương (Việt Trì) để tạo nguồn học sinh người dân
tộc vào bậc đại học.
- Phát triển hơn nữa hệ thống các trường dân tộc nội trú, mở các lớp
xóa mù chữ, lớp học linh hoạt, các trung tâm giáo dục trẻ em gái và phụ nữ để
trở thành hình thức giáo dục mang tính đặc thù phù hợp với đối tượng học
tập. Các loại trường lớp này không chỉ nhằm học chữ mà còn cung cấp thêm
các tri thức xã hội, kỹ năng sống và nghề nghiệp.
Trường, lớp là cơ sở ban đầu, là một trong những điều kiện cần thiết
giúp cho công tác giáo dục - đào tạo có hiệu quả. Chính vì vậy cần phải phát
huy nguồn lực ở đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
họ không có tiền nhưng lại có hiện vật: Tre, đất, nứa... và có thể đóng góp
công sức xây dựng. Song bên cạnh đó cần sự hỗ trợ của các đơn vị kinh tế,
các tổ chức xã hội của Nhà nước đầu tư về xi măng, tiền bạc... như thế sẽ đảm

bảo lớp học cho học sinh.
Trường lớp ổn định, sạch đẹp sẽ tạo cho học sinh có hứng thú, có nhu
cầu và thiết tha với học tập, do học sinh không phải nghỉ học vì trời mưa hoặc
có giông bão, các em sẽ được đến trường và nghỉ hè theo đúng quy định
không phải học bù, học thêm...

11


3.2. Bồi dưỡng nghiệp vụ và nâng cao trình độ cho các giáo viên
đang công tác tại thôn, bản của đồng bào dân tộc ít người
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Người giáo
viên có trình độ chuyên môn cao, sẽ đào tạo ra những học sinh có tài năng
lao động và nghiên cứu giỏi. Nhiều năm, đội ngũ giáo viên ở miền núi và
vùng dân tộc thiểu số phải lên tới tận thôn, bản nên bị dàn mỏng, mất ổn định.
Không đủ về số lượng và yếu về chất lượng. Vì vậy ngành giáo dục phải song
song thực hiện hai giải pháp:
- Giải pháp tình thế (đào tạo cấp tốc, ngắn hạn).
- Giải pháp lâu dài (đào tạo chính quy theo yêu cầu chuẩn hóa).
Với những giáo viên được đào tạo theo hệ dưới chuẩn, sau một vài
năm công tác được ưu tiên bồi dưỡng thêm, đào tạo lại để đạt chuẩn. Theo
tinh thần của giáo dục cộng đồng, việc đào tạo giáo viên ở miền núi cần phải
linh hoạt và đa dạng: có hệ chuẩn, có hệ dưới chuẩn, có hệ chính quy, có hệ
cấp tốc. Vừa đảm bảo yêu cầu đào tạo chung, lại vừa đảm bảo các yêu cầu có
tính đặc thù ở vùng dân tộc thiểu số, trong đó có yêu cầu về trang bị phương
pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Phải tiếp tục đánh giá đội ngũ giáo
viên vùng dân tộc thiểu số, đánh giá từng người, đánh giá từng cấp học theo
yêu cầu của chức danh chuẩn.
Từ đó tiến hành bồi dưỡng thường xuyên, khuyến khích tự bồi dưỡng,
tự cập nhật kiến thức. Những giáo viên không đạt chuẩn về trình độ, năng lực

và phẩm chất sư phạm sẽ phải chuyển sang làm việc khác.
Trong những năm qua, phần lớn đội ngũ giáo viên ở miền núi và vùng
dân tộc là người Kinh từ các nơi khác đến, không biết tiếng dân tộc và thiếu
hiểu biết về tập quán, phong tục của đồng bào địa phương. Vì vậy việc giảng
dạy và truyền đạt tri thức cho học sinh dân tộc còn nhiều hạn chế, cần phải
khuyến khích và có chế độ động viên giáo viên ở những vùng này tự trang bị
cho mình về tiếng và chữ dân tộc để giảng dạy và thâm nhập vào cộng đồng
đồng bào dân tộc. Hàng năm vào dịp hè cần tổ chức thường xuyên hơn nữa
những lớp: "Bồi dưỡng hè" cho tất cả đội ngũ giáo viên. Như vậy, để cho giáo
viên chưa có điều kiện đi học cao hơn vẫn có thể học thêm, bổ sung những
kiến thức mới, những vấn đề chính trị cập nhật...
Đối với những giáo viên chưa đạt chuẩn ở tất cả các cấp học, cần có
biện pháp để giúp giáo viên này đạt được trình độ chuẩn, không nên để trình
độ tri thức giữa các giáo viên chênh lệch quá xa, khoảng cách này cần phải
được rút ngắn, càng sớm, càng tốt. Nâng cao chất lượng giáo viên đồng thời
cũng nâng cao chất lượng học sinh. Hơn nữa, khối lượng tri thức của nhân
loại ngày một nhiều, học sinh càng có nhu cầu được hiểu biết, được khám

12


phá, tìm tòi, do đó việc nâng cao trình độ cho giáo viên lại càng phải đặt ra
cần phải giải quyết hơn bao giờ hết.
Nhưng không chỉ chú ý đến nâng cao chất lượng mà quên việc tăng số
lượng. Nếu chất lượng giáo viên cao mà phải dạy chồng chéo thì kết quả giáo
dục thu được cũng không cao, bản thân học sinh tiếp thu kiến thức cũng vất
vả.
Yêu cầu giáo viên phải đạt chuẩn đào tạo là hoàn toàn đúng đắn. Song
ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số cần phải được tiến hành từng bước. ở
miền núi và vùng dân tộc thiểu số không thể đào tạo một lần mà có ngay đội

ngũ giáo viên giỏi. Vì vậy, công tác đào tạo giáo viên phải gắn chặt với công
tác đào tạo - bồi dưỡng thường xuyên.
Vì vậy Bộ Giáo dục phải có chương trình, mục tiêu củng cố, nâng cấp
trường sư phạm, dành kinh phí thích đáng cho việc nâng tỷ lệ giáo viên miền
núi được chuẩn hóa (kể cả sau đại học). Đồng thời tiếp tục đầu tư chỉ đạo chất
lượng, các hình thức đào tạo ngắn hạn ở các tỉnh miền núi để thực hiện giải
pháp tình thế bước đầu đáp ứng số lượng giáo viên thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học và chống mù chữ ở một số vùng đặc biệt khó khăn.
Để phát triển, nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo ở các vùng dân tộc
thiểu số và miền núi đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, thì vấn đề bồi dưỡng
nghiệp vụ và nâng cao trình độ cho các giáo viên đang công tác tại đây luôn
luôn phải được đề ra và phải có biện pháp thích hợp nhằm thực hiện có hiệu
quả.
3.3. Có chính sách thỏa đáng đối với giáo viên công tác tại miền
núi, vùng dân tộc thiểu số
Quan tâm phát triển giáo dục - đào tạo, không chỉ thể hiện trong việc
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất như: trường, lớp, thư viện, nhà ở... Một nhân
tố vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học đó là mối quan hệ gắn
bó giữa giáo viên và học sinh. Muốn vậy phải có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng đối với đội ngũ giáo viên công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Trong những năm qua, nguồn giáo viên đang công tác tại miền núi và
vùng dân tộc thiểu số chủ yếu dựa vào miền xuôi lên. Nhưng do đường xá
giao thông đi lại khó khăn cách trở, điều kiện sinh hoạt vật chất cũng như tinh
thần thiếu thốn, lại không am hiểu phong tục, tập quán cũng như ngôn ngữ
của đồng bào dân tộc địa phương, thêm vào đó sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước thông qua chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng, nên không tạo được tâm
lý yên tâm công tác của đội ngũ giáo viên này. Đa số họ đến đây làm nghĩa vụ
vài ba năm rồi lại có nhu cầu chuyển vùng. Vì vậy cần phải xây dựng, ban
hành một số chế độ, chính sách với cơ chế khuyến khích đối với đội ngũ giáo
viên đang công tác tại đây như:


13


- Động viên, điều chuyển các giáo viên cho vùng cao, vùng sâu, có
chế độ đãi ngộ thích đáng với người dạy, người học bằng ngân sách, xác định
ưu tiên và tăng chi ngân sách cho các tỉnh đặc biệt khó khăn, đưa các định
mức chi cho đầu người làm công tác xóa mù chữ, phát không sách giáo khoa
và xây dựng tủ sách, cho phép ký hợp đồng bổ sung giáo viên ngoài biên chế.
- Nhằm thu hút được giáo viên lên công tác tại vùng cao cần phải có
công tác, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, chẳng hạn như về tiền lương, giáo
viên đang công tác tại miền xuôi lương là 1, thì giáo viên đang công tác tại
miền núi là 1,5, còn giáo viên đang công tác tại vùng sâu, vùng xa là 2.
Ngoài các chính sách hỗ trợ về tiền lương và phụ cấp thì cần phải có
các chính sách khác như:
- Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với giáo viên
công tác tại đây.
- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho các trường lớp.
- Tạo điều kiện cho các giáo viên ở đây bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng
cao trình độ và học cao hơn nữa.
Như vậy, để thực hiện các chính sách trên phải được sự quan tâm của
các cấp, các ngành, thực hiện với phương châm tạo ra một "xã hội học tập"
đưa nền giáo dục nước ta bước lên tầm cao mới.
3.4. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi dân cư thưa thớt, làng bảng lại
ở rất xa nhau. Nhiều làng bản không đủ học sinh để mở một lớp học bình
thường. Trong những năm tới tiếp tục triển khai hình thức lớp ghép. Do đặc
điểm cư trú xen kẽ các dân tộc đều là cộng đồng song ngữ hoặc đa ngữ, bên
cạnh việc sử dụng tiếng mẹ đẻ, học sinh dân tộc có quyền lợi và nghĩa vụ học

tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ phổ thông. Thế nhưng, tâm lý tiếp nhận, cơ
chế lĩnh hội tiếng Việt của học sinh dân tộc còn có những mặt hạn chế. Do
vậy, trong những năm tới cần tiếp tục triển khai nghiên cứu các đề tài khoa
học về giáo dục song ngữ để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp, cải tiến
tài liệu, cách đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, xây dựng chế độ chính sách, tạo
điều kiện tốt hơn cho người dạy và người học. Tiếp tục đào tạo đội ngũ
chuyên gia giỏi về tiếng dân tộc, có tri thức sâu về giáo dục làm nòng cốt
trong đội ngũ tác giả biên soạn các tài liệu, sách giáo khoa và giảng dạy song
ngữ.
Trẻ em gái ở vùng dân tộc là đối tượng bị thiệt thòi nhất, được đặt
thành trọng tâm lưu ý trong việc huy động trở ra lớp hàng năm. Với những em
gái đã lớn tuổi được vận động ra lớp xóa mù chữ mở tại các thôn bản. Trong
thời gian tới ngành giáo dục sẽ phát triển một số trung tâm giáo dục trẻ em
14


gái. Trong các trung tâm này, các em vừa được học chữ vừa được học nghề,
vừa được cung cấp các tri thức cập nhật về giới giúp các em làm tốt chức
năng làm vợ, làm mẹ, quản lý và làm kinh tế hộ gia đình trên nền tảng đặc thù
kinh tế địa phương.
Nền văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam rất đa dạng. Trong
những năm tới, ngành giáo dục tiếp tục khai thác tinh hoa văn hóa truyền
thống đang được lưu giữ trong cộng đồng, soạn thành học liêu dưới hình thức
tài liệu đọc có hình ảnh minh họa giúp học sinh học tiếng Việt, tiếng dân tộc
có hiệu quả, giúp các em thêm hiểu biết về cộng đồng mình và có ý thức giữ
gìn, phát huy các tinh hoa văn hóa ấy. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo
nhằm huy động được tối đa số lượng người tham gia học tập, mở rộng các cơ
hội học tập cho mọi người. Trước mắt, cần chú trọng hình thức đào tạo tại
chức cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi trước mắt của vùng này là thiếu đội ngũ cán bộ cơ sở, chất

lượng của đội ngũ này hiện nay đang còn thấp.
Đầu tư vào việc giảng dạy bằng song ngữ cho học sinh. Đâylà một
việc tương đối khó khăn, song nó giúp cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa của từng dân tộc, từng vùng dân tộc, mặt khác nó giúp cho việc học
quốc ngữ có hiệu quả hơn. Đây là một kinh nghiệm quý mà Thái Lan áp dụng
khá thành công trong những năm qua. Ban đầu có thể khó khăn, do nhu cầu
giao tiếp mà một số dân tộc đã không sử dụng tiếng của dân tộc mình. Nhưng
nếu giải quyết tốt một số thao tác cơ bản như giáo trình bằng tiếng dân tộc,
giáo viên sử dụng được tiếng dân tộc thì dần dần ngôn ngữ của từng dân tộc
sẽ là cầu nối rất hiệu quả giữa các chính sách nhà nước với nhân dân.
Trong những năm gần đây, trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của trẻ em
các dân tộc thiểu số về tâm sinh lý, nhu cầu học tập, khả năng ngôn ngữ, điều
kiện tham gia học tập... ở các địa bàn miền núi, vùng dân tộc thiểu số cần phải
áp dụng nhiều loại chương trình giáo dục đào tạo khác nhau.
- Đối với ngành học mầm non:
Cần phải áp dụng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ 5 tuổi bằng nội
dung phù hợp với điều kiện giáo viên, cơ sở vật chất và đối tượng là trẻ em
vùng cao, xa xôi hẻo lánh. Tăng cường nội dung dạy nói tiếng Việt cho trẻ
mẫu giáo 5 tuổi để chuẩn bị cho các cháu vào học tốt ở lớp một.
- Đối với bậc tiểu học:
Cần áp dụng nhiều loại chương trình khác nhau: Chương trình 165
tuần, chương trình 120 tuần, chương trình 100 tuần áp dụng cho từng đối
tượng học sinh có điều kiện về địa lý, khí hậu và khả năng khác nhau. Cụ thể
như chương trình 100 tuần là để áp dụng cho trẻ thất học, lớn tuổi (15 tuổi trở
lên) để xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho đối tượng này.

15


- Đối với bậc trung học cơ sở và phổ thông trung học:

Chủ yếu phải áp dụng chương trình chung của cả nước, tùy từng địa
phương, từng dân tộc mà bổ sung các loại tài liệu dạy học mang tính địa
phương như: văn hóa dân tộc, đặc điểm lịch sử, địa lý, kinh tế địa phương.
Từng bước chỉnh lý nội dung sách giáo khoa, tài liệu dạy học và bổ
sung cho phù hợp với đặc điểm học sinh dân tộc, phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế, xã hội của từng địa phương. Nội dung chương trình hướng vào
việc dạy cho học sinh những kiến thức phổ thông tối thiểu, thiết thực, gần gũi
với đời sống sinh hoạt hàng ngày của các em.
Từng bước đổi mới phương pháp giáo dục: Trong xu hướng đổi mới
phương pháp giáo dục chung của cả nước, giáo dục vùng dân tộc thiểu số và
miền núi cũng đang có cơ hội tiếp cận với phương pháp dạy học theo hướng
lấy học sinh làm trung tâm và hướng học sinh vào các hoạt động tự học tập là
chủ yếu. Một số biện pháp về đổi mới phương pháp giáo dục ở đồng bào các
dân tộc thiểu số và miền núi cần được áp dụng:
- Từng bước đổi mới phương pháp dạy học lớp ghép thông qua việc
xây dựng các mô hình bồi dưỡng giáo viên, biên soạn các tài liệu như: phiếu
bài tập, sách song ngữ, cùng đồ dùng dạy học...
- Tiến hành nghiên cứu và bồi dưỡng giáo viên về phương pháp giảng
dạy song ngữ, phương pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, cách
làm đồ dùng dạy học bằng nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương... tạo tiền đề
cho việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Tổ chức cho học sinh hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh, tham
gia sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao ở những cơ sở trường học có nội trú,
tạo tâm thế hứng khởi trong học tập cho học sinh.
Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới nội dung và
phương pháp dạy học ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là
một vấn đề đang đặt ra nhằm đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục - đào
tạo, đòi hỏi các cấp, các ngành và Bộ giáo dục phải nghiên cứu và vạch ra
những giải pháp để giải quyết những vấn đề trên.
3.5. Nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục cho đồng bào dân

tộc thiểu số và miền núi
Hồ Chủ tịch đã dạy: "Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân,
phục vụ tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới [19, tr. 450].
Vì vậy việc nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc về vai trò của
giáo dục là một việc làm cần thiết. Đảng ta coi "giáo dục - đào tạo là quốc
sách hàng đầu" là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, là động lực thúc đẩy
mọi mặt của đời sống. Nền giáo dục phát triển sẽ đem lại cho con người

16


những hiểu biết, cung cấp cho con người khối lượng kiến thức phong phú, đa
dạng, giúp con người có tầm nhìn xa, trông rộng, đón bắt được thời cuộc, đi
tắt đón đầu, tiếp nhận những khoa học tiến bộ của nhân loại. Với vai trò của
giáo dục như vậy, việc nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số
và miền núi về vị trí của giáo dục lại càng cấp thiết hơn. Bởi vì đồng bào các
dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa chưa có ý thức, chưa hiểu được
tầm quan trọng của giáo dục. Từ trước tới nay đồng bào quan niệm không cần
cái chữ vẫn có cái để ăn. Do đó, phải làm sao nâng cao nhận thức cho đồng
bào từ đó họ tự nguyện, họ cảm thấy đó là nhu cầu cần thiết không thể thiếu
được trong cuộc sống, có như vậy mới tạo được động lực, nội lực phát triển
giáo dục.
Hơn nữa, khi chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, khi
thế giới đang chứng kiến việc phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật,
nếu không đẩy mạnh phát triển giáo dục để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài đáp ứng với yêu cầu của thời đại, thì khó lòng mà thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển lên được. Không thể cứ mãi "con trâu đi trước, cái
cày theo sau", không áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để nâng cao năng
suất trong khi nhu cầu cuộc sống của con người ngày một tăng. Muốn vậy,
không có con đường nào khác là phải học tập, phải có kiến thức để trở thành

những người có trình độ cao, có tay nghề lao động thành thạo khi sử dụng
những công cụ lao động tiên tiến, có thế mới kịp tốc độ phát triển giữa các
vùng trong nước, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, cùng cả nước tiến lên:
"Sánh vai cùng với các cường quốc năm châu". Điều quan trọng là phải tuyên
truyền cho nhân dân thấy được, hiểu được để có quyết tâm cùng ngành giáo
dục phấn đấu vượt qua những khó khăn trở ngại, thi đua lập nhiều thành tích
mới.
Song, bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức về người thầy giáo để tạo
ra môi trường xã hội biết tôn trọng người thầy, cũng là vấn đề được quan tâm
chú ý tới.
Trong sự nghiệp đào tạo, vai trò của người thầy giáo là rất quan trọng,
"một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy" và "không thầy đố mày làm
nên". Thầy là người truyền đạt kiến thức, đem những kiến thức của mình để
dạy học sinh. Người thầy giỏi sẽ đào tạo, dạy dỗ ra những trò giỏi, con ngoan,
những công dân có ích cho xã hội. Người học có phát huy được tài năng và
nâng cao được trình độ hay không là tùy thuộc vào sự dạy bảo của người thầy.
Lúc này, người thầy là người mẹ thứ hai, nâng từng bước đi của học sinh,
giúp cho học sinh có được kiến thức để bước vào đời vững vàng, tự tin, mạnh
dạn.
Có thể nói trong tương lai của người học có một phần đóng góp không
nhỏ của người thầy. Cho nên, tôn trọng người thầy chính là tôn trọng bản

17


thân, có tôn trọng thầy mới thấy hết được những gì quý giá ẩn náu trong tri
thức.
4. Đề xuất, kiến nghị
Với Trung ương: Cần thực lộ trình phát triển giáo dục đào tạo miền
núi, có các khung chính sách ưu đãi cụ thể hơn, đầu tư mạnh mẽ hơn nữa về

tài chính cũng như về con người cho các tỉnh miền núi phía Bắc.
Với các tỉnh: Ban hành các chính sách cụ thể để thu hút giáo viên giỏi,
đồng thời có các chính sách hạn chế chuyển đổi nghề từ giáo viên sang các
nghề khác trong hệ thống chính quyền.
Quan tâm hơn nữa đối với công tác tuyên truyền vận động học sinh
đến lớp đầu tư nhiều hơn hệ thống giáo dục bán trú, dân nuôi.

18


C. KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc
tế hóa đời sống kinh tế thế giới là thời cơ thuận lợi để phát triển, đồng thời
cũng là một thách thức gay gắt đối với các nước, nhất là những nước còn
chậm phát triển về kinh tế như nước ta. Trong bối cảnh đó, nước ta muốn
nhanh chóng tiến hành CNH, HĐH nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng và văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển
mạnh giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự
phát triển chung và bền vững.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, giáo dục được xem là một
hiện tượng xã hội đặc biệt, đóng một vai trò đặc biệt. Giáo dục thực hiện chức
năng truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội, giúp cho mỗi cá nhân
tích lũy kiến thức, phát triển trí tuệ, hình thành văn hóa đạo đức, giúp cho xã
hội bảo tồn phát triển nền văn minh của mình. Giáo dục tham gia đào tạo
nguồn nhân lực, tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng sản xuất
trực tiếp và quản lý xã hội, phát triển tiềm năng trí tuệ và khả năng lao động
sáng tạo của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Không
có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa", "Vì
lợi ích trăm năm phải trồng người". Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự
nghiệp giáo dục gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, một dân

tộc được độc lập, tự do, giáo dục có điều kiện phát triển, mặt khác giáo dục
mạnh làm cho dân tộc mạnh. Người chỉ rõ: "Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu".
Kế thừa tư tưởng trên, trong những năm gần đây Đảng ta luôn xác
định rõ quan điểm: "giáo dục là quốc sách hàng đầu", "Giáo dục đóng vai trò
then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc". Bước vào thời kỳ mới, tại Đại hội IX Đảng ta đã chỉ rõ: "Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững".
Quán triệt quan điểm trên của Đảng và để thực hiện chủ trương của
Đảng là tạo ra "một xã hội học tập", trong những năm qua giáo dục đã giữ
một vai trò quan trọng đối với các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, góp
phần tạo nên những chuyển biến tích cực về mọi mặt, nâng cao đời sống của
đồng bào.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đã và đang
đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn miền
núi, vùng dân tộc thiểu số nói chung và sự nghiệp giáo dục đào tạo nói riêng.
Để đáp ứng yêu cầu ấy, công tác giáo dục, đào tạo phải không ngừng đổi mới,
19


hoàn thiện, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, tạo nguồn động lực đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ trên, khóa luận đã đi vào phân
tích thực trạng,c hỉ ra những khó khăn, hạn chế trong công tác giáo dục đào
tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, từ đó tìm ra nguyên nhân và mạnh
dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản.
Mặc dù rất tâm đắc với đề tài, nhưng do trình độ và khả năng có hạn

nên khóa luận mới chỉ dựng lại là những nghiên cứu bước đầu, chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
và các bạn.

20


Tài liệu tham khảo
1.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

2.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

3.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

4.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

5.


Phạm Minh Hạc (chủ biên), Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH,
HĐH, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.

6.

Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.

7.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập I, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.

8.

Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.

9.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập IV, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập V, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập VI, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập VII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.

21



×