Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN biện pháp nhằm nâng cao chất lượng văn mieu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.3 KB, 21 trang )

I. THỰC TRẠNG VIẾT VĂN CỦA HỌC SINH LỚP 4-5 TRONG
TRƯỜNG
Như trên đã nói muốn viết được bài văn hay phải có khả năng quan sát
tinh tế , khả năng phát hiện và khả năng cảm nhận. Ngoài ra cần phải có óc
tưởng tượng, kỹ năng dùng từ chính xác, viết câu đúng và có hình ảnh.Tuy
nhiên hiện nay trong khá nhiều bài viết của các em còn rập khuôn theo bài
hướng dẫn tìm ý và dàn ý mẫu của giáo viên. Bài viết của các em còn có
những nét chung giống nhau, thiếu sự sáng tạo và chưa giàu hình ảnh.
Thống kê chất lượng 27 bài kiểm tra Tập làm văn của của học sinh lớp
4A năm học 2009-2010 đề bài" Hãy tả lại một cây mà em thấy thích nhất".
Kết quả như sau:
LỚP
4A

Sĩ số
27

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

0

0

13

48,2

11

40,7

3

11,1

II. NGUYÊN NHÂN
Qua dự giờ thăm lớp và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy kết quả viết
văn của học sinh chưa cao là do các nguyên nhân sau:
1.Về phía giáo viên

- Giáo viên chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu nhiều biện pháp, chưa
thực sự gây được hứng thú, tính tích cực của học sinh.
- Giáo viên thiếu tin tưởng vào HS nên đã hướng dẫn quá kĩ, quá tỉ mỉ
dẫn đến việc HS lười suy nghĩ, lười động não, không huy động khả năng vốn
có của mình khiến cho bài văn trống rỗng thiếu tình cảm của cá nhân và đặc
biệt là không có sự sáng tạo.
- Các phân môn của Tiếng việt và môn học khác chưa thực sự đạt hiệu
quả trong việc trang bị hiểu biết, đặc biệt là phát triển khả năng suy nghĩ và
kỹ năng cho HS.

2.Về phía học sinh
- Coi nhẹ việc quan sát thực tế, chưa chịu khó tưởng tượng.
- Vốn từ ngữ nhiều em còn hạn chế.
- Khả năng tích luỹ kiến thức từ thực tế cuộc sống chưa phong phú.

1


- Chưa biết phối hợp nhiều giác quan khi quan sát.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌCC SINH LỚP 4 -5
1. Trang bị cho HS những kiến thức về văn miêu tả
1.1 Thế nào là miêu tả?
- Miêu tả là dùng lời văn hay nét vẽ mà thể hiện sự vật.
- Văn miêu tả là loại văn căn cứ vào những điều quan sát, ghi chép, cảm
nhận được về đối tượng ( đồ vật, cây cối, loài vật, con người…) dùng ngôn
ngữ để vẽ ra hình ảnh chân thựccủa đối tượng đó, trình bày theo một bố cục
hợp lí và diễn đạt bằng lời văn sinh động, khiến cho người đọc, người nghe
cùng thấy, cùng cảm nhận như mình.
- Đối tượng của văn miêu tả là là những cảnh vật, đồ vật, con vật, cây

cối, con người quen thuộc quen thuộc xung quanh chúng ta...Vì vậy khi miêu
tả cần tập trung tả những nét tiêu biểu của đối tượng miêu tả. Để bài văn được
sinh động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó những câu bình
luận thể những cảm xúc mạnh mẽ khác nhau.
1.2. Cách quan sát khi miêu tả.
- Để có một bài văn chân thực sinh động thì khâu quan sát thực tế
không thể thiếu được.
a) Quan sát theo trình tự nhất định hợp lí
+Quan sát bao quát đối tượng
+ Quan sát từng bộ phận: từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ xa
đến gần,
b) Quan sát bằng nhiều giác quan
+ Mắt để nhìn hình dáng, kích thước, màu sắc,…
+ Tay để sờ, mó, nắn,gõ, đo đạcxem đối tượng mềm, nhẵn hay sù sì,...
+ Tai để nghe âm thanh đối tượng phát ra tiếng động hoặc âm thanh
phát ra từ đối tượng khác liên quan đến đối tượng.
+ Mũi để ngửi hương thơm,mùi,...
+ Lưỡi để nếm các vị ...
c) Quan sát phải đi liền với óc tưởng tượng và sự lựa chọn ngôn ngữ
biểu hiện sao cho toát lên được sự chính xác bản chất sự vật.
d) Khi quan sát cần tập trung tránh phân tán tư tưởng hoặc gò bó. Cảm
nhận đối tượng miêu tả bằng cả tâm hồn, tình cảm của mình.

2


1.3. Ngôn ngữ trong bài văn miêu tả
- Ngôn ngữ trong bài văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh
và có những nét riêng biệt.Do đó khi viết cần lựa chọn từ ngữ gợi cảm có hình
ảnh và mang lại cho đối tượng tả những gì đúng với thực tế vốn có của nó mà

lại phải có những nét khác biệt với những đối tượng khác.
1.4. Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả
Bài văn phải có cấu tạo rõ 3 phần( Mở bài, thân bài, kết bài). Đoạn văn
cũng cần có câu mở đoạn và câu kết đoạn. Giữa các đoạn phải có câu chuyển
đoạn hoặc từ ngữ có tác dụng nối để nối đoạn nọ với đoạn kia.
1.5. Những dạng bài miêu tả
- Tả đồ vật
- Tả con vật.
- Tả cây cối.
- Tả cảnh
- Tả người
2. Mở rộng vốn từ, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc
thẩm mĩ và kỹ năng quan sát, cảm nhận đối tượng miêu tả cho HS qua
các phân môn Tiếng Việt.
Như chúng ta đã biết, muốn làm tốt các bài văn phải có vốn văn học
đáng kể mà ở lứa tuổi nhỏ thì điều này thật không dễ. Nếu HS không có vốn
kiến thức văn học thì bài văn sẽ nghèo nàn, khô khan thiếu hình ảnh. Vì vậy
GV làm sao để các em cảm nhận đối tượng miêu tả một cách tự nhiên, bằng
chính vốn từ ngữ và sự hiểu biết của mình.Công việc này đòi hỏi người GV
phải kiên trì, chịu khó và kiên nhẫn.Chúng ta có thể rèn luyện và bổ sung
những kỹ năng này qua một số phân môn của môn Tiếng Việt. Cụ thể như
sau:
Nội dung các bài Tập làm văn lớp 4-5 thường gắn với các chủ điểm
đang học ở các bài Tập đọc. Quá trình hướng dẫn HS thực hiện các kỹ năng
phân tích đề, quan sát, tìm ý,nói, viết đoạn văn hoặc bài văn là những cơ hội
giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học.Việc
phân tích dàn bài, tìm ý cho đoạn văn...góp phần phát triển năng lực phân tích,
tổng hợp của HS.
Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các
biện pháp so sánh, nhân hoá...khi học văn kể chuyện.

Trong các tiết Tập đọc GV chú ý phần đọc diễn cảm là đã giúp học
sinh tìm hiểu và đặt mình vào tâm trạng nhân vật. Qua việc phát hiện đoạn và

3


tìm hiểu nội dung từng đoạn sẽ giúp HS viết văn có bố cục rõ ràng, biết cách
trình bày bài văn một cách mạch lạc, không lộn xộn.
Trong tiết dạy Luyện từ và câu GV cần quan tâm tới việc mở rộng vốn
từ ngữ giúp HS hiểu kỹ thêm từ theo chủ đề ,hiểu thêm các thành ngữ ,tục ngữ
.Tìm được nhiều và hiểu nghĩa các từ đồng nghĩa,trái nghĩa...Trong các tiết
học về câu GV thường xuyên quan tâm sửa câu văn cho HS sao cho có hình
ảnh.
Ví dụ:
HS viết "Chiếc bút chì của em vỏ ngoài có kẻ sọc."
GV hướng dẫn HS sửa lại là:
Chiếc bút chì của em khoác chiếc áo kẻ sọc tuyệt đẹp.
Hoặc :
Anh bút chì khoác chiếc áo kẻ sọc trên mình trông đĩnh đạc và đáng yêu làm
sao!
*Một số cách sử dụng từ ngữ trong viết văn tả cảnh;
a. Sử dụng từ láy:Từ láy trong tiếng việt thường có giá trị gợi tả, biểu
cảm rất lớn. Chính vì vậy khi sử dụng từ láy trong viết văn tả cảnh sẽ làm cho
người đọc, người nghe cảm thụ và hình dung được một cách cụ thể, tinh tế và
sống động hơn.
Ví dụ : Hương thơm ngào ngạt toả ra từ những bông lúa còn non.
b. Sử dụng tính từ tuyệt đối: Đó là những tính từ chỉ có tiếng thứ nhất
có nghĩa, còn tiếng thứ hai được tạo ra từ các hình tượng có tác dụng chỉ các
sắc thái khác nhau của tính chất do tiếng thứ nhất biểu thị như: đỏ mọng, đặc
sệt, trong suốt...Trong bài văn miêu tả thì tính từ tuyệt đối là yếu tố ngôn ngữ

không thể thiếu bởi vì các sự vật, hiện tượng, hoạt động...chỉ trở nên sinh
động, cụ thể và có hồn khi chúng gắn liền với các đặc diểm, thuộc tính riêng
vốn có của chúng, mà tính từ tuyệt đối lại là từ có khả năng biểu thị những sắc
thái riêng biệt của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Đường vào làng em được rải nhựa phẳng lì, dài hơn năm cây số.
c. Sử dụng biện pháp so sánh:So sánh thể hiện sự nhận thức chính xác,
mới mẻ, gợi những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động thể hiện sâu sắc thái độ, tình
cảm của con người trước đối tượng miêu tảvà làm đẹp ngôn từ của người sử
dụng.Trong văn miêu tả nhờ có so sánh để tạo nên hình ảnh sống động, gợi
hình, gợi cảm tạo ra cách nói mới mẻ, làm cho cách diễn đạt trở nên phong
phú, uyển chuyển, tăng sức mạnh biểu cảm cho lời nói.
Ví dụ:Hoàng hôn dần buông như ai đó rắc những tia nắng cuối cùng
trên mặt biển xanh êm đềm.

4


d. Sử dụng biện pháp nhân hoá: Nhân hoá là biện pháp miêu tả sinh
động, hấp dẫn các sự vật, hiện tượng; thể hiện kín đáo tình cảm, cảm xúc và
cách nói hình ảnh về sự vật, hiện tượng. Nhân hoá trong bài văn miêu tả được
dùng để miêu tả cảnh vật, đồ vật, con vật một cách sống động, có hồn. Sử
dụng biện pháp nhân hoá sẽ tăng thêm sự mềm mại, uyển chuyển, trữ tình
trong diễn đạt.
Ví dụ: Ngày mai thôi, những bông phượng đỏ rực kia sẽ không còn
được khoe với các bạn học sinh cái màu sắc tươi rói của mình nữa.
e. Sử dụng biện pháp ẩn dụ: Ẩn dụ là một phương tiện tu từ có tác dụng
tạo ra những hình ảnh nghệ thuật, gợi nên những cảm xúc lạ lùng cho người
đọc, người nghe bằng những cảm giác về một sự vật nào đó giống như cảm
giác đang trước đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Chao ôi, trông con sông,vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa

dầm.
g. Lựa chọn từ và thay thế từ: Mỗi chi tiết miêu tả, thường chỉ có một từ
ngữ, một hình ảnh thích hợp , nên việc lựa chọn từ ngữ miêu tả cần phải dựa
trên những cơ sở về nội dung cần biểu đạt, sự biểu hiện thái độ, tình cảm của
người viết trước đối tượng cần miêu tả. Đó là việc cần thể hiện chính xác nhất
nội dung cần biểu đạt, thích hợp với việc biểu hịên thái độ, tình cảm của người
viết, phù hợp hơn cả với các từ cùng có mặt trong ngôn bản.
Ví dụ:Nếu viết:Đường làng em vào ngày mùa lúc nào cũng đông vui.
nhộn nhịp. Ta sẽ cảm thấy câu văn chưa có sức thuyết phuc người đọc, người
nghe. Vì vậy cần lựa chọn các từ ngữ để thay thế sao cho câu văn trở nên sinh
động và hấp dẫn hơn.
Ví dụ: "Ngày mùa đến, từ sáng sớm đến tối khuya, trên con đường làng
quen thuộc ấy, lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười nói vui vẻ của các cô, các bác
xã viên."
Như vậy với việc thay thế từ ngữ thích hợp ta đã đưa người đọc, người
nghe đắm chìm trong cảnh ngày mùa thật đông vui, nhộn nhịp.
3. Nâng cao năng lực viết câu bằng việc phân tích và chữa câu sai
Chữa câu sai có tác dụng tích cực đối với việc rèn kỹ năng viết câu đúng cho
học sinh. Theo lí thuyết hoạt động lời nói, giai đoạn cuối của hoạt động sản
sinh lời nói là kiẻm tra kết quả. Phát hiện, phân tích và chữa lỗi trong bài viết
chính là kiểm tra kết quả của quá trình viết . Việc làm này một mặt giúp học
sinh loại bỏ lỗi viết câu trong bài làm của mình, hình thành kĩ năng viết đúng
ở các em; mặt khác , giúp giáo viên nắm được trình độ của học sinh, từ đó có
biện pháp dạy học thích hợp.
3.1. Cách chữa câu sai
5


a. Nguyên tắc chữa câu sai
Một câu sai thường có nhiều cách chữa, nhưng không phải các cách chữa đều

tốt như nhau. Yêu cầu của việc chữa câu sai là phải làm sao cho câu chữa có
nội dung, cấu trúc gần với câu cũ và liên kết tốt với các câu hữu quan. Điều đó
có nghĩa là không được tuỳ tiện thêm bớt từ ngư , đặc biệt là thực từ, bời vì
việc làm này thường kéo theo sự thay đổi về nội dung, thậm chí cả về cấu tạo
câu. Cũng cần tránh thay đổi trật tự từ, bời lẽ việc làm đó có thể khiến cấu trúc
câu thay đổi, và khiến câu không còn liên kết được với các câu khác. Cần gợi
ý để học sinh chữa câu bằng nhiều cách, sau đó đưa từng câu mới hình thành
vào ngữ cảnh và chọn cách chữa có nội dung, cấu trúc gần với câu ban đầu và
liên kết chặt chẽ với các câu khác trong bài nhất.
b. Các bước phân tích lỗi, chữa câu sai
Để việc chữa câu đạt hiệu quả,nên tiến hành thao tác chữa câu theo các
bước chủ yếu sau:
- Phát hiện và phân tích lỗi: Tìm các thành phần chính, phụ trog câu,
xem câu có đúng cấu tạo hay không, phân tích xem nội dung câu có tường
minhvà logíc không, có gắn với mục đích ói, phù hợp với tình huống giaotiếp
hay không, ...
- Phỏng đoán nguyên nhân gây ra lỗi: Do nhầm lẫn các thành phần câu,
do không hiểu nghĩa của từ, do không nắm được cấu trúc câu, do đưa ra cách
nối khẩu ngữ vào văn viết, do không dùng dấu câu hay dùng dấu câu không
đúng quy tắc,..
- Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lỗi để chữa câu sao cho bám sát nội
dungvà cấu trúc câu cũ, đảm bảo liên kết với các câu khác trong bài, vừa tiết
kiệm từ.
3.2.Một số ví dụ về lỗi và cách chữa lỗi viết câu thường gặp trong bài
viết của học sinh
Căn cứ vào cơ chế mắc lỗi và phạm vi lỗi trong lời nói, có thể chia lỗi
viết câu trong bài viết của học sinh thành 2 loại: lỗi trong câu ( lỗi câu rời ) và
lỗi ngoài câu ( lỗi trong văn bản).
Lỗi trong câu có thể được phát hiện và chữa khi câu đứng biệt lập. Kiểu
lỗi này biều hiện thành 2 dạng chủ yếu là lỗi về cấu tạo và lỗi về nội dung.

Một số lỗi về cấu tạo xuất hiện với tần số cao, có cùng cơ chế hình thành , do
vậy có thể quy về những dạng tiêu biểu. Trái lại lỗi về nội dung lại khá phức
tạp và khó đưa về các dạng chung. Theo kết qủa tìm hiểu của tôi, lỗi về nội
dung thường đi kèm với lỗi khác, như lỗi về từ hoặc lỗi về cấu tạo câu, thậm
chí còn là hệ quả của việc dùng từ sai hoặc viết câu không đúng cấu tạo. Với

6


những câu như vậy, việc chữa lỗi dùng từ hay lỗi về cấu tạo câu không đồng
thời cùng giải quyết được các vấn đề về nội dung.
Lỗi ngoài câu là những lỗi chỉ có thể phân tích và chữa được một cách
hiệu quả khi đặt câu trong ngữ cảnh hay tình huống nói năng. Các lỗi này cũng
khá đa dạng, tuy nhiên, có một số lỗi có tần số xuất hiện tương đối cao là sắp
xếp câu không đúng trật tự, dùng từ liên kết không đúng, không dùng dấu câu
hoặc dùng dấu câu không đúng chức năng.
a. Lỗi câu rời
Có hai kiểu lỗi câu rời là lỗi về cấu tạo và lỗi về nội dung. Trong bài
làm của các em, các lỗi về cấu tạo câu chiếm tỉ lệ tương đối cao và có thể quy
về một số dạng phổ biến. Các câu sai thuần tuý về nội dung chiếm tỉ lệ thấp
hơn. Vì câu sai về nội dung rất đa dạng, khó quy về các dạng điển hình nên
việc chữa các câu sai loại này không có hiệu quả" làm mẫu " rõ như chữa câu
sai về cấu tạo.
Từ những nhận xét trên đây, tôi cho rằng, khi hướng dẫn học sinh lớp
4-5 chữa câu sai, trước hết nên chú ý tới các câu sai về cấu tạo. Bởi vì, chỉ cần
chữa một số câu sai cấu tạo điển hình, học sinh có thể theo mẫu mà chữa được
nhiều câu sai tương tự. Mặt khác, do mối quan hệ đi đôi giữa cấu tạo và nội
dung của câu, khi đã hiểu rõ cấu tạo câu, viết được câu đúng cấu tạo ngữ pháp,
học sinh cũng hạn chế bớt những câu " có vấn đề " về nội dung trong bài viết
của mình.

Có 2 loại câu sai cấu tạo là câu thiếu thành phần và câu thừa thành phần
*Câu thiếu thành phần:
Ví dụ1: Trong bài làm làm văn phần kết bài của một học sinh lớp 5 đã
viết: " Qua những việc làm của mẹ cho em thấy mẹ là người giàu lòng nhân
hậu và hết lòng yêu thương con trẻ."
Câu trên rất điển hình cho dạng câu thiếu chủ ngữ do người viết nhầm
trạng ngữ với chủ ngữ. Muốn chữa câu này giáo viên yêu cầu các em xác định
thành phần chính phụ của câu để phát hiện lỗi sai trong câu( thiếu chủ ngữ, chỉ
có trạng ngữ và vị ngữ ). Để câu có đủ thành phần cần bổ sung chủ ngữ, hoặc
"cải tạo" để câu đủ thành phần.Giáo viên có thể giúp học sinh đưa ra cách sửa
như sau:
Cách 1: Tạo nòng cốt mới cho câu để có câu mới như sau: Qua những
việc làm của mẹ, em thấy mẹ là người giàu lòng nhân hậu và hết lòng yêu
thương con trẻ.
Cách 2; Chuyển trạng ngữ thành chủ ngữ để có câu như sau: Những
việc làm của mẹ cho em thấy mẹ là người giàu lòng nhân hậu và hết lòng yêu
thương con trẻ.
7


Ví dụ 2: Trong bài văn tả người, một học sinh viết : " Mẹ em, người
bạn lớn mà vô cùng thân thiết với em."
Trường hợp này cái sai của người viết là mang lối nói không chuẩn mực
của khẩu ngữ vào bút ngữ. Đây là câu giới thiệu thuộc mẫu: " Ai là gì? ". Cách
chữa đơn giản nhát là thêm từ là vào trước "người bạn " để có câu đúng. Cũng
có thể cho rằng nguyên nhân tạo ra c©u sai là do ngườiviết nhầm thành phần
chú thích của chủ ngữ là vị ng÷ của câu. theo cách phân tích này,câu trên chưa
có vị ngữ, và việc cần làm để có câu đúng là thêm cho câu trên một vị ngữ
thích hợp.Có thể giúp học sinh sửa như sau:
Cách 1: Mẹ em là người bạn lớn mà vô cùng thân thiết với em.

Cách 2: Mẹ em, người bạn lớn mà vô cùng thân thiết với em, luôn chỉ
bảo cho em điều hay lẽ phải.
Như vậycó thể nói rằng muốn chữa câu thiếu thành phần, cần phải thêm
thành phần " thiếu" cho câu . ở đây, cần hiểu thao tác "thêm" theo nghĩa rộng:
có thể là bổ sung thành phần câu còn thiếu,hoặc cải biến một thành phần câu
vốn giữ chức năng khác thành thành phần còn thiếu trong câu.
* Câu thừa thành phần:
Không phổ biến bằng câu thiếu thành phần, song cũng không phải là
hiếm trong bài viết của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu gây ra loại lỗi này
cũng là do các em mang thói quen của lời nói miệng vào bài viết.
b. Lỗi câu trong văn bản
Câu sai trong văn bản là những câu để riêng lẻ thì hoàn toàn bình
thường về cấu tạo cũng như về nội dung. tuy nhiên, khi đặt trongbài, trong
đoạn,chúng bộc lộ ' vấn đề"không ổn. Với những câu như vậy,cần xem xét và
chữa câu trong ngữ cảnh.
* Lỗi về trật tự câu
Ví dụ: Trong bài văn tả một con vật mà em yêu thích, một học sinh viết:
" Con mèo nhà em nặng khoảng 1,5 kg. Lông nó màu tro. Em nhớ có một lần,
nó ra vườn chuối, thấy con chuột béo vàng. Nó rón rén, co mình lại nấp vào
gốc chuối. Mắt nó nhìn con chuột rồi bất chợt lao vụt tới chỗ con chuột, trong
giây lát, nó đã tóm gọn con chuột vào miệng.Đầu nó to bằng cái nắm đấm của
em. Mắt nó tròn xoe, rất tinh nghịch."
Nếu đứng riêng lẻ mỗi câu trong đoạn văn trên đều đúng cấu tạo. Tuy
nhiên, khi xem xét cả đoạn, ta thấy có một số câu được sắp xếp theo thứ tự
không hợp lí,lẽ ra phải nêu hết các chi tiết về hình dáng của con mèo rồi mới
miêu tả hoạt động của nó, nhưng người viết đã miêu tả hoạ tđộng khi chưa tả
xong hình thức. Chính cách sắp xếp chi tiết như vậy đã phá vỡ mạch lạc của
bài văn. Với lỗi cụ thể này, giáo viên cần sử dụng câu hỏi gợi mở để học sinh
8



tách riêng những chi tiết nói về hoạt động của con mèo, sau đó hướng dẫn các
em sắp xếp các chi tiết đó theo một trật tự thích hợp, kết quả đúng sẽ là: Con
mèo nhà em nặng khoảng 1,5 kg. Lông nó màu tro. Đầu nó to bằng cái nắm
đấm của em. Mắt nó tròn xoe, rất tinh nghịch. Em nhớ có một lần, nó ra vườn
chuối, thấy con chuột béo vàng. Nó rón rén, co mình lại nấp vào gốc chuối.
Mắt nó nhìn con chuột rồi bất chợt lao vụt tới chỗ con chuột, trong giây lát,
nó đã tóm gọn con chuột vào miệng.
Như vậy, để hạn chế lỗi này, cần chú ý hướng dẫn học sinh biết cách
quan sát, tìm ý, lựa chọnvà sắp xếp ý, lập dàn bài trước khi viết, bởi vì nguyên
nhân sâu xa của lỗi này không thuộc về kỹ năng viết câu, mà thuộc về kĩ năng
lập dàn ý.
*Lỗi về từ liên kết
Khi viét văn, học sinh hay dùng sai từ liên kết, đặc biệt là từ xưng hô
hoặc từ thay thế. Chẳng hạn trong cùng một bài viết lúc xưng em, lúc lại xưng
tôi hoặc mình; có khi thay cho một từ có nội dung số nhiều lại dùng đại từ số
ít và ngược lại
Ví dụ: Trong bài văn miêu tả khu vườn nhà em, một học sinh viết: " Có
không biết bao nhiêu là bướm trắng rủ nhau đến chơi ở vườn cải. Nó hợp
thành từng đàn, bay rập rờn trên cành hoa."
Trong đoạn văn trên học sinh đã sử dụng đại từ số ít để thay thế cho
cụm từ có ý nghĩa số nhiều. Cách sử dụng từ như vậy đã tạo ra logíc trong bài
viết. Với lỗi này cần giúp học sinh phát hiện ra từ thay thế và từ được thay thế
không tương hợp để học sinh lựa chọn lại đại từ số nhiều thích hợp để thế vào
vị trí của từ nó.
*Lỗi về dấu câu
Các lỗi về dấu câu bắt nguồn từ việc học sinh chưa thực sự hiểu đầy đủ
về vai trò, tác dụng của mỗi loại dấu câu. Khi viết bài, có trường hợp học sinh
không hề dùng dấu câu, cũng có trường hợp dùng dấu câu một cách tuỳ tiện.
Điều này làm cho lời nói của các em trở nên rói rắm về cấu tạo và mơ hồ về

nội dung
- Không dùng dấu câu
Ví dụ:Xuân về cây cối trong vườn như có thêm sức sống mới cây nhãn
xanh tuơi mơn mởn bụi chuối đẻ thêm nhiều cây con cô hoa hồng khoe những
bông hoa đỏ thắm chị cúc khoác trên mình chiếc váy vàng rực rỡ ...
Trong đoạn viết trên các mục đích miêu tả không hề được thể hiện, bởi
vì dấu câu hoàn toàn vắng mặt. Chính điều này đoạn văn các em viết trở nên
rối rắm về cấu trúc và tối tăm về lôgíc. Với lỗi này cần hướng dẫn các em xác
định danh giới các ý, sau đó sử dụng dấu câu thích hợp để ngăn cách các ý.
9


- Dùng dấu câu không đúng chức năng: tức là dùng dấu chấm vào chỗ
của dấu phẩy tạo ra câu chỉ có thành phần phụ và không có nòng cốt.
Ví dụ: Để đứng vững trước gió mưa. Cây bàng có những chùm rễ to
khoẻ cắm sâu vào lòng đất.
Với lỗi này giáo viên cần gợi ý để các em thấy quan hệ giữa câu sai và
câu đúng ngay sau đó: Câu sai nêu mục đích của sự việc đựơc nói đến của câu
đứng sau, từ đó các em sẽ phát hiện ra câu sai chính là thành phần trạng ngữ
của câu đứng sau và dấu câu ở đây phải là dấu phẩy.Câu mới là một câu đơn
có trạng ngữ: Để đứng vững trước gió mưa, cây bàng có những chùm rễ to
khoẻ cắm sâu vào lòng đất.
4.Rèn luyện kỹ năng viết văn trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn
ngữ
Sau khi HS đã có kiến thức, có vốn từ ngữ GV tiến hành rèn cho HS kỹ
năng viết văn
4.1.Giúp HS nắm chắc quy trình sản sinh ngôn bản
Khi tạo lập một văn bản văn miêu tả cần qua các bước sau:
- Định hướng văn bản ( Nhận diện văn bản miêu tả; phân tích đề văn
miêu tả)

-Tìm ý và lập dàn ý( xác định dàn ý của bài văn miêu tả đã cho; quan
sát đối tượng;tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả)
- Diễn đạt thành văn bản (Xây dựng đoạn văn miêu tả; liên kết các đoạn
văn thành bài văn miêu tả)
- Kiểm tra, sửa chữa văn bản( đối chiếu văn bản miêu tả nói, viết của
bản thânvới mục đích và yêu cầu diễn đạt; sửa lỗi về nội dung và hình thức
diễn đạt)
4.2.Rèn luyện tạo mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng
ở lớp 4 HS đã được làm quen với dạng mở bài gián tiếp và kết bài mở
rộng.Dạng này nếu HS biết viết thì sẽ rất hay ,có khả năng lôi cuốn người
đọc .Vì vậy GV nên khuyến khích HS viết mở bài ,kết bài theo dạng này
.Muốn vậy GV cần hướng dẫn HS làm quen dần với dạng này bằng phương
pháp rèn luyện theo mẫu trong phần Tập làm văn miêu tả bằng cách :
+GV giới thiệu một bài văn miêu tả có mở bài gián tiếp hoặc kết bài
mở rộng.
+Phân tích mẫu.
- GV dùng câu hỏi : Đoạn nào là đoạn mở bài hoặc kết thúc bài văn để
HS nhận biết đoạn mở bài gián tiếp hoặc kết bài mở rộng.

10


- GV dùng câu hỏi: Câu nói về cái gì?để giúp HS nhận ra từng ý trong
mở bài hoặc kết bài, sau đó GV ghi từng ý lên bảng .
+HS thực hành viết đoạn mở bài gián tiếp hoặc kết bài mở rộng cho
một bài văn miêu tả đã học .
- HS viết từng ý .
- HS đổi vở cho nhau để hoàn thiện.
+Kiểm tra đánh giá kết quả .
- Từng HS đọc mở bài gián tiếp hoặc kết bài mở rộng cho các bạn

trong nhóm (lớp) nghe.
- GV hướng dẫn ,đánh giá từng đoạn theo các yêu cầu:có ý nào,thiếu ý
nào ,có ý nào hay,có câu nào viết sai ....
- Từng HS tự sửa đoạn viết của mình và chép đoạn văn đã sửa vào vở
+Khi HS đã biết viết đoạn mở bài gián tiếp hoặc kết bài mở rộng GV
yêu cầu HS viết đoạn mở bài gián tiếp hoặc kết bài mở rộng cho một đề văn
bất kỳ rồi cũng tổ chức sửa như vậy cho đến khi HS nắm được cách viết một
cách thành thạo
*Một vài cách mở bài thường gặp
+Mở bài bài bằng cách giới thiệu
Theo cách này ,chúng ta đề cập trực tiếp đến đối tượng.
Ví dụ1:Hãy tả một học sinh gương mẫu trong lớp em.
Một HS mở bài như sau:Trong lớp em ai cũng khen Minh là người vừa
học giỏi lại vừa dễ mến.
Ví dụ 2:Hãy tả quang cảnh một buổi lễ chào cờ đầu tuần ở trường em.
Với đề bài này 1 HS khác viết:Như thường lệ , cứ đến sáng thứ hai là
trường em tổ chức lễ chào cờ đầu tuần.
+Mở bài bằng cách nêu lí do
Với cách này,chúng ta nêu rõ nguyên nhân dịp nào đó mà ta bắt gặp đối
tượng.
Ví dụ 1:Hãy tả một nữ y tá đang chăm sóc cho người bệnh
MB:Hôm qua, em theo mẹ vào thăm dì Lan đang nằm viện, em mới có
dịp gặp cô Hoa, một nữ y tá của bệnh viện huyện.
+Mở bài bằng cách bất chợt
Đây là cách mở bài bất chợt dùng một ân thanh, một tiếng động nào
đó...khiến người đọc phải chú ý đến đối tượng.
11


Ví dụ:Hãy tả lại một chú thương binh

MB:Lộc cộc! lộc cộc!Nghe tiếng động tôi quay lại nhìn.Một chú thương
binh đang lê đôi nạng gỗ nặng nề đi tới.Tôi xúc động nhìn chú.
Ví dụ 2: Hãy tả lại cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờ ra
chơi.
MB:Tùng! Tùng! Tùng!
Tiếng trống báo hiệu giờ ra chơi, khiến cả lớp bồn chồn.Thầy thông
báo giờ học đã kết thúc, chúng em ùa ra khỏi lớp như bầy ong vỡ tổ.
+Mở bài bắt đầu từ một đoạn văn hay một câu thơ
Cách mở bài này rất hay, gây ấn tượng mạnh cho người đọc song lại rất
khó.Sau khi dẫn đoạn văn hay câu thơ ra người đọc phải khéo léo dẫn dắt đến
đối tượng.
Ví dụ :Hãy tả lại một dòng sông quê em..
MB:

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Với nhà thơ Đỗ Trung Quân quê là con đường quen thuộc, là cây khế
sau nhà .Còn với tôi quê hương là những buổi chiều được thả diều trên những
triền đê, đặc biệt là được ngâm mình trong dòng nước mát của dòng sông
quê hương - dòng sông kỉ niệm.
*Một vài cách kết bài thường gặp
+Kết bài bằng cách nêu cảm tưởng, suy nghĩ
Sau khi đã hoàn thành phần thân bài kết bài nêu trực tiếp những cảm
tưởng,suy nghĩ thực sự của mình đối với đối tượng đã được đề cập ở thân bài
Ví dụ :Hãy tả lại hình dáng và tính tình của một người thân.
KB:Mẹ đối với em là tất cả trên đời. Cho nên lúc nào em cũng yêu kính
mẹ.Em sẽ luôn cố gắng học tập thật giỏi và nghe lời chỉ dạy của mẹ để mẹ vui

lòng.
+Kết bài bằng cách nêu mơ ước và những việc làm trong tương lai
VD: Hãy tả lại dòng sông quê hương
KB: Với em dòng sông luôn nhân hậu, hiền hoà mang dòng nước mát
cho cây cối ruộng đồng luôn xanh tốt.Em mong sau này lớn lên sẽ xây một

12


cây cầu thật đẹp bắc qua sông để mỗi chiều hè được đứng trên cầu ngắm nhìn
hoàng hôn tuyệt đẹp ngay trên chính quê hương mình.
4.3.Rèn luyện tạo lập đoạn văn
- Sau khi đã rèn cho HS cách viết mở bài, kết bài GV chú ý rèn cho HS
kỹ năng tạo lập một đoạn văn bằng cách :
+Đọc cho HS nghe những bài văn mẫu .
+Phân tích cho HS thấy cái hay của đoạn văn từ cách dùng từ ,đặt câu
cho đến việc lựa chọn chi tiết ,hình ảnh ,cách sử dụng các biện pháp so sánh ,
nhân... hoá khi viết .
+HS thực hành viết một đoạn văn dựa trên những điều vừa học được .
+HS đọc bài viết của mình cho nhóm (cả lớp) nghe.
+ GV hướng dẫn ,đánh giá từng đoạn theo các yêu cầu:có chi tiết nào
tiêu biểu,đặc sắc ,có ý nào hay, đã sử dụng được những biện pháp tu từ nào,có
câu nào viết sai ....
+Từng HS tự sửa đoạn viết của mình và chép đoạn văn đã sửa vào vở.
Thông qua việc luyện tập các kỹ năng trên, HS biết cách tạo lập một
văn bản miêu tả hoàn chỉnh theo từng công đoạn một cách chắc chắn.Việc rèn
luyện rất cụ thể về kỹ năng giúp cho HS chủ động, tự tin khi tạo lập bài văn
miêu tả hoàn chỉnh, tránh được tình trạng viết văn sơ sài, theo cảm tính hoặc
sao chép bài văn của người khác.
5.Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu đề

ở lớp 4-5, học sinh được tập làm văn miêu tả theo những đề bài cho trước với
những yêu cầu nhất định.Tìm hiểu đề là kỹ năng không thể thiếu mà học sinh
phải tiến hành trongquá trình làm bài. Kĩ năng này có vai trò định hướng khái
quát, quyết định bài văn đúng hay sai, đúng toàn bộ hay chỉ đúng một phần
yêu càu của đề bài. Trong quá trình tìm hiểu đề văn miêu tả, ngưòi viết cần
xác định rõ những yêu cầu về đối tượng miêu tả,mục đích miêu tả, trọng tâm
miêu tả và đối tượng tiếp nhận bài văn miêu tả. Những yêu cầu này có thể
đuợc đề bài nêu ra một cách trực tiếp, đầy đủ, rõ ràng, tường minh, hoặc thể
hiện một cách gián tiếp, không đầy đủ. Vì thế, giáo viên cần có những biện
pháp thích hợp nhằm giúp học sinh rèn kỹ năng tìm hiểu đề, nghĩa là giúp học
sinh biết cách xác định đúng, đủ các yêu cầu nói trên, tránh đuợc sự lúng túng
trong quá trình triển khai bài viết, dẫn đến viết xa đề, lạc đề.
5.1 Xác định đối tượng miêu tả
Xác định đối tượng miêu tả nghĩa là học sinh phải trả lời được câu hỏi"
Bài văn miêu tả cái gì? " ( hoặc vật gì?, cây gì? , con gì?, cảnh gì?, người nào?
,...). Cũng chính nhờ xác định được đối tượng miêu tả mà học sinh xác định
13


chính xác kiểu bài miêu tả cần viết ( Tả đồ vật hay cây cối, con vật, cảnh
vât,người, ...)
Việc xác định đối tượng miêu tả tùy thuộc vào phạm vi của đề bài. Đối
với những đề bài quy định cụ thể đối tượng miêu tả, học sinh dễ dàng xác định
được đối tượng miêu tả. Nhưng cũng có những đề bài mà người viết có quyền
lựa chọn một trong những đối tượng miêu tả cho truớc. hoặc cũng có đề bài
cho phép người viết lựa chọn đối tượng miêu tả tuỳ theo sở thích, hiểu biết, ý
muốn cá nhân. Với những đề bài thuộc loại này , giáo viên cần dùng câu hỏi
gợi ý giúp học sinh có sựu định hướng khi lựa chọn đối tượng miêu tả, tránh
lựa chọn đối tượng miêu tả theo ý muốn chủ quan, nhất thời. Giáo viên cần
hướng học sinh lựa chọn những đối tượng miêu tả đã được quan sát kỹ,có tình

cảm hoặc ấn tượng sâu sắc.
5.2 Xác định mục đích miêu tả
Tuỳ theo từng đề bài, tuỳ theo ý định của người viết mỗi bài văn có
những mục đích miêu tả khác nhau
Trong một số đề bài, mục đích miêu tả có thể được thể hiện qua yêú tố
ngôn ngữ như: " thích nhất", "kính trọng nhất", "gần gũi, gắn bó nhất", ... hoặc
thể hiện bằng một " mệnh lệnh ", ví dụ : " Hãy tả cái trống truờng em và nói
lên cảm xúc của em khi nghe tiếng trống trường ". Trong một số đề bài khác,
thái độ, cảm xúc, ....khi miêu tả chủ yếu phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
người viết. Với những đề bài này, giáo viên cần hướng học sinh đến những
cảm xúc,tình cảm, tươi đẹp, tích cực. Chẳng hạn, với đồ vật là tình cảm gắn
bó, thân thiết; với loài vật hoặc cây cối là sự chăm sóc, tình cảm yêu mến; với
cảnh vật là cảm xúc gắn liền với từng cảnh; với con người là lòng biết ơn, quí
trọng hoặc thân mật, yêu mến, ...
Để giúp học sinh xác định mục đích miêu tả cho bài văn của mình, cần
có những bài tập từ dễ đến khó,từ đơn giản đến phức tạp.Cần giúp học sinh trả
lời được câu hỏi" Miêu tả để làm gì?". Việc trả lời được các câu hỏi này bao
gồm các nội dung: Miêu tả nhằm đem tới cho người đọc thông tin gì?. Miêu tả
thể hiện thái độ, tình cảm như thế nào? Miêu tả nhằm thể hiện mong muốn gì
của người viết đối với người đọc?...
5.3 Xác định yêu cầu về trọng tâm miêu tả
Trong qúa trình tìm hiểu đề, việc xác định trọng tâm miêu tả luôn gắn
liền với xác định phương hướng làm bài, bởi vì trọng tâm miêu tả sẽ giúp
người làm bài phác hoạ được những ý chính sẽ triển khai, khiến bài viết không
sa vào liệt kê cho hết, cho đủ các đặc điểm của đối tương miêu tả. Với những
đề bài đã rõ trọng tâm miêu tả thì vấn đề thật đơn giản.
Ví dụ: " Hãy tả hình dáng của một con vật mà em yêu thích", học sinh
có thể xác định được ngay trọng tâm miêu tả là tập trung vào hình dáng của
14



con vật được tả. Tuy nhiên, rất nhiều đề bài chỉ nêu đối tượng miêu tầm không
nêu cụ thể trọng tâm miêu tả. Hay nói cách khác là trọng tâm miêu tả không
được thể hiện bằng những yếu tố ngôn ngữ cụ thể , do đó người làm bài cần
suy nghĩ, cân nhắc để xác định trọng tâm miêu tả.
Ví dụ: "Hãy tả một đồ vật trong nhà của em"
Nhìn chung, trọng tâm miêu tả trong những đề bài thuộc loại này
thường là những đặc điểm nổi bật giúp khắc hoạ đối tượng một cánh rõ nét,
hoặc có thể là những đặc điểm mang dấu hiệu đặc trưng của đối tượng gây cho
người viết nhiều ấn tượng, nhiều cảm xúc nhất. Bên cạnh đó, có thể giúp học
sinh xác định trọng tâm miêu tả dựa vào một số cơ sở nhất định, trước hết là
dựa vào kiểu bài văn miêu tả. Bởi mỗi kiểu bài văn miêu tả trong chương trình
Tiểu học bên cạnh những đặc điểm chung còn có những đặc điểm riêng. Vì
thế, cũng có những căn cứ riêng để dễ dàng xác định trọng tâm miêu tả.
Nhìn chung, xác định trọng tâm của bài văn miêu tả là một vấn đề
tương đối rộng, phức tạp đôi khi trừu tượng, phụ thuộc vào cảm nhận, ý thích
chủ quan của người viết. Đối với học sinh 4-5, do vốn hiểu biết, vốn sống còn
hạn chế nên nếu đề bài không nêu rõ trọng tâm miêu tả, chắc chắn các em sẽ
lúng túng khi phải xác định trọng tâm bài viết của mình. Do đó, để giảm bớt
khó khăn này,cần có những câu hỏi, bài tập giúp các em xác định đúng trọng
tâm miêu tả, cũng chính là xác định phạm vi, giới hạn miêu tả nhằm trả lời
cho các câu hỏi: Miêu tả những gì? Miêu đến đâu? Những điểm nào là quan
trọng cần phải tập trung miêu tả ? Những điểm nào là thứ yếu chỉ cần tả sơ
qua?...
5.4 Xác định đối tượng tiếp nhận bài văn miêu tả
Đối tượng giao tiếp ( còn gọi là đối tượng tiếp nhận") là một nhân tố để
lại dấu ấn đậm nét trong bài văn. Phần lớn các đề văn miêu tả ở 4-5 dường
như không đề cập đến đối tượng tiếp nhận. Vì thế các em đều tự xác định:
Viết bài văn là cho thầy ( cô ) giáo của mình. Đây là đối tượng tiếp nhận
(được mặc định truớc) gần như duy nhất của các em. Rõ ràng xác định đối

tượng tiếp nhận "đóng khung " như thế với một kiểu bài thuộc loại sáng tác
như văn miêu tả là không phù hợp, là cứng nhắc, chật hẹp. Từ đó dẫn đến tình
trạng lời lẽ trong bài viết của các em cũng trở nên khô khan, dập khuôn, thậm
chí na ná như nhau. Và ở một góc độ nào đó, chính việc ra đề như vậy đã làm
mất đi phần nào sự sinh động, hồn nhiên của các em khi viết văn miêu tả.
Việc xác định đối tượng giao tiếp có vai trò quan trọng trong việc tổ
chức ngôn bản, tổ chức bài văn miêu tả của học sinh. Do đó, khi xác định yêu
cầu của bài viết, chúng ta cần giúp học sinh xác định đối tượng giao tiếp của
bài văn ( có thể chỉ là đối tượng giao tiếp được giả định) . Muốn học sinh dễ

15


dànglàm được điều này,chúng ta có thể ra những đề bài vừa rõ yêu cầu về mục
đích giao tiếp vừa rõ yêu cầu về đối tượng giao tiếp.
Ví dụ : Đề bài " Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp. Em hãy tả lại
một cảnh đẹp mà em yêu thích hơn cả cho một người bạn ( hoặc một người
thân ) của em từ nơi khác đến thăm quê em"
Tóm lại, tìm hiểu đề nhấmc định yêu cầu của bài viết là kỹ năng không
thể thiếu khi học sinh viết văn miêu tả. Việc rèn luyện tốt kỹ năng náỹe có ảnh
hưởng đến kết quả của các kĩ năng tiếp theo.
* Một số thao tác cần chú ý khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề:
- Đọc kỹ đề bài bước đầu nhận thức sơ bộ về nội dung, yêu cầu miêu tả.
- Gạch chân những từ ngữ quan trọng trong đề bài.
- Trả lời các câu hỏi để xác định yêu cầu của đề như: Đề bài thuộc kiểu
văn miêu tả nào? Đối tượng miêu tả của bài viết là gì? Mục đích viết bài văn
miêu tả để làm gì? Bài viết sẽ tập trung miêu tả những đặc điểm chủ yếu nào
của đối tượng? Vì sao lại tập trung miêu tả những đặc điểm đó? Bài viết
hướng tới người đọc là ai? Từ ngữ xưng hô được sử dụng trong bài viết là gì?.
Cần lưu ý điểm gì khi sử dụng ngôn ngữ trong bài văn miêu tả?

Việc thực hiện các thao tác trên trong quá trình tìm hiểu đề sẽ giúp học
sinh có hiểu biết đầy đủ về văn miêu tả, từ đó có hứng thú hơn khi viết bài và
phát huy cao nhất khả năng sáng tạo trong bài văn.
6. Rèn luyện các kỹ năng viết văn thông qua hệ thống bài tập
Các bài tập trong sách TV4, TV5 khá phong phú về hình thức vàhấp
dẫn về nội dung.Trong một tiết học văn miêu tả HS được rèn luyện từ 2 đến 4
bài tập.Các bài tập được sắp xếp để hình thành kỹ năng từ dễ đến khó, từ thấp
đến cao. Sách TV 4,TV5 dành khá nhiều bài tập,yêu cầu HS phân tích đoạn
văn, bài văn miêu tả mẫu.Những bài tập này không chỉ giúp các emhọc tập
cách quan sát, tìm ýchọn từ, đặt câu, viết đoạn...của tác giả mà còn tạo cơ sở
cho HS làm các bài tập tiếp theo.
Ví dụ:Tiết Tập làm văn Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây
cối( TV4-Tuần 23)có 2 bài tập.Sau khi làm bài tập 1-Đọc một số đoạn văn
miêu tả hoa, quả dưới đây và nêu nhận xét về cách miêu tả của tác giả. Khi
hướng dẫn HS làm bài tập này GV phải hướng dẫn HS nắm được cách miêu tả
của tác giả. Đó là:Khi tả hoa tác giả đã tập trung miêu tả mùi thơm đặc biệt
bằng cách so sánh với mùi hương của một số loài hoa khác. Khi tả quả giả tả
từ khi hoa rụng đến khi kết quả, từ khi quả xanh đến khi quả chín..Tác giả
cũng đã chú ý thể hiện tình cảm, trong quá trình miêu tả kết hợp với việc so
sánh, sử dụng hình ảnh nhân hoá.Từ việc HS nắm chắc cách miêu tả của bài
tập 1 sẽ làm tốt bài tập 2 -Viết một đoạn văn tả mộ loài hoa hoặc một thứ quả
16


mà em yêu thích. Ngoài ra cách giao nhiệm vụ cho các em cũng không nên
chung chung mà phải hết sức cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho HS làm bài tập
đúng hướng.Trước khi làm yêu cầu HS đọc kỹ gợi ý và những chỉ dẫn chi tiết
ở dưới bài tập.
Ví dụ:Hãy quan sát kỹ chiếc cặp của em hoặc của bạn em và viết một
đoạn văn miêu tả hình dáng bên ngoài của chiếc cặp đó.

Gợi ý:
a)Tả bao quát mặt ngoài;Chiếc cặp làm bằng gì?Kích cỡ như thế nào?
Cặp có màu gì?Trang trí như thế nào?
b)Tả chi tiét quai xách hoặc dây đeo: Quai xách(dây đeo0 làm bằng gì?
Trông như thế nào?đường khâu xung quanh mép ra sao?
c)Tả chi tiết khoá cặp:Khoá cặp làm bằng gì? Trông như thế nào?
Đóng mở khoá như thế nào?( TV4-T17)
Bên cạnh đó giáo viên luôn phải hình thành cho HS cách nói, cách nghĩ,
cách làm linh hoạt,tránh sự đơn điệu, nhàm chán bằng cách động viên các em
lựa chọn những yêu cầu của bài tập phù hợp với khả năng của chính mình,
chọn những đối tượng miêu tả gần gũi đã từng gắn bó với bản thân.Khi HS
chọn đúng đối tượng miêu tả GV gợi ý mở ra cho các em nhiều hướng suy
nghĩ, nhiều cách cảm thụ. Tạo điều kiện để các em bộc lộ cái riêng, cái mới
trong khi miêu tả, phát huy tính tích cực, chủ động,sáng tạo của mình trong
học tập.
7. Phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết trả bài
Để tránh tình trạng khi trả bài, học sinh chỉ quan tâm đến điểm mà
không chú ý đến lời phê của giáo viên và các lỗi trong bài làm của mình, tôi tự
thiết kế và phát cho mỗi học sinh một phiếu tự đánh giá để các em hoạt động
trên lớp.
Ví dụ : Với loại bài tả con vật,đề bài : Tả con vật mà em yêu thích(Lớp
5 tuần 30), tôi đưa ra phiếu đánh giá như sau:
Em tự đánh giá về bài làm của mình theo các yêu cầu sau bằng cách
khoanh vào chữ cái đặt truớc ý em chọn hoặc viết vào chỗ trống sau mỗi câu
hỏi:
Câu 1: Bài làm đã đủ 3 phần mở bài, thân bài, kết bà chưa?
a. Đủ
b. Chưa đủ ( thiếu phần ....)
Câu 2: Phần mở bài có giới thiệu về con vật định tả không?
a. Có


b. Không

17


Câu 3: Phần thân bàic ó tả các đặc điểm về hình dáng của con vật
không?
a. có

b. Không

* Nếu có tả các đặc điểm của con vật thì em đ• tả được:
+ Nhiều đặc điểm , đó là các đặc điểm về:.....
+ Một vài đặc điểm, đó là các đặc điểm về: ...
Phần thân bài có tả hoạt đọng của con vật không?
a.có

b. Không

* Nếu tả hoạt độngc của con vật thì em đã tả được:
+Nhiều hoạt động , đó là các hoạt động:.....
+ Một vài hoạt động, đó là các hoạt động : ...
Câu 4: Phần kết bài:
- Có nêu được lợi ích của con vật không?
a.Có

b. Không

- Có nêu được tình cảm yêu quý của em đối với con vật đó không?

a. Có

b. Không

Câu 5: Bài làm có dùng các biện pháp so sánh, nhân hoá , ...để tả con
vật không?
a. Có

b. Không

- Nếu có , em dùng ở câu nào? ( Câu .........)
- Em thích nhất hình ảnh nào trong bài đã viết? ( Thích nhất hình
ảnh:.......)
Câu 6: Cách chuyển ý giữa các đoạn thế nào?
a. Tốt

b. Chưa tốt

Câu 7: Ghi lại số lỗi trong bài làm ( Nếu có ) và nêu cách sửa
Các loại lỗi

Lỗi

Cách sửa

Lỗi dùng từ
Lỗi đặt câu
Lỗi chính tả
Các lỗi khác


18


Câu 8: Theo em, để bài sau viết tốt hơn em cần rút kinh nghiệm về điều
gì?...
Sau khi học sinh tự chữa lỗi cá nhân và viết phiếu đánh giá, tôi hướng
dẫn học sinh làm việc theo nhóm đôi để kiểm tra, giúp đỡ lẫn nhau. ở hoạt
động này, tôi yêu cầu học sinh đọc bài văn của bạn, khuyến khích các em phát
hiện thêm những điểm hay hoặc chưa hay mà cô giáo và các bạn chưa phát
hiện ra. Từng cặp thống nhất cách chữa lỗi,nếu chỗ nào chưa nhất trí mời giáo
viên làm trọng tài xác định kết quả đúng.
IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Kiến thức về tìm ý, viết văn các em đã được cung cấp và bồi dưỡng
nhưng việc vận dụng nó là cả một quá trình rèn luyện, học hỏi, tích luỹ. Để
vận dụng được một cách linh hoạt trong mọi trường hợp thật không phải dễ .
Trong thực tế, Tập làm văn ở chương trình mới có nhiều ưu điểm. Nhưng đối
với các em, đó vẫn là một kiến thức khó. Trước thực trạng đó, tôi đã quyết
định đi sâu và mạnh dạn áp dụng cách dạy học trên và giảng dạy cho học sinh
lớp tôi chủ nhiệm từ năm học 2007- 2008. Năm học 2008-2009, 2009-2010 tôi
tiếp tục áp dụng dạy các em. Đến cuối năm học 2009- 2010 và giữa Kỳ II năm
học 2010 - 2011 tôi tiếp tục bổ sung và tiếp tục áp dụng những kinh nghiệm
này vào giảng dạy. Đến nay, học sinh lớp tôi viết câu, đoạn hay bài văn hầu
hết không còn lúng túng . Nhiều HS đã có những bài viết hay, thể hiện cảm
xúc. Chất lượng của các bài tập làm văn được nâng cao rõ rệt. Để thấy hiệu
quả của nó, tôi đã ra đề kiểm tra ở các khối lớp tôi giảng dạy trong nhiều năm
và thu được kết quả như sau:
Đề bài 1:Tả lại một cây ăn quả hoặc cây có bóng mát
Kết quả thu được là:
+ Năm học 2007 - 2008
Lớp


Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4

13,8


14

48,3

11

37,9

0

0

Đề bài 2:Tả một cảnh sông nước nơi em ở.
Kết quả thu được là:
+ Năm học 2008 - 2009
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL

Khá
%

SL

19


TB
%

SL

Yếu
%

SL

%


5

17,2

14

48,3

10

34,
5

0

0


+ Năm học 2009 - 2010
Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4


20

10

50

6

30

0

0

+ Năm học 2010 - 2011
Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

6

22,2

14

51,9

7

25,9

0

0


Như vậy cách dạy của tôi đã có tác dụng tốt .ở những lớp do tôi phụ
trách các em đã có những bài văn hay,có cảm xúc, sáng tạo và đa dạng.Cách
diễn đạt trôi chảy, bài văn có nhiều hình ảnh so sánh, nhân hoá.Điển hình như
bài viết của em Phạm Thị Phương Linh, Phạm Minh Hiển, Phạm Thị Thuỳ,
Vũ Thu Trang, Phạm Đức Hoàng, Lê Thị Lan, Nguyễn Huyền Trang, Phạm
Văn Thắng ..
Với đề bài : Tả lại một cảnh sông nước nơi em ở. Bài viết của em Phạm
Thị Phương Linh có đoạn:"...Khi mặt trời vén màn mây bạc bước ra chiếu
những tia nắng đầu tiên thì cũng là lúc dòng sông khoác trên mình một bộ váy
lung linh dát bạc.Xa xa, từng đám bèo nhởn nhơ dong chơi.Một vài chú chim
chao lên, lượn xuống như tìm kiếm cái gì.Mặt sông đang yên tĩnh bỗng náo
nhiệt bởi những con thuyền chở cát kéo những hồi còi dài.Từng đợt sóng nối
đuôi nhau dập dềnh như đùa giỡn với thân tàu...". Còn em Thuỳ lại có một
cách nhìn khác hẳn "...Dòng sông quê em không rộng lắm nhưng chảy dài vô
tận.Nước sông màu đỏ gạch chứ không trong xanh. Nhưng chính cái màu đỏ
gạch đó đã bồi đắp lên những dải đất màu mỡ để có những bãi mía, nương
ngô chạy dài tạo lên một màu xanh bất tận hai bên bờ....".Đọc bài viết của em
Thắng ta lại thấy cả một thế giới tuổi thơ của em trong đó:"...Chiều hè nào tôi
cũng theo anh Hùng ra bờ để thả diều .Vì thế mà dòng sông trở nên vô cùng
quen thuộc đối với tôi.Sông như con rắn khổng lồ lúc hiền hoà, khi tức
giận .Nhưng với tôi sông lúc nào cũng đẹp. Khi hiền hoà nước sông trong
xanh .Những làn sóng lăn tăn nối đuôi nhau đùa giỡn. Chúng tôi bảo nhau
rằng lúc đó sông đang gõ nhịp để chuẩn bị hát ca. Khi sông tức giận ai nhìn

20


cũng phải sợ . Sóng cuồn cuôn vỗ bờ như thách thức con người .Nước đục
ngầu chảy xiết..."
Như vậy để viết được một bài văn miêu tả hay là tương đối khó nhưng

nếu giáo viên biết cách tổ chức khai thác hợp lí thì học sinh sẽ viết được
những bài văn hay giàu hình ảnh, chân thực và gợi cảm.

21



×