Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN Áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn Ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.58 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG
DẠY MÔN NGỮ VĂN 12"
- -
1
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1/ Lí do chọn đề tài.
Từ nhiều năm nay, việc dạy học môn Ngữ văn được thực hiện theo phương pháp truyền
thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến học sinh, học sinh
tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ như thế thành
một chu kì khép kín. Phương pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ
nhận được là đã đạt những kết quả đáng kể trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Tuy
nhiên trong môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ
không ít nhược điểm như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự
nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng
lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của thầy cô;
Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vào câu hỏi chiếu lệ sẽ không thể nắm bắt
được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của học sinh. Cảm nhận văn học
mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản hồi từ học sinh sẽ dễ trở thành khiên
cưỡng áp đặt; Giờ đọc văn vì không có sự tương tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở
nên buồn tẻ, nặng nề không hứng thú.
Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cấp thiết, có ý
nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn đang mất dần sức hút đối với
học sinh.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng từ giáo dục ở bậc
tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ thông, sự đổi mới thể hiện
trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương
pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy


học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp
học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác
nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi kinh nghiệm
của bản thân về việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy
tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn 12.
2/ Mục đích nghiên cứu :
- -
2
Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo cho các em học
sinh. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu quả nhất.
3/ Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Khách thể: Học sinh lớp 12A1 Trường THPT số 2 Bát Xát.
+ Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh
phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở chương trình ngữ văn 12.
4/ Giả thiết khoa học.
Một thực tế cho thấy, chất lượng giáo dục ở các trường THPT hiện nay chưa đáp
ứng mục tiêu đào tạo. Do khả năng nhận thức của cha mẹ học sinh còn hạn chế, chưa chú
trọng đến việc học hành của con cái, nên chưa có ý thức nhắc nhở, động viên con em
mình đến trường, chưa làm cho con em mình thấy được giá trị của việc học; do các thầy
cô giáo áp dụng các phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa tạo ra được sức hút để học
sinh đến trường. Nếu có sự phối kết hợp tốt giữa gia đình và nhà trường, nếu các thầy cô
giáo thực hiện tốt việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực thì chất lượng dạy - học sẽ
PHẦN I
NỘI DUNG
A- CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI.
I. Cơ sở lý luận:
1. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và nhận định sâu sắc
thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn chậm đổi mới, chưa phát

huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo
ở người học.
2. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung phương pháp
giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ
động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998)
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Trong bộ môn văn học ở trường phổ thông trung học nhiều năm nay thực tế đã có
nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh học theo kiểu cũ: đọc
thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không hoặc ít có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác
phẩm văn chương.
- -
3
2. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc phục dần qua
những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách học của học sinh.
3. Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác phẩm, học sinh mua
về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng tạo do đó dẫn đến tình trạng mù
kiến thức.
4. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít chịu khó phát
hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu quả cao khi cảm nhận tác
phẩm văn chương.
B- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
I/ Vài nét khách thể nghiên cứu.
Trường THPT số 2 Bát Xát là một trường vùng cao mới được thành lập, điều kiện
thiết yếu để phục vụ cho dạy của giáo viên và học của học sinh còn nhiều thiếu thốn. Đây
lại là nơi tập trung đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp với nếp
sống lạc hậu từ bao đời nay. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc dạy học của giáo
viên và việc học tập của học sinh, nhất là trong điều kiện kinh tế và việc đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học hiện nay. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực và lòng yêu nghề, chúng tôi

đã dồn tâm huyết của mình vào công việc mà ngành đã giao cho với mong muốn làm cho
các em học sinh vùng cao có vốn sống và vốn kiến thức nhất định, để các em vững bước
vào cuộc sống sau này. Để làm được điều đó thì phải phát huy được tính chủ động, sáng
tạo của các em, tạo điều kiện để các em được hoạt động, từ đó tạo sự ham muốn được đến
lớp mà biện pháp hữu hiệu nhất là phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực. Vì thế, GV cần phải linh hoạt hơn trong quá trình thực hiện đổi mới bằng các biện
pháp khác nhau.
II/ Thực nghiệm sư phạm.
1. Mục đích thực nghiệm:
Như ta đã biết, dạy học là một hoạt động có tính nghệ thuật cao đòi hỏi người thầy
phải biết lựa chọn sao cho phù hợp với đối tượng học và với thực tiễn trong giai đoạn
hiện nay. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy trong nhà trường việc áp dụng phương
pháp dạy học tích cực sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng với trách nhiệm của một người
thầy, tôi đã mạnh dạn áp dụng PPDH tích cực vào trong dạy học với đối tượng là học
sinh lớp 12A1 trường THPT số 2 Bát Xát. Mục đích của việc áp dụng thực nghiệm này
là: Rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho các em học sinh, đồng thời giúp các em tiếp
cận tri thức một cách nhanh nhất.
2. Biện pháp cụ thể:
- -
4
Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, giá
trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình đầu tiên là tiếp xúc, cảm thụ văn
bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá trị của hình tượng nghệ thuật và cảm
hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của nhà văn để làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là
quá trình kết thúc sự tiếp nhận ở người đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung
cảm, những ấn tượng và chịu ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong
đời sống cá nhân.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được những thói quen,
những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện, tự điều chỉnh bản thân bởi
vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần là quá trình người đọc tiếp xúc với

tác phẩm văn học mà nó còn diễn ra quá trình nhận thức ở họ khi người đọc và người học
có ý thức cao về những vấn đề trong tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường
THPT đối với lứa tuổi học sinh chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm,
hiểu ra cái đúng, cái hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải cảm thụ, cảm
nhận một cách toàn diện để sau đó từng bước đưa HS bước vào tác phẩm mà phân tích,
cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng đắn.
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng, tưởng tượng để hình
dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà văn trong tác phẩm, bởi vì nhà
văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm phương tiện, cách thức, thủ pháp nghệ thuật để
sáng tác tác phẩm văn học. Quá trình tiếp xúc, tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của
học sinh phải nhờ ào tài năng, kĩ năng của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích,
bình giảng, nhận xét để bằng các giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ thống
ngôn ngữ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn dắt của người thầy
rất quan trọng, vì thế thầy muốn dẫn dắt học sinh bước vào khám phá tác phẩm thì trước
hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái và có khả
năng phân tích, đánh giá tác phẩm và qua sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm
thụ cái hay, chỗ độc đáo của tác phẩm để từ đó từng bước hiểu ra vấn đề nhà văn đặt ra
và giải quyết trong tác phẩm.
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng: “giảng văn trước
hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật
của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức
và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác phẩm văn chương”( Giảng văn
Chinh phụ ngâm - Đặng Thai Mai - ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống
nhất ấy trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ
thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên lại phải
phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình độ, khả năng của học sinh. Như trên đã nói,
- -
5
tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có sự liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái hay của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó

theo tôi hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của
giáo viên. Vậy thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng
mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm
văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng đọc
thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cận
tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng
đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương hoặc có thể đó còn là một hệ
thống câu hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải
căng thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề.
Qua một số năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THPT, tôi thấy rằng để có được một giờ
giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi
học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi
đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp học có ít nhất hơn 30 học sinh, thầy chỉ có một mà trò
thì quá nhiều, sự liên tưởng, tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy
yếu tố cũng đủ để chúng ta hiểu rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy
nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những giờ
dạy, bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc với
các khoá học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện
tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương qua một số vấn đề, một số thao tác
sau đây:
1. Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể hoặc lời dẫn kết hợp
với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp
học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú. Có
thể ứng dụng công nghệ thông tin trong phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giọng đọc
của tác giả, hoặc nghệ sĩ, một vài hình ảnh minh hoạ hoặc các tài liệu quý hiếm giúp học
sinh hiểu sâu thêm tác phẩm.
Ví dụ:
- Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta có thể dẫn
dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông Hương của Huế ở vẻ đẹp tự nhiên,
văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc “Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp

trình chiếu một số hình ảnh về sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về
dòng Hương.
- -
6
- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn bài hát về biển,
một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu
trong tác phẩm.
- Giảng bài “Đàn ghi ta của Lor – ca” có thể cho học sinh khởi động bằng cách nghe bài
hát Cây đàn ghi ta của Lor – ca để tạo tâm thế và để học sinh cảm nhận được phần nào
về Lor – ca. Phần tìm hiểu về hình tượng Lor - ca có thể trình chiếu một vài hình ảnh
biểu tượng cho văn hóa Tây Ban Nha để học sinh hiểu rõ hơn những hình ảnh mang ý
nghĩa tượng trưng, siêu thực trong bài. Ví dụ: hình ảnh đàn ghi ta, hình ảnh đấu sĩ và bò
tót, hình ảnh áo choàng đỏ gắt, hình ảnh hoa li - la, thiếu nữ di gan…
2. Trong giảng văn, giọng đọc của giáo viên như trên đã nói là rất quan trọng. Với giọng
đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được cái hồn của tác phẩm cho học
sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể thấy mở ra trong tâm trạng, trong cảm
xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội. Đọc đúng, đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công
phu của người thầy. Nhiều đoạn thơ, đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã
có thể mở ra cho trò bao nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải
có trách nhiệm tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản bởi vì
đầu chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương bằng chính
giọng đọc của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay của tác phẩm thông qua
sự ngân vang của nó trong cảm xúc, là yếu tố quan trọng cho học sinh đến được và dần
hiểu tác phẩm văn chương. Một giờ giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ
truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp.
3. Giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp và sử dụng có hiệu quả. Việc
xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ Đọc văn là hết sức cần thiết. Nó sẽ giúp học sinh
tích cực, chủ động tiếp thu, làm chủ kiến thức. Thậm chí, bằng hệ thống câu hỏi có chất
lượng, người thầy có thể khơi gợi sự sáng tạo của các em, làm cho giờ dạy trở nên hấp
dẫn và có hiệu quả hơn rất nhiều.

* Để giúp các em phát huy tính sáng tạo của mình, trong giờ đọc – hiểu tác phẩm, giáo
viên nên xây dựng, sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo. Đây là loại câu hỏi yêu cầu học
sinh phải vận dụng suy nghĩ độc lập, kết hợp với khả năng tư duy chặt chẽ, trên nền tảng
kiến thức đã có để tìm tòi, phát hiện ra cái mới. Loại câu hỏi này mang đặc trưng của
một giờ hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm văn chương. Nó đáp ứng đúng đặc thù của
bộ môn và phân môn, tạo cảm hứng cho cả người dạy lẫn người học. Có thể phân ra
nhiều kiểu nhỏ của dạng câu hỏi sáng tạo:
+ Câu hỏi phân tích: Kiểu câu hỏi phân tích yêu cầu học sinh bám sát các yếu tố của tác
phẩm, đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm.
- -
7
Ví dụ: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến được tác giả tập trung khắc họa ở đoạn
thứ ba trong bài thơ Tây Tiến?
+ Câu hỏi dẫn dắt gợi mở: Đây sẽ là câu hỏi mang lại nhiều hiệu quả và thể hiện rất rõ
khả năng sư phạm của người thầy. Từ những chi tiết cụ thể trong tác phẩm, người thầy sẽ
hướng dẫn học sinh huy động khả năng liên tưởng, tưởng tượng của mình để tự học sinh
sẽ phát hiện ra những điều mới mẻ, khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong
phú từ những gì đã có trong văn bản.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, để chỉ ra được kết cấu nghệ thuật của
bài thơ và thấy được sự tương đồng giữa “sóng” với tâm hồn người phụ nữ đang yêu, có
thể đặt câu hỏi : Giữa sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ như thế nào? Em có nhận
xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng
giữa các trạng thái của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.
+ Câu hỏi nêu vấn đề: Đi-xtec-vec nói rằng: “Người giáo viên bình thường mang chân lí
đến cho học trò. Người giáo viên giỏi biết dạy học trò đi tìm chân lí”. Mà trong thực tế,
chân lí nhiều khi ẩn sau những nghịch lí. Ở mỗi tác phẩm văn chương, đều có những vấn
đề, những mâu thuẫn được đặt ra. Giáo viên giỏi sẽ nắm bắt hoặc tìm cách tạo ra những
tình huống có vấn đề để học sinh chủ động giải quyết.
Ví dụ: Nghệ sĩ Phùng đã chụp bức ảnh con thuyền trên biển sớm mờ sương từ một cự li
rất gần. Hãy lí giải vì sao Nguyễn Minh Châu lại đặt tên cho tác phẩm của mình là

“Chiếc thuyền ngoài xa” ?
*Để phát huy được tính sáng tạo của học sinh, khi xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi
cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Cần khuyến khích được sự tham gia của tất cả các học sinh trong lớp: Trình độ học sinh
trong một lớp học không thể đồng đều. Tâm lí chung của người dạy là hay chú ý đến
những học sinh thông minh, hăng hái. Và câu hỏi cũng thường hướng về những em vốn
được coi là sáng dạ trong lớp. Như vậy, những học sinh trung bình hoặc yếu kém thường
không có cơ hội để trình bày ý kiến. Muốn tránh tình trạng này, giáo viên nên chuẩn bị
nhiều dạng câu hỏi, có dễ, có khó. Những câu hỏi khó, nếu cần phải có cả câu hỏi gợi ý
để khơi mở cho học sinh con đường đến với chân lí.
- Không nên yêu cầu học sinh trả lời hoàn toàn theo ý mình: Tác phẩm văn chương vốn
đa thanh đa nghĩa. Với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, thậm chí với mỗi người đọc trong
những hoàn cảnh khác nhau, nó lại mang những nét nghĩa không hoàn toàn trùng lặp.
Giáo viên cũng là một kiểu người đọc, có thể là người đọc lớn tuổi, có kinh nghiệm sống,
sự trải nghiệm nhiều hơn so với người đọc - học sinh. Nhưng cần chú ý một điều, cách
hiểu của người thầy về văn bản văn học không phải là cách hiểu duy nhất đúng. Vậy cần
- -
8
tránh hiện tượng người dạy cố gắng lái học sinh theo suy nghĩ của mình một cách gò ép,
khiên cưỡng. Điều này vừa phản giáo dục vừa không phù hợp với con đường tiếp cận cái
hay cái đẹp của văn chương phải bằng những rung động thẩm mĩ.
- Biết phân loại các câu trả lời: Đây là những tình huống sư phạm, yêu cầu giáo viên phải
có cách ứng xử hợp lí, khéo léo. Với những câu trả lời hoàn toàn đúng, hãy khích lệ học
sinh bằng một lời khen đúng mức. Các em sẽ cảm thấy tự tin, thậm chí thấy mình đã
thành công. Với những câu trả lời sai, cần nhạy bén tìm ra nguyên nhân khiến học sinh
nhầm lẫn. Nên tiếp tục có định hướng để các em tìm ra câu trả lời đúng. Cũng cần hết sức
quan tâm đến những câu trả lời ngoài dự đoán.Trong một lớp học, giữa những học sinh
bình thường có thể có những em xuất sắc, năng lực cảm thụ vượt trội. Những học sinh
này có thể đưa ra những câu trả lời bất ngờ, thông minh, ngoài tầm dự đoán của giáo
viên, thậm chí còn gợi mở một hướng khái thác mới cho bài học. Người thầy không chỉ

dạy mà còn học được nhiều điều từ những học sinh như thế. Trong trường hợp này, cần
khuyến khích, khen ngợi, tạo cơ hội cho các em được phát triển năng lực của mình.
4. Trong giờ giảng văn, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên còn phải cố
gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác những thói quen cần thiết khi
chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp. Theo tôi đó có thể là những thói quen sau:
- Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để tự cảm nhận tác
phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch chân và ghi lại những đoạn
hay của tác phẩm.
- Thói quen đọc thuộc tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu đoạn mà mình
tâm đắc nhất.
- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác có liên quan đến
những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích tác phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh không máy móc thụ
động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới lạ ở tác phẩm khi cảm nhận nó
qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là phải có sự cảm nhận của riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, đặc trưng thi pháp.
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ giảng văn không chỉ dừng lại ở những
thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách học, cách dạy hợp lý, khoa học,
linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và liên tưởng theo một cách, không phải tác giả
tác phẩm nào cũng một dạng lời bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể
để hướng dẫn học sinh cách cảm thụ, cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu
- -
9
toàn 100% học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì khó mà
đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng đối tượng mà
hướng dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp.
6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ giảng văn, giáo viên nên hướng dẫn
cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp học sẽ giúp học sinh hiểu
đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng thẩm mỹ ở tác phẩm. Muốn vậy, người

thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt, vững vàng lý luận thi pháp trong quá trình giảng
văn.
Ví dụ: - Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ tình hoặc hình
tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh
ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình tượng em; Khi tìm hiểu bài thơ “Đất Nước ”
của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích theo mạch trữ tình- chính luận của nhân vật trữ tình
trong bài thơ).
- Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm giảng bằng thi
pháp cốt truyện, tình tiết ( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài thì phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật; khi tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên
cho dòng sông” hoặc “Người lái đò sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể
loại bút kí, tuỳ bút).
7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, giáo viên cần tích hợp giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học
mới vào giờ đọc văn, như phương pháp thảo luận nhóm, giao dự án, kết hợp kĩ thuật khăn
trải bàn, mảnh ghép,…v v
3. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
Để tiến hành thực nghệm các vấn đề đã nêu ra, tôi xin chọn một bài học cụ thể để minh
hoạ. Nhưng do thời gian và điều kiện cho nên tôi chỉ tóm tắt ngắn gọn tiết học với mục
tiêu tập trung vào việc áp dụng PPDH tích cực.
Tiết 19,20: Tây Tiến
- Quang Dũng -
I/ Mục tiêu bài học:
- -
10
1.Kiến thức: Cảm nhận được vẻ đẹp riêng của thiên nhiên miền Tây và hình ảnh người
lính Tây Tiến trong bài thơ; Nắm được những đặc sắc nghệ thuật: bút pháp lãng mạn,
những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu…
2.Kĩ năng: Rèn kĩ năng phân tích thơ, cảm thụ tác phẩm.
3.Tư tưởng: Giáo dục lòng yêu tn, đất nước; sự trân trọng với những cống hiến của người

lính năm xưa.
II/ Những KNS cơ bản:
1.Giao tiếp: Trình bày, trao đổi về mạch cảm xúc của bài thơ, về giai điệu, hình tượng
người lính Tây Tiến trong bài thơ.
2.Tư duy sáng tạo: phân tích, so sánh, bình luận về vẻ đẹp của bài thơ, về sự thể hiện hình
tượng người lính của bài thơ so với thơ ca CM cùng thời đại.
3.Tự nhận thức về tinh thần yêu nước , ý chí vượt khó của người lính TT, qua đó tự rút ra
bài học cho bản thân.
III/ Chuẩn bị:
GV: SGK, giáo án, tư liệu, hình ảnh minh họa, máy chiếu.
HS : Chuẩn bị bài theo câu hỏi đọc - hiểu.
IV/ Các bước lên lớp:
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra đầu giờ.
3. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học.
HĐ1: Khởi động
GV cho HS nghe đoạn đầu trong bài hát “Đoàn Vệ quốc quân”: Đoàn vệ quốc
quân một lần ra đi. Toàn thắng vinh quang ghi ngày trở về. Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi, ra đi thà chết chớ lui…
Những lời ca đó cho đến nay vẫn còn âm vang mãi trong lòng người đọc…
HĐ2: Tìm hiểu chung
1. Tác giả: …
2. Đơn vị Tây Tiến: …
HĐ3: Đọc văn bản:
1.Đọc và giải thích từ khó.
- -
11
2.Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ:…
3. Bố cục:…
4. Chủ đề:…

HĐ4: Đọc - hiểu văn bản:
*HS lần lượt được tìm hiểu các nội dung:
1. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân
TT:
2.Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng:
a.Những kỉ niệm đẹp trong đêm liên hoan văn nghệ:
*Ở nội dung này, GV chiếu cho HS xem cảnh đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội có sự
tham gia của NDTB (minh họa 1) và ra câu hỏi để HS trả lời:
H. Xem hình ảnh vừa trình chiếu và đọc những câu thơ của QD em hình dung ntn về đêm
liên hoan văn nghệ?
HS trả lời, GV nhận xét và chốt các ý chính:
- Đêm liên hoan hội đuốc hoa: tưng bừng, sôi nổi.
+ Ánh sáng lung linh của đuốc.
+ Âm thanh réo rắt của tiếng khèn.
+ Con người duyên dáng, tình tứ.
- Cảnh tượng đó khiến cho tâm hồn người lính ngây ngất, rạo rực. Thể hiện tình
quân dân thắm thiết.
b.Cảnh sông nước miền Tây thơ mộng:
GV trình chiếu hình ảnh sông nước miền Tây (minh họa 2) và ra câu hỏi:
H. Em hình dung ntn về cảnh sông nước miền Tây qua hình ảnh minh họa và những câu
thơ này?
HS trả lời, GV nhận xét và chốt các ý chính:
- Không gian, thời gian: dòng sông trong một buổi chiều sương .
- Cảnh vật: Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử.
- Con người: Nổi bật lên hình ảnh, dáng điệu mềm mại, uyển chuyển của cô gái
trên chiếc thuyền độc mộc.
- -
12
- Những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên bên dòng nước lũ.
 Gợi cho người đọc một cảm giác mênh mang, mờ ảo về một cảnh đẹp hoang dã, nên

thơ mang đậm hồn xứ sở .
3.Hình ảnh người lính Tây Tiến:
GV trình chiếu hình ảnh người lính, ra câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm bàn. (Tìm
hiểu nội dung + tích hợp giáo dục kĩ năng sống).
H. Hình ảnh người lính TT hiện lên trong bài thơ như thế nào (bề ngoài, dáng vẻ, p/c…)?
Qua sự phân tích em đánh giá như thế nào về hình tượng này, liên hệ về tác dụng giáo
dục đối với thế hệ trẻ ngày nay?
HS thảo luận bàn (3P) trả lời câu hỏi theo sự gợi dẫn của giáo viên, kết hợp liên hệ về tác
dụng giáo dục. GV chốt các ý chính:
*Hình ảnh những người lính TT được hiện lên với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng:
- Bề ngoài: không mọc tóc, xanh màu lá không gợi sự tiều tuỵ mà gợi nên dáng
vẻ oai hùng, dũng mãnh.
- Điều kiện sống, chiến đấu hết sức gian khổ: “áo bào thay chiếu…”
- Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Họ là những chàng trai hào hoa, lãng mạn,lạc quan, yêu đời.
“Mắt trừng….kiều thơm”
+ Có lí tưởng cao đẹp, quyết tâm xả thân vì tổ quốc.
"Rải rác biên cương…
…độc hành"
Tiểu kết: Với bút pháp lãng mạn , hiện thực và giọng điệu trang trọng; với sự kết hợp hài
hoà giữa cái bi và cái hùng, tác giả QD đã xây dựng thành công bức tượng đài nghệ thuật
về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng
4.Lời thề gắn bó của người lính TT:
HĐ5: Kết thúc đọc hiểu:
HĐ6: Củng cố - hướng dẫn học bài:
III. Kết quả thực hiện:
Trong học kì I, năm học 2011 - 2012, tôi đã áp dụng các giải pháp trên trong một số bài
giảng văn ở lớp 12ª1 để không ngừng góp phần rèn luyện, khơi gợi khả năng sáng tạo ở
- -
13

các em học sinh. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy HS đã kích thích được khả năng học
tập sáng tạo, tích cực, chủ động, say mê tìm hiểu kiến thức mới một cách có hiệu quả.
Giờ học sôi nổi, hấp dẫn và có hiệu quả hơn.
Bảng số liệu.
Kết quả
Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm
Số lượng % Số lượng %
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
00
15
14
03
00
46,9%
43,8%
9,3%
01
19
10
02
3,1%
59,4%
31,3%
6,2%
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học tập của học
sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh khá giỏi tăng, học sinh trung bình, yếu giảm
đáng kể. Điều đó cho thấy đề tài bước đầu mang tính khả thi.

PHẦN BA: KẾT LUẬN
Góp phần khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc - hiểu là công
việc thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên ở bộ môn văn các đặc thù
của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm, sự cảm nhận của người học qua người
dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác phẩm. Sự sáng tạo trong văn chương không hề có
sự giống nhau bởi sự liên tưởng, tưởng tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ
giống nhau trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả - người dạy -
người học. Theo tôi để có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học phải có một trường
liên tưởng, một sự tưởng tượng phong phú, linh hoạt để từ đó người dạy có thể đưa người
học vào tác phẩm bằng hệ thống các câu hỏi, bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích và
người học tiếp nhận tác phẩm bằng quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng
cảm nhận được tác phẩm văn chương để lĩnh hội từ người dạy những gì tâm đắc nhất,
đồng thời mở rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Học sinh nhớ nhiều, học nhiều là điều đáng
khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu. Điều chủ yếu là dạy học sinh
cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại cách giảng dạy văn trong trường phổ
thông của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy
- -
14
văn không hay mà việc đào tạo con người cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng
ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của
mình và diễn tả suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy học
sinh biết suy nghĩ sáng tạo trong giờ đọc văn là điều cần thiết. Tôi mong rằng đề tài của
tôi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục nước
nhà. Song đó mới chỉ là ý kiến chủ quan của riêng cá nhân tôi. Vì thế, rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các đồng chí đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
- -
15

×