Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Bài tiểu luận Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Rạng Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.66 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌc

TIỂU LUẬN
Môn: Tài chính doanh nghiệp
Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích
tài chính doanh nghiệp tại Cty Rạng Đông

Họ và tên:

Hoàng Quang Hưng

Lớp :

TCDN 10.02

MSV :

1500253


Lời mở đầu
Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
luôn là vấn đề muôn thủa. Không chỉ các doanh nghiệp mà các ngân hàng, các nhà kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính hay một số ban ngành chính phủ cũng luôn quan tâm đến
vấn đề nhạy cảm này. Việc nâng cao chất lượng phân tích không chỉ giúp chúng ta có
một cái nhìn toàn thể về doanh nghiệp mà nó còn giúp chúng ta biết doanh nghiệp đó cần
gì, cần như thế nào trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó chúng ta có thể đưa ra các
phương án chính xác cho mục tiêu của mình.
Tuy với lượng kiến thức còn nhiều hạn chế và thiếu sót của bản thân, nhưng tôi


cũng có mong muốn tham gia nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy tôi chọn đề tài :” Giải
pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty cổ phần
Rạng Đông” làm đề tài cho tiểu luận. Thông qua đề tài này, tôi muốn vận dụng những
hiểu biết của mình trình bày cụ thể về những mặt đạt được trong công tác phân tích tài
chính tại công ty đặc biệt là những nguyên nhân, hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng
của việc phân tích nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị để chất lượng phân tích tài
chính tại công ty ngày một tốt hơn. Tôi sẽ đi sâu nghiên cứu với cấu trúc của chuyên đề
gồm có những phần sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công
ty cổ phần Rạng Đông.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại công ty cổ
phần Rạng Đông.


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1 Khái niệm và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm:
a. Tài chính doanh nghiệp:
- Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn tài chính gắn liền
với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải chú trọng
đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt động này dựa trên mối quan hệ giữa dòng tài
chính và dự trữ tài chính nhằm thực hiện những mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới.
Để hoạt động tài chính có hiệu quả doanh nghiệp cần đưa ra những quyết định tài
chính và thực hiện những quyết định đó phù hợp với mục tiêu tài chính doanh nghiệp.
Những quyết định tài chính muốn chính xác, tối ưu cần phải dựa trên nguồn thông tin
trung thực, liên tục, nhất quán, công khai... Phân tích tài chính nhằm cung cấp những

thông tin như vậy và là bộ phận quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp.
b. Phân tích tài chính doanh nghiệp:
Theo Josetle Payrard :
“Phân tích tài chính có thể được định nghĩa như một tổng thể các phương pháp
cho phép đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, giúp cho việc quyết định
quản trị và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác1”.
Ngày nay phân tích tài chính có xu hướng trở thành hệ thống xử lý thông tin nhằm cung
cấp dữ liệu cho những người ra quyết định tài chính. Phân tích tài chính là cơ sở dự báo
1


ngắn trung và dài hạn. Phân tích tài chính giúp ta đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính .
Tóm lại, phân tích tài chính có thể được hiểu là một tập hợp các khái niệm
,phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông
tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm
lực doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết
định quản lý phù hợp.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Cũng giống như con người, mỗi doanh nghiệp đều có cuộc đời riêng của mình,
đều phải trải qua các giai đoạn ra đời, phát triển, trưởng thành và suy thoái. Nội lực của
mỗi doanh nghiệp, cùng với sự tác động mạnh mẽ của môi trường xung quanh, có nhiều
doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển không ngừng, bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp
không tránh khỏi giải thể, phá sản. Chính vì thế, phân tích tài chính tỏ ra là thực sự có ích
và vô cùng cần thiết đặc biệt với sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng,
của thị trường vốn như hiện nay. Nó không chỉ phục vụ cho doanh nghiệp mà còn cho tất
cả các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Phân tích tài chính phục vụ các mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn đã

qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài
chính trong doanh nghiệp...
- Hướng các quyết định của Ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình hình
thực tế của doanh nghiệp như quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận.
- Là cơ sở cho những dự đoán tài chính ngắn, trung và dài hạn.
- Phân tích tài chính đối với nhà quản lý là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát
hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp


1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư
Với tư cách là nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho
người khác quản lý và như vậy có những rủi ro. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời
được chia và thặng dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn ảnh hưởng của lợi nhuận
thu được ở đơn vị mình giao vốn. Vì vậy, cần đánh giá khả năng hoạt động và khả năng
sinh lời của doanh nghiệp mình có ý định đầu tư.
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ
Các chủ nợ đều quan tâm rằng doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay vốn không
thông qua việc đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn tín dụng, có tài sản thế chấp, lãi suất
vay và mức độ rủi ro mà các chủ nợ có thể chấp nhận được từ tình hình tài chính thực tế
của công ty thông qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán
hiện hành đối với việc cho vay ngắn hạn.Việc hoàn trả cả vốn lẫn lãi có đúng thời hạn
không, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả vay nợ từ những người cung cấp nào và
khả năng trả nợ trong hiện tại và trong tương lai. Từ đó, các chủ nợ mới quyết định có
nên cho doanh nghiệp vay với cơ cấu vốn như thế nào, thời hạn trong bao lâu...

1.1.2.4. Đối với người lao động
Với những người lao động là những người trực tiếp hưởng lương, lương là nguồn
thu nhập chính thể hiện giá trị sức lao động mà những người lao động bỏ ra, là nguồn tiền
giúp cho họ có thể tái sản xuất và nuôi sống gia đình. Bên cạnh đó, đối với những doanh
nghiệp cổ phần những người lao động cũng có thể trở thành những cổ đông nếu họ có

tiền mua và nắm giữ cổ phiếu. Do đó, họ quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp
thông qua chính sách phân phối thu nhập, các khoản đóng góp của họ đối với doanh
nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, chính sách cổ tức, khả năng sinh
lời của doanh nghiệp. Từ đó, người lao động có thể yên tâm lao động và sáng tạo, sử
dụng đồng vốn nhàn rỗi của mình để tăng thêm thu nhập.


1.1.2.5. Đối với các cơ quan nhà nước
Với tư cách là các cơ quan nhà nước có liên quan bao gồm công ty kiểm toán, cơ
quan thuế, cơ quan thống kê... là những cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát tình hình
hoạt động của doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính gửi lên. Đây là một trong những
đối tượng rất quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp, vì các cơ quan này đại diện
cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô . Bất cứ doanh nghiệp nào tiến hành
một hoạt động kinh doanh phải đăng ký và phải tuân thủ theo pháp luật hiện hành để trở
thành một đơn vị làm ăn lành mạnh, hiệu quả. Do đó, các cơ quan nhà nước có liên quan
bằng cách đọc những kết quả đạt được, những mặt còn yếu kém qua các phần trong báo
cáo tài chính có cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể về hoạt động của doanh nghiệp xem
xét doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không, có tuân thủ pháp luật không,có những quyết
định ưu đãi về thuế nếu có kinh doanh ngành nghề đặc biệt, quyết định hỗ trợ về vốn
ngân sách cấp làm tăng tính hiệu quả của doanh nghiệp, đưa ra quyết định quản lý phù
hợp.
1.2. Tài liệu, phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài liệu quan trọng và cần thiết cho phân tích tài chính là tìm ra được những
nguồn thông tin trung thực, chính xác. Doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong môi
trường kinh doanh bị tác động bởi những yếu tố bởi chính bản thân doanh nghiệp và các
nhân tố bên ngoài đòi hỏi thông tin phục vụ cho phân tích tài chính cũng phải thu thập
đầy đủ, không chỉ qua các báo cáo tài chính mà còn qua nguồn thông tin được cung cấp
từ bên ngoài.
1.2.1.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp

Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất đa dạng một số thông tin là
bắt buộc và công khai, một số khác chỉ dành cho cổ đông. Trong số các nguồn thông tin
nội bộ thông tin kế toán là nguồn thông tin cơ bản nhất, được nhà phân tích phân thu thập
trước tiên. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh trên


các báo cáo tài chính một cách toàn diện và tổng hợp tình hình tài sản, nguồn vốn qua
bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những
luồng tiền vào ra coi như tiền, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền trong từng thời kỳ qua
báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đó là những cơ sở quan trọng để tiến hành phân tích hoạt
động tài chính. Các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính được thể hiện dưới hình thức giá trị
nên nhà phân tích có thể định lượng tính toán kết hợp só liệu với nhau từ đó đưa ra dự
đoán, dự báo và đưa ra quyết định.
Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.

1.2.1.2. Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo biểu tài
chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính doanh
nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá của quốc gia và quốc tế, các thông
tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh nghiệp. Việc quyết định
đều gắn với môi trường xung quanh. Có thể kể tới một số yếu tố khách quan tác động tới
doanh nghiệp và những thông tin liên quan đến các yếu tố này cũng phải luôn được
thường xuyên cập nhật.
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Phương pháp đánh giá
a. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích kinh tế nói
chung và phân tích tài chính nói riêng, được áp dụng từ khâu đầu đến khâu cuối của quá
trình phân tích: từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích. Khi sử dụng phương

pháp so sánh cần chú ý đến điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh và kỹ thuật so sánh.
b. Phương pháp phân chia


Là việc chia các hiện tượng kinh tế thành các bộ phận cấu thành trong mối quan hệ
biện chứng hữu cơ với các bộ phận khác và hiện tượng khác. Tuỳ theo mục đích phân
tích có thể phân tích theo các tiêu thức khác nhau.
c. Phương pháp phân tích nhân tố
Là phương pháp phân tích và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ
tiêu phân tích, sau đó xem xét tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố, những nguyên nhân
dẫn đến sự biến động của từng nhân tố và xu thế nhân tố trong tương lai sẽ vận động như
thế nào. Từ đó có dự đoán chỉ tiêu phân tích trong tương lai sẽ phát triển đến đâu
d. Phương pháp dự đoán
Là phương pháp được sử dụng để ước tính các chỉ tiêu kinh tế trong tương lai. Tuỳ
thuộc vào mối quan hệ cũng như dự đoán tình hình kinh tế xã hội tác động kinh doanh
đến doanh nghiệp mà sử dụng các phương pháp khác nhau. Thường người ta sử dụng
phương pháp hồi quy(hồi quy đơn, hồi quy bội), toán xác suất, toán tài chính,và các
phương pháp phân tích chuyên dụng như phân tích dòng tiền, phân tích hoà vốn, phân
tích lãi gộp, lãi thuần, lãi đầu tư, phân tích dãy thời gian... Các phương pháp này có tác
dụng quan trọng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế cũng như lựa chọn các phương
án đầu tư hoặc kinh doanh...
.

1.2.2.2 Kỹ thuật phân tích
a. Phân tích theo chiều ngang
Là việc so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu (cung một hàng) trên các báo cáo

tài chính. Phân tích theo chiều ngang cho thấy sự biến động của từng chỉ tiêu. Điều quan
trọng ở đây là không chỉ đi so sánh để thấy được sự biến động về số tuyệt đối (là khoản
chênh lệch giữa lượng tiền của năm so sánh với năm gốc) để thấy được số tiền biến đổi

qua thời gian là bao nhiêu mà cần thể hiện sự biến động qua số phần trăm. Điều đó bổ
sung cho bức tranh toàn cảnh.
b. Phân tích theo chiều dọc


Là việc xem xét, xác định tỷ trọng của từng thành phần trong tổng thể quy mô
chung. Qua đó, thấy được mức độ quan trọng của từng thành phần trong tổng thể. Nếu
xem xét tất cả các thành phần thì điều đó cho thấy kết cấu của tổng thể.
c. Phân tích qua hệ số(tỷ số)
Là việc thiết lập một biểu thức toán học có tử số và mẫu số thể hiện mối quan hệ
của một mục này với mục khác trên báo cáo tài chính. Các hệ số có thể trình bày bằng
phân số, có thể trình bày bằng số phần trăm. Để có được một hệ số có giá trị thì giữa hai
con số phải có mối quan hệ đáng kể.
1.2.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích các nhóm chỉ tiêu chủ yếu
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Một doanh nghiệp được coi là làm ăn có hiệu quả không chỉ thể hiện thông qua
mức lợi nhuận cao mà còn thể hiện ở khả năng thanh toán. Nhìn vào một doanh nghiệp
làm ăn có lãi nhưng việc có lãi đó chủ yếu là mua bán chịu và đi vay nợ thì đó không thể
coi là một doanh nghiệp có tình hình tài chính vững mạnh. Đối với những nhà đầu tư và
những nhà tài trợ, những chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán được coi là vô cùng quan
trọng, nó quyết định đến khả năng được tài trợ và được các nhà đầu tư chú ý đến. Nhóm
chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:

Hệ số thanh toán ngắn hạn =

Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của
doanh nghiệp nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn
của khoản nợ. Tài sản LĐ và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới 1 năm.



Hệ số càng cao thì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp
càng lớn. Tuy nhiên, nếu hệ số cao quá thì cũng là không tốt do:
- Các khoản phải thu quá lớn bao gồm các khoản nợ nần dây dưa, lòng vòng khó
đòi, các khoản phải thu không có khả năng thu hồi. Hay nói cách khác, doanh nghiệp bị
chiếm dụng vốn.
- Các khoản phải trả không có khả năng thanh toán.
- Vốn bằng tiền dự trữ nhiều làm giảm khả năng sinh lời.
- Hàng tồn kho bị ứ đọng do không có khả năng tiêu thụ.
Để đo lường khả năng thanh toán nhanh, người ta tính chỉ tiêu:

Hệ số thanh toán nhanh =

Hệ số là thước đo khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp không phụ thuộc
vào việc bán tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Vì vốn bằng tiền + Các khoản phải thu= Tài
sản lưu động - Hàng tồn kho và hàng tồn kho khó chuyển đổi thành tiền hơn các tài sản
lưu động khác, khi bán dễ bị lỗ nhất. Tỷ số này quá cao cũng không tốt.

Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ ngắn, trung và dài hạn đến hạn trả tiền. Nếu hệ
số này quá cao>1 thì không tốt lúc đó vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm
giảm khả năng quay vòng vốn. Nếu hệ số này quá thấp<0,1 thì doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán.
Khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ những chỉ tiêu tính được,
cần chú ý đên khả năng tạo tiền, sự tăng trưởng và những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
gia tăng các khoản phải thu và hàng tồn kho. Đây là nguồn gốc của những khó khăn về
khả năng thanh toán.



b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn và cơ cấu vốn
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu của doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với các doanh nghiệp, phản ánh mức độ ổn
định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Trên cơ
sở phân tích kết cấu nguồn vốn doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài
chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp
gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn
Hệ số nợ trên tổng tài sản =
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ
trong việc góp vốn. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ số này vừa phải vì tỷ số này càng
thấp thì khoản nợ càng được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong
khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp lại muốn tỷ số này cao vì họ muốn nắm quyền điều
hành và kiểm soát, muốn lợi nhuận gia tăng nhanh. Tỷ số này quá cao doanh nghiệp dễ bị
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Hệ số nợ trên vốn cổ phần =
Hệ số này cho biết vốn chủ sở hữu có đủ khả năng trả nợ cho các chủ nợ không, hệ
số này cao hay thấp phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp
Hệ số khả năng thanh toán =
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hằng năm như
thế nào. Đây cũng là chỉ tiêu mà doanh nghiệp quan tâm phân tích vì nó thể hiện khả
năng thanh toán của doanh nghiệp
Hệ số cơ cấu tài sản =
Hệ số này phản ánh tỷ trọng của TSCĐ hoặc TSLĐ chiếm trong tổng tài sản của
doanh nghiệp. Hệ số này cho biết tính hợp lý trong việc đầu tư để từ đó có kế hoạch điều
chỉnh và cân đối các khoản mục cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.


Nếu đầu tư vào tài sản cố định ở mức độ vừa phải, doanh nghiệp có thể tận dụng được
đòn bẩy hoạt động, tăng lợi nhuận trước thuế, nếu đầu tư quá ít thì cũng không tốt vì
không đáp ứng được cơ sở trang thiết bị cho sản xuất kinh doanh, nếu đầu tư quá nhiều

thì sẽ không tốt sẽ khiến cho doanh nghiệp không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ do khả
năng thu hồi vốn chậm , nhất là đối với những tài sản cố định vô hình mức độ khấu hao
nhanh.
Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
Hệ số này phản ánh tỷ trọng vốn tự có của chủ doanh nghiệp trong tổng nguồn vốn
bao gồm cả việc đi vay. Hệ số này càng lớn, khả năng chi trả, tính chủ động của doanh
nghiệp cao với chủ nợ. Trong bất kỳ trường hợp rủi ro xảy ra chủ doanh nghiệp đều có
khả năng thanh toán. Trách nhiệm của các chủ sở hữu doanh nghiệp với việc tăng nhanh
tốc độ vòng quay vốn sẽ tăng lên và ngược lại.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua hiệu quả kinh
doanh, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp về lao động,
vật tư, tiền vốn để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Các chỉ tiêu về khả năng
hoạt động đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn nói chung, chú trọng đến từng bộ phận cấu
thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn kho =
Đây là chỉ tiêu quan trọng không chỉ nhà quản trị quan tâm mà các nhà đầu tư, chủ
nợ cũng rất coi trọng. Vì chỉ tiêu này đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Bình quân một đơn vị sản phẩm hàng hoá dự trữ tham gia vào quá trình kinh
doanh thì thu được bao nhiêu đồng giá vốn. Hệ số này càng cao phản ánh hoạt động kinh
doanh càng tốt và ngược lại có nghĩa là có sự bất hợp lý trong khâu dự trữ, sản xuất làm
hàng hóa kém chất lượng hay yếu kém trong khâu tiêu thụ.
Vòng quay vốn lưu động =


Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu
vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản cố định tham gia vào quá trình
kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tài sản cố định ở đây được tính

theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Doanh nghiệp chú ý đến chỉ tiêu này để
đánh giá mức độ cần thiết cho việc đầu tư vào tài sản cố định có tạo ra doanh thu lớn hay
không để có hướng nâng cấp hay mua sắm mới.
Kỳ thu tiền bình quân =
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh
toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền
bình quân cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn ở các khoản phải thu hoặc doanh
thu bình quân một ngày nhỏ là do hàng hóa không tiêu thụ được, nếu tỷ số này thấp
chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp nhanh.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Chỉ tiêu này phản ánh một yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh sinh ra bao
nhiêu kết quả đầu ra. Nhìn vào chỉ tiêu này, các đối tượng quan tâm có thể nhìn thấy tổng
quát về năng lực hoạt động của doanh nghiệp từ đó hỗ trợ cho việc ra quyết định.

d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là điều kiện duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chu kỳ sống của doanh nghiệp dài hay ngắn phụ thuộc rất lớn ở khả năng sinh lời.
Nhưng nếu chỉ thông qua một số lợi nhụân mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kinh
doanh cao hay thấp để đánh giá chất lượng kinh doanh tốt hay xấu thì có thể đưa đến kết
luận không chính xác. Bởi vì số lợi nhuận này có thể không tương xứng với chi phí bỏ


ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng hay mức độ đầu tư mạo hiểm độ rủi
ro cao. Do đó, khả năng sinh lời của doanh nghiệp được xem xét qua nhóm các chỉ tiêu
sau:
Hệ số sinh lợi doanh thu =
Đây là chỉ tiêu phản ánh trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này có thể thay đổi do chi phí hoặc giá bán sản phẩm thay đổi.
Không phải lúc nào giá trị của nó cũng cao là tốt. Nếu nó cao do chi phí (giá thành phẩm)
giảm thì tốt. Nhưng nếu cao tăng giá bán trong trường hợp cạnh tranh thì chưa phải là tốt,

ảnh hưởng đến lợi nhuận trong tương lai
Hệ số sinh lời của tài sản =
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một
đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư ROI. Tuỳ thuộc vào tình
hình cụ thể của doanh nghiệp và phạm vi so sánh với tổng tài sản.
Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu =
Những nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ tiêu này vì họ quan tâm đến khả năng
thu được lợi nhuận so với vốn họ bỏ ra để đầu tư. Cứ một đồng vốn lợi nhuận tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ càng lớn biểu hiện xu hướng tích cực, doanh nghiệp có
thể đi tìm vốn mới trên thị trường để tài trợ cho tăng trưởng của mình. Ngược lại nếu nhỏ
và dưới mức của tỷ lệ thị trường thì doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc thu hút vốn.
Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào cũng thuận lợi bởi lẽ có
thể do vốn chủ sở hữu nhỏ, điều này thể hiện mức độ mạo hiểm càng lớn.
1.2.3.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
a. Các loại nguồn huy động cho sản xuất kinh doanh


* Chiếm dụng vốn trong kinh doanh.
* Huy động vốn bằng con đường đi vay.
* Nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là số vốn tài trợ cho phần lớn TSCĐ của doanh nghiệp, vì vậy sự
biến động tăng hoặc giảm của vốn chủ sở hữu cũng sẽ ảnh hưởng đến quy mô về hoạt
động SXKD, quy mô về tổ chức của doanh nghiệp. Sau mỗi chu kỳ SXKD, doanh nghiệp
cần phải tiến hành đánh giá, phân tích vốn chủ sở hữu của mình về các mặt.
Khi phân tích về tình hình quản lý và sử dụng vốn chủ sở hữu các nhà phân tích
còn sử dụng bảng nguồn vốn và sử dụng vốn.
Bảng phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn mô tả diễn biến của các nguồn vốn và
sử dụng chúng vào các công việc cụ thể. Sự thay đổi của các khoản mục trên bảng CĐKT
từ kỳ trước tới kỳ này cho chúng ta biết nguồn vốn được sử dụng vào mục đích gì. Mỗi
sự thay đổi các tài khoản trên bảng CĐKT có thể được xếp vào cột nguồn vốn hay sử

dụng vốn theo quy luật sau:
-Nếu tăng phần tài sản và giảm phần nguồn vốn thì được xếp vào cột sử dụng vốn.
-Nếu giảm phần tài sản và tăng phần nguồn vốn thì được xếp vào cột nguồn vốn.
- Nguồn vốn và sử dụng vốn phải cân đối với nhau.
Sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn theo trình tự nhất định tuỳ theo
mục tiêu phân tích và phản ánh vào bảng biểu theo mẫu
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn:

Sử dụng vốn
Chỉ tiêu

Số tiền

Nguồn vốn
%

Chỉ tiêu

Tăng tài sản

Giảm tài sản

Giảm nguồn vốn

Tăng nguồn vốn

Tổng vốn

100


Tổng nguồn vốn

Số tiền

%

100


b. Nguyên tắc khai thác, huy động vốn
- Tiết kiệm: chỉ huy động vốn với lượng vừa đủ cần thiết cho doanh nghiệp.
- Hiệu quả: chỉ sử dụng nguồn vốn nào có chi phí thấp nhất, quay vòng nhanh.
- Nguồn tài trợ dài hạn đầu tư cho TSCĐ, nguồn tài trợ ngắn hạn đầu tư cho tài sản
lưu động.
c. Nghiên cứu phương pháp xây dựng nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp
Để hình thành tài sản cố định và tài sản lưu động cần phải có nguồn vốn ngắn hạn
và nguồn vốn dài hạn. Để xây dựng nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp ta cần phân
tích hai chỉ tiêu
* Vốn lưu động thường xuyên:
Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động
và nguồn vốn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Có 3 trường hợp xảy ra
khi so sánh nguồn vốn và tài sản: Khi nguồn vốn dài hạn < Tài sản cố định Hoặc Tài sản
lưu động < nguồn vốn ngắn hạn có nghĩa là vốn lưu động thường xuyên <0. Nguồn vốn
dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định, doanh nghiệp phải đầu tư tài sản cố định
bằng nguồn vốn ngắn hạn, tài sản lưu động không đủ đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nợ
ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng
một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Khi nguồn vốn dài hạn > Tài sản cố định hoặc Tài sản lưu động > Nguồn vốn
ngắn hạn nghĩa là Vốn lưu động thường xuyên > 0. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi
đầu tư vào tài sản cố định, phần thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động, khả năng thanh toán

của doanh nghiệp tốt.
Vốn lưu động thường xuyên= 0 nghĩa là nguồn vốn tài trợ cho tài sản cố định và
tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính doanh nghiệp
như vậy là lành mạnh.
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nó cho
biết 2 điều: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không; Tài


sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài
hạn không?
* Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên:
Nhu cầu vốn lưu động
=
thường xuyên

Tồn kho và các
Nợ ngắn
khoản phải thu
hạn

Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ
cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Có hai trường
hợp xảy ra:
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu >
nợ ngắn hạn. Lúc này, sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn
hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn
để tài trợ vào phần chênh lệch.
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0, nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ
bên ngoài đã thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.

* Mối quan hệ giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường
xuyên:
Vốn bằng tiền = Vốn lưu động thường xuyên - Nhu cầu vốn lưu động thường
xuyên
- Nếu tồn kho và các khoản phải thu >nợ ngắn hạn, nghĩa là sử dụng ngắn hạn >
nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp huy động được. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
dương. Để tài trợ phần chênh lệch này, doanh nghiệp cần tới vốn lưu động thường xuyên.
Nếu vốn lưu động thường xuyên > Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thì vốn bằng tiền
dương và ngược lại.
- Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên< 0, vốn lưu động thường xuyên >0
thì vốn bằng tiền dương. Vốn lưu động thường xuyên < 0 thì vốn bằng tiền âm, xảy ra
mất cân đối trong nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn.


1.3. Chất lượng và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài
chính doanh nghiệp
1.3.1. Chất lượng phân tích
1.3.1.1. Quan điểm về chất lượng phân tích:
Chất lượng phân tích tài chính là mục tiêu mà các nhà phân tích tài chính muốn
hướng đến. Phân tích tài chính bao gồm rất nhiều đối tượng quan tâm từ vĩ mô cho đến vi
mô, thông tin vô cùng đa dạng, nhiều phương pháp phân tích, nội dung phân tích đề cập
đến nhiều vấn đề
1.3.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính đã đề cập đến ở phần trên, để phân tích tài chính có
chất lượng, có thể kể đến một số yếu tố sau:
a. Cung cấp đầy đủ thông tin:

Phân tích tài chính rất cần đến yếu tố thông tin, chất lượng phân tích có tốt hay không
phụ thuộc rất lớn vào lượng thông tin được cung cấp ở mức độ nào. Các nguồn thông tin
ở đây được hiểu không chỉ là nguồn thông tin bên trong và bên ngoài do doanh nghiệp

thu thập được mà còn là những nguồn thông tin quan trọng được cung cấp đầy đủ bởi các
nhà cung cấp thông tin liên quan đến phân tích tài chính doanh nghiệp như hệ thống chỉ
tiêu trung bình ngành, các thông tin về chính sách nhà nước... mà việc thiếu đi một trong
vài thông tin liên quan đến vấn này có thể ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phân tích tài
chính của doanh nghiệp. Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất lớn vào nguồn
thông tin nhưng là nguồn thông tin có chọn lọc và có chất lượng, bởi cũng là thông tin
nhưng nó có đầy đủ và trung thực không mới là điều quan trọng, điều này bản thân doanh
nghiệp không tự làm được mà tuỳ thuộc vào những nhà cung cấp thông tin.
b. Độ chính xác của các chỉ tiêu và các nhân tố tác động

Chất lượng phân tích tài chính còn phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các chỉ
tiêu tính được như khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính , khả năng sinh lời... và các nhân


tố tác động như quan điểm của lãnh đạo về phân tích tài chính doanh nghiệp, công tác tổ
chức hoạt động phân tích tài chính, người thực hiện phân tích tài chính...
c. Tính kịp thời của thông tin

Tính kịp thời của thông tin là yếu tố không thể thiếu phục vụ cho phân tích tài
chính doanh nghiệp hay nói cách khác là làm cho chất lượng phân tích tài chính được tốt
hơn. Thông tin mang tính động rất cao, một thông tin có thể có giá trị hôm nay nhưng đến
hôm sau nó lại bị lạc hậu do vậy để tạo nên các báo cáo có chất lượng cần thiết cho phân
tích tài chính các thông tin kế toán cần phải được cập nhật cao độ đến từng chi tiết, theo
từng ngày để đảm bảo tính kịp thời. Tính kịp thời của thông tin làm tăng chất lượng phân
tích tài chính còn thể hiện ở chỗ: các số liệu để phân tích phải được tập hợp qua nhiều
năm và có độ chính xác cao.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính
Chất lượng phân tích tài chính tốt hay chưa tốt là do ảnh hưởng của các nhân tố
tác động như sau:
1.3.2.1. Công tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính

Để thực hiện công việc phân tích tài chính cần phải bao gồm các công việc từ khâu
chuẩn bị kế hoạch, thực hiện, kiểm tra giám sát và đánh giá kết quả. Các công việc này
muốn thực hiện tốt phải cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong một doanh
nghiệp. Mỗi phòng ban với chức năng nhiệm vụ của mình dưới sự phân công của trưởng
phòng mỗi người đều có phần việc của mình để hướng tới mục tiêu chung là tổ chức tốt
công tác phân tích tài chính. Nguồn thông tin được thu thập từ các phòng ban là kết quả
nội bộ quan trọng trên cơ sở được xử lý, chọn lọc bởi các nhà quản lý cấp cao được cung
cấp cho quá trình phân tích tài chính và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phân tích
tài chính.
1.3.2.2. Người thực hiện phân tích tài chính


Người thực hiện phân tích tài chính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất
lượng phân tích tài chính. Trước hết mục đích của nhà phân tích tài chính khi tiến hành
phân tích sẽ định hướng cho cả quá trình phân tích, quyết định quy mô phạm vi các kỹ
thuật tài liệu sử dụng cũng như chi phí cho việc phân tích. Khả năng của nhà phân tích sẽ
lựa chọn thông tin và tiến hành thu thập nguồn thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng phân tích tài chính vì phân tích tài chính muốn hiệu quả phải dựa trên những thông
tin đầy đủ chính xác kịp thời và chi phí cho việc thu thập là nhỏ nhất. Việc lựa chọn công
cụ phân tích cũng phụ thuộc vào người phân tích. Kết quả phân tích tài chính luôn mang
dấu ấn cá nhân do vậy nhà phân tích có những đánh giá nhận xét riêng của mình về tình
hình tài chính doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi.
Nhà phân tích phải trung thực ý thức được tầm quan trọng và nhiệm vụ của mình
thì việc phân tích tài chính mới có hiệu quả cao.
1.3.2.3. Chất lượng thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Thông tin là một vấn đề hết sức cần thiết trong tất cả các lĩnh vực nói chung và trong
phân tích tài chính nói riêng. Thông tin là vô cùng quan trọng và máy tính là bắt buộc.
Có thể khẳng định rằng nếu không có thông tin hoặc thiếu thông tin thì việc phân tích tài
chính không thể thực hiện được hoặc nếu phân tích trong điều kiện thông tin không đầy
đủ chính xác thì chất lượng phân tích sẽ thấp.

Do vậy làm thế nào để có một hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác phục vụ tốt
cho công tác phân tích tài chính thì đó là yêu cầu các nhà quản lý phải hết sức quan tâm.
1.3.2.4. Việc lựa chọn phương pháp phân tích tài chính
Trên cơ sở nguồn thông tin có được các cán bộ phân tích sẽ phải làm gì? làm như
thế nào? áp dụng phương pháp phân tích tài chính nào để đánh giá thực trạng tài chính
của doanh nghiệp là một điều rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, phải kết hợp các phương pháp phân tích tài chính tuỳ
theo từng mục tiêu cụ thể của nhà quản lý quan tâm thì việc phân tích mới mang lại hiệu
quả như ý muốn của doanh nghiệp.
1.3.2.5. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành


Việc phân tích tài chính của doanh nghiệp sẽ có ý nghĩa hơn khi có sự tồn tại của
các chỉ tiêu trung bình ngành đây là cơ sở tham chiếu quan trọng trong khi tiến hành phân
tích. Người ta có thể nói các tỷ lệ tài chính của doanh nghịêp là cao hay thấp, tốt hay xấu
khi đem so sánh với tỷ lệ trung bình ngành. Nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá được
thực trạng tài chính của mình mà từ đó có những giải pháp khắc phục


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY BÓNG
ĐÈN PHÍCH NƯỚC RẠNG ĐÔNG GIAI ĐOẠN 2013- 2014
2.1. Giới thiệu chung
Xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty Bóng đèn phích nước Rạng
Đông, trực thuộc Tổng công ty sành sứ Thuỷ Tinh được xây dựng vào năm 1958. Là một
trong 13 nhà máy đầu tiên được xây dựng để phục vụ kháng chiến cứu nước.
Đến nay, qua 57 năm sản xuất và hoạt động Cty Rạng Đông đã trở thành một trong
những nhà sản xuất hàng đầu Việt Nam về sản xuất nguồn sáng và phích nước. 20 năm
liên tiếp Cty Rạng Đông được người tiêu dùng bình chọn hàng Việt Nam chất lượng cao.
Hai lần được tặng Huân chương độc lập Hạng Nhất và năm 2005 được chính phủ

tặng cờ thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
2.2. Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty Bóng đèn phích
nước Rạng Đông
2.2.1. Tình hình thông tin sử dụng trong quá trình phân tích tài chính
2.2.1.1. Thông tin bên ngoài:
Như chúng ta đã biết, công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông là một đơn vị
thuộc Tổng Công ty Sành sứ thuỷ tinh thuộc Bộ công nghiệp nhẹ với đặc trưng chủ yếu
là sản xuất các loại bóng đèn, phích nước. Để tồn tại và phát triển, trong quá trình sản
xuất kinh doanh công ty luôn phải thích nghi với những thay đổi của tình hình thế giới và
trong nước, do vậy thông tin bên ngoài mà công ty quan tâm phục vụ cho công tác phân
tích tài chính là các thông tin liên quan đến sự tăng trưởng hay suy thoái của kinh tế thế
giới, tình hình chính trị thế giới; các thông tin về các chính sách, luật trong nước cũng
như trong khu vực như: luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư các doanh nghiệp
nước ngoài, các luật thuế, cắt giảm hàng rào thuế quan, chế độ kế toán. Ngoài ra, công ty


còn quan tâm đến sự phát triển của khoa học công nghệ, đối thủ cạnh tranh, giá cả thị
trường đối với đầu vào và đầu ra...
2.2.1.2. Thông tin nội bộ
a. Tình hình tài chính

Stt
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
10.1
10.02
10.03
10.04
11

Chỉ tiêu
Giá trị sản xuất công nghiệp
Doanh số
Doanh thu bán hàng
Doanh thu thuần về bán hàng
Giá vốn bán hàng
Lợi nhuận gộp
Chi phí hoạt động tài chính
Thu nhập trước thuế
Thu nhập sau thuế
Tổng tài sản
Tài sản lưu động
Tài sản cố định
Các khoản phải trả
Nguồn vốn chủ sở hữu
Nộp ngân sách
Đơn vị : Tỷ đồng
b. Khả năng thanh toán

2013
1,894.522
2493.706

2297.283
2293.402
1843.734
449.668
391.085
116.384
85.690
1772.436
1591.486
180.950
1270.433
502.092
176.804

2014
2,260.989
2805.106
2600.175
2599.521
2047.705
551.816
491.101
88.783
65.641
2284.363
2088.449
195.913
1780.015
504.347
219.210


So sánh (%)
119.34
112.49
113.18
113.35
111.06
122.72
125.57
76.28
76.60
128.88
131.23
108.27
140.12
100.45
123.98

Stt
1
2
3
4

Chỉ tiêu
Hệ số thanh toán hiện tại
Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán tức thời
Số ngày thu nợ
c. Hệ số hoạt động


2013
1.26
0.57
0.4
28.22

2014
1.17
0.48
0.04
31.87

So sánh (%)
93.52
83.90
10.15
112.94

2013
1.29
12.67
1.44
4.57
11.41
2.12

2014
1.14
13.27

1.24
5.15
11.45
1.65

So sánh (%)
87.95
104.69
86.38
112.84
100.36
77.97

Stt
1
2
3
4
5
6

Chỉ tiêu
Doanh thu / Tổng tài sản
Doanh thu/ Tài sản cố định
Doanh thu/ Tài sản lưu động
Doanh thu/ Vốn chủ sở hữu
Số vòng quay phải thu
Số vòng quay hàng tồn



7

Số vòng quay vốn luu động ròng 7.09

8.41

118.59`

2.2.2. Phương pháp phân tích tài chính tại công ty
Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông trong giai đoạn này hoạt động phân tích
tài chính chưa được chú trọng lắm. Công việc này được tiến hành bởi những người trực
tiếp làm nghiệp vụ kế toán do đó cũng ảnh hưởng đến phương pháp phân tích. Thông qua
các báo cáo tài chính thấy rõ công ty sử dụng phương pháp so sánh các chỉ tiêu giữa năm
này với năm trước và giữa kế hoạch đặt ra với thực tế đạt được là chủ yếu để đề ra kế
hoạch, định hướng cho tương lai. Bên cạnh đó, công ty còn tiến hành phân tích một số
chỉ tiêu chi tiết như chi phí sản xuất kinh doanh tình hình tăng giảm tài sản cố định...
Cuối cùng là tiến hành giải trình và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh.
2.2.3. Hoạt động phân tích tài chính tại công ty
Hoạt động phân tích tài chính của công ty được tiến hành vào cuối mỗi năm thông
qua các báo cáo tài chính mà các kế toán lập ra theo mẫu của Bộ tài chính quy định. Việc
lập ra các báo cáo tài chính là nghĩa vụ bắt buộc mà công ty phải làm để nộp cho cơ quan
quản lý nhà nước và cơ quan cấp trên và là cơ sở cho công ty đưa ra định hướng cho
tương lai.
Tóm lại, nội dung phân tích của công ty bao gồm những phần sau:
- Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố
- Tình hình tăng giảm tài sản cố định
- Tình hình thu nhập của công nhân viên chức
- Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu
- Tình hình tăng giảm đầu tư vào đơn vị khác



- Các khoản phải thu và nợ phải trả
- Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế
- Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Tổng hợp và đánh giá kết quả

2.2.3.3. Phân tích một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính của
công ty
Trước hết là việc bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn: tỷ trọng tài sản cố định trong
tổng tài sản cao nhưng cao nhất là năm 2013 và giảm ở năm 2014 nhưng tỷ lệ giảm
không đáng kể, công ty vẫn chú trọng vào đầu tư vào tài sản cố định.Tỷ trọng tài sản lưu
động là khá cao.
Về cơ cấu nợ phải trả so với tổng nguồn là cao và tăng qua các năm trong khi
nguồn vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn cũng tăng nhưng tỷ trọng nợ phải trả so với
tổng nguồn lớn hơn nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu do nguồn vốn kinh doanh tăng
không cùng tốc độ với vốn vay. Khả năng thanh toán nhanh cao nhất là năm 2013, với
các tỷ lệ trên cho thấy có thể chấp nhận được.
Về khả năng thanh toán, khả năng thanh toán tổng quát là tốt vì tỷ lệ lớn hơn
100%, năm 2013 khả năng thanh toán là tốt nhất, 2014 giảm một chút nhưng không
đáng kể; song tỷ lệ thanh toán qua các năm tuy cao nhưng chưa tốt vì thể hiện sự mất cân
đối giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn.
2.2.3.4. Phân tích, tổng hợp kết quả và lập kế hoạch
Những kết quả phân tích tài chính như trên được ban giám đốc và ban lãnh đạo
thông qua và trên cơ sở đó ra quyết định tài chính. Kết quả phân tích tài chính tại Công ty
chỉ có giá trị tham khảo khi lãnh đạo công ty ra các quyết định tài chính.Việc dự đoán tài



×