Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC NHẰM GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.11 KB, 14 trang )

1

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC NHẰM GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP
3
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chương trình sách giáo khoa mới qui định dạy đủ 6 môn trong đó mỗi môn điều có tầm quan
trọng riêng của nó. Thông qua quá trình dạy học các phân môn để hình thành cơ sở ban đầu về
phát triển con người toàn diện cho học sinh. Cùng với môn Tiếng Việt, Đạo đức, Tự Nhiên Xã
Hội, Nghệ thuật, môn Toán có vị trí quan trong vì:
– Việc thay sách Toán Tiểu học là một yêu cầu khách quan thì việc đổi mới phương pháp
giảng dạy là điều không thể chậm trễ. Song việc đổi mới như thế nào, bắt đầu từ đâu, người
thực hiện ra sao thì quả là không dễ dàng chút nào. Muốn làm được việc đó phải dày công
nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo. Mà trước hết là người giáo viên giảng dạy. Thấm nhuần tinh thần
đó, thời gian qua bản thân tôi đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, chủ động nắm bắt để giảng
dạy kết quả. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là thành công bước đầu.
– Chuẩn kiến thức, kĩ năng là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt
được sau từng giai đoạn học tập. Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán đối với từng lớp ở tiểu
học đã được quy định tại Chương trình sách giáo dục phổ thông cấp Tiểu học ( ban hành kèm
theo Quyết định số 16/ 2006 QĐ-BGDDT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo).
– Bên cạnh đó Toán là một môn có vị trí và nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi lẽ Toán học
không những cung cấp cho học sinh những kiến thức kỹ năng cần thiết để học lên các lớp trên
hay áp dụng vào cuộc sống, mà toán học còn góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân
cách ở học sinh, và hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu giáo dục toàn diện cho các em.
– Mặt khác, trong trường tiểu học hịên nay, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán là môn có
thời lượng giảng dạy cao hơn hẳn các môn học khác. Điều đó cho thấy môn Toán hết sức quan
trọng trong việc dạy học.
– Đặc biệt đối với lớp 3 năm nay là năm thứ sáu thực nghiệm dạy theo chương trình sách giáo
khoa mới.
– Vì vậy, để giúp học sinh nắm vững kiến thức kĩ năng làm nền tảng cho việc học tốt môn


Toán là một vấn đề hết sức quan trọng đòi hỏi người làm công tác giáo dục phải nghiên cứu,
tìm những biện pháp giảng dạy hay, giúp học sinh dễ hiểu, phù hợp để hình thành kiến thức, kĩ
năng nhằm giúp học sinh học tốt môn toán.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh học tốt môn Toán, để giải được các bài toán trong
chương trình đổi mới sách giáo khoa Toán lớp 3.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
– Tìm hiểu về nội dung qui định Chương trình sách giáo khoa toán 3.
– Tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu có liên quan Chương trình sách giáo khoa toán 3, trao đổi
với đồng nghiệp với học sinh và tự rút ra những kinh nghiệm hay phù hợp để giảng dạy cho
học sinh.
4. Đối tượng nghiên cứu:
– Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa toán 3.
– Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu toán.


2

– Nghiên cứu những biện pháp, phương pháp giáo dục hay phù hợp để khắc sâu kiến thức,
hình thành thói quen, giúp học sinh nắm và để học tốt môn Toán.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
– Sáng kiến kinh nghiệm này viết trong phạm vi môn Toán lớp 3. Đề cập đến nội dung Toán 3
( hệ thống hoá kiến thức) phân tích nội dung Toán 3, phương pháp dạy Toán 3.
– Công tác giảng dạy và quá trình thực hiện phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 31 Trường TH
Hưng Phú – C, năm học 2009 – 2010.
* Phương pháp nghiên cứu.
– Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 31.
– Phương pháp quan sát.
– Phương pháp điều tra.
– Phương pháp thực hành luyện tập.

– Phương pháp tổng kết.
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Dạy Toán học là dạy cho học sinh sáng tạo, là rèn luyện các kỹ năng, trau dồi phẩm chất đạo
đức, tính siêng năng, cần cù, chịu khó. Đó là phẩm chất vốn có của con người. Thông qua học
Toán để đức tính đó được thường xuyên phát huy và ngày càng hoàn thiện. Chương trình Toán
Tiểu học là một công trình khoa học mang tính truyền thống và hiện đại. Việc dạy Toán Tiểu
học phải được đổi mới một cách mạnh mẽ về phương pháp, về cung cách lên lớp, về chấm
chữa và đánh giá học sinh. Nghiên cứu chương trình Toán lớp 3 chúng ta thấy rằng đó là một
nội dung hoàn chỉnh sắp xếp từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của trẻ từ 6 tuổi trở lên. Nghiên cứu để thấy rõ
nội hàm của nó, bản chất của nó mới có phương pháp giảng dạy sát đúng. Sáng kiến kinh
nghiệm là một tập hợp về nhận thức, cách nhận định, đánh giá, phân tích tình hình để tìm ra
con đường đi mang lại kết quả theo mong muốn. Nếu chỉ dựa vào các văn bản của trên, dựa
vào thiết kế bài dạy và sách giáo khoa để giảng dạy theo lối áp đặt thì quả là phản khoa học,
không mang tính sư phạm tí nào. Như vậy dễ cho người dạy song khó cho người học. Và như
vậy thì vai trò của người thầy sẽ không rõ. Qua đó tính sáng tạo cũng không có. Dạy toán là
dạy sáng tạo là dạy cách suy luận lôgíc thì phải mở rộng ngoài sách giáo viên, sách giáo khoa,
sách thiết kế của Bộ. Dạy toán là dạy cách làm việc sáng tạo, cách suy luận, cách sống nhân
văn thời hiện đại. Thế nên, người giáo viên phải có tầm nhìn. Tầm nhìn đó vừa xa vừa thực tế,
phải nắm được lý thuyết song phải có kỹ năng khái quát vừa hết sức cụ thể. Như vậy phải đọc
nhiều, tích luỹ nhiều, và phải rút ra được những điều cần thiết để tận dụng.
Trong quá trình dạy học toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng, môn toán là một
trong những môn học quan trọng nhất trong chương trình học ở tiểu học.
Môn toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời
sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng toán học là công cụ cần thiết để học các
môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục
học sinh nhiều mặt như: Phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ (Trừu tượng
hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, . . . ) Nó giúp học sinh biết tư
duy suy nghĩ, làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao

động.


3

Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Do đó, môn toán có nhiệm vụ góp
phần vào thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học, đó là: Trang bị cho học sinh một hệ
thống kiến thức và kĩ năng cơ bản, cần thiết cho việc học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống. Giúp
học sinh biết vận dụng kiến thức vào hoạt động thiết thực trong đời sống, từng bước hình
thành, rèn luyện thói quen phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển hợp lí phù
hợp với tâm lí của từng lứa tuổi. Tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học còn lại.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề.
Trong thực tiển có nhiều điều khác với sách vở, có nhiều điều không sách vở nào nói hết. Toán
học cũng vậy. Sách vở không nói hết mới cần đến vai trò của người thầy. Trong thực tiển sách
học không lường hết những tình huống xãy ra trong quá trình dạy học. Bởi vậy sách dạy chúng
ta phương pháp truyền thụ kiến thức. Song chúng ta cũng có thể giúp người viết sách hoàn
thiện phương pháp giảng dạy một cách tốt hơn. Chưa nói đối tượng học sinh ở mỗi địa phương
lại có sự khác nhau. Nhận thức của các em có sự chênh lệch, do đó người giáo viên tuỳ theo
học sinh của lớp mình, của địa phương mình để có cách dạy thích hợp.
Trường TH Hưng Phú – C là trường thuộc vùng sâu, gồm 3 điểm trường thuộc 2 ấp. Học sinh
Trường TH Hưng Phú – C có đặc điểm riêng, lớp 31 có những điểm khác biệt so với lớp 3
trong trường. Một số em môn toán còn yếu, phương pháp học tập chưa rõ ràng, còn thụ động
trong việc tiếp thu bài. Song điều đáng nói, đây là vùng sâu dân cư tập trung tương đối đông.
Trình độ nhận thức của phụ huynh còn nhiều hạn chế. Hơn phân nửa số học sinh là con nhà
nghèo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Ngoài giờ học ở trường, về nhà các em còn phụ giúp gia
đình để kiếm sống. Một số học sinh cha mẹ phải đi làm ăn xa không trực tiếp dạy dỗ, chăm
sóc, . . . Vì vậy, các em còn lo chơi chưa chú ý về học tập. Những bài học bài tập còn xao lãng.
Như vậy trách nhiệm nặng nề thuộc vào người giáo viên trực tiếp đứng lớp.
Mặt khác, qua nhiều năm đứng dạy lớp 3 chương trình sách giáo khoa cũ và thực hiện đổi mới
chương trình sách giáo khoa môn Toán 3. Bản thân đã có tinh thần trách nhiệm, có ý thức về

chuyên môn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy toán 3 mới. Tôi nhận thấy đối
tượng học sinh không đồng đều một số học sinh trung bình, yếu, . . . Phần nhiều học sinh chưa
nắm vững chắc những kiến thức cơ bản về toán như:
+ Chưa thuộc bảng nhân, chia.
+ Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục).
+ Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc).
+ Đặc biệt các em còn rất yếu trong việc giải toán có lời văn.
+ Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán.
Đứng trước thực trạng trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp 31 tôi thật sự băn khoăn và đặt ra
nhiệm vụ là làm thế nào để bồi dưỡng, hình thành cho học sinh những kiến thức cơ bản giúp
học sinh học tốt môn toán. Chính vì thế nên tôi chọn đề tài: Một số kinh nghiệm dạy học nhằm
giúp học sinh học tốt môn toán lớp 3 ở bậc tiểu học.
Chương 3: Giải pháp đề ra.
Để rèn luyện và bồi dưỡng học sinh học tốt môn toán, ngay từ đầu năm tôi được phân công
giảng lớp 31. Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm và qua các tiết ôn tập toán đầu năm, tôi đã
phân loại học sinh cụ thể vào sổ tay như sau:
+ Chưa thuộc bảng nhân, chia ở lớp 2 đã học: 16/20 học sinh.
+ Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên: 14/20 học sinh.


4

+ Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính: 17/20 học sinh.
+ Giải toán có lời văn chưa được: 18/20 học sinh.
+ Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán: 20/ 20 học sinh.
– Để tìm hiểu về gia đình, điều kiện sống, sự chăm lo của phụ huynh đối với con em. Ngay từ
đầu năm tôi đề nghị Ban Giám Hiệu cho họp phụ huynh học sinh. Thông qua cuộc họp tôi báo
cáo lại tình hình học tập của từng học sinh đặc biệt là học sinh yếu môn Toán.
– Trong cuộc họp tôi động viên phụ huynh mua đầy đủ dụng cụ học tập cho học sinh.
– Cần tạo điều kiện cho con em có góc học tập ở nhà, Đặc biệt là phụ huynh nhắc nhở việc học

tập của các em và học thuộc bản cửu chương. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra sự chuẩn bị
của học sinh trước khi đến lớp.
– Qua cuộc họp tôi nắm được 12 em gia đình thật sự khó khăn so với 7 em có sổ hộ nghèo, 4
học sinh cha mẹ đi làm ăn xa nên không có thời gian thường xuyên chăm sóc.
– Để lớp đủ dụng cụ học tập tôi liên hệ thư viện mượn sách giáo khoa và vở bài tập cho học
sinh, nên lớp tôi có 20/ 20 học sinh có đầy đủ dụng cụ học tập.
– Qua hai tháng đầu giảng dạy tôi cố gắng tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến các em học
yếu toán.
– Từ đó tôi suy nghĩ tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp, biện pháp mới, để giúp học sinh có
kĩ năng, thói quen và căn bản trong quá trình học toán. Cụ thể như sau:
1) Luyện cho học sinh thuộc bảng nhân, chia.
– Đã nhiều năm giảng dạy lớp 3, theo tôi nghĩ, học sinh học tốt môn toán thì không thể không
luyện cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học sinh có thuộc bảng nhân, chia mới
vận dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc biệt là các phép chia có số bị chia 3, 4 chữ số và
giải toán hợp.
– Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia tôi làm như sau:
+ Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và tôi chốt lại cho học sinh nắm
sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau:
VD: Bảng nhân.
* Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau.
* Các thừa số thứ hai trong bảng nhân đều khác nhau theo thứ tự là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10.
Mỗi thừa số này liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. ( trong bảng nhân các thừa số thứ hai nhỏ
nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số 0).
* Các tích cũng khác nhau và mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa số thứ nhất. (Tích
thứ nhất trong bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối cùng trong bảng nhân gấp thừa số
thứ nhất 10 lần).
VD: Bảng chia 9.
* Các số bị chia trong bảng chia 9 là các tích của bảng nhân 9, và hơn kém nhau 9 đơn vị.
* Số chia trong bảng chia 9 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 9 đều là 9.
* Các thương của bảng chia 9 là thừa số thứ hai của bảng nhân 9.

+ Hàng ngày, đầu giờ học môn toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động, tôi thay vào cả
lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng nhân 2, bảng chia 2 đến bảng
nhân, chia hiện học.
+ Sau mỗi giờ học toán tôi thường kiểm tra những học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia từ 2
đến 4 em.


5

+ Tôi thường xuyên kiểm tra học sinh bảng nhân, chia bằng cách in bảng nhân, chia trên giấy
A4, nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần của phép nhân, chia trong bảng.
Vào cuối tuần dành thời gian khoảng 10 phút cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân,
chia như yêu cầu. Tôi và học sinh cùng nhau nhận xét, khen ngợi học sinh làm bài tốt, nhắc
nhở các em làm bài chưa tốt.
+ Tôi cũng thường xuyên cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa thuộc vào tập
riêng. Ngày sau trình bày và đọc cho tổ trưởng nghe vào đầu giờ, sau đó tổ trưởng báo cáo cho
giáo viên.
* Thỉnh thoảng để khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi.
VD: Trò chơi ôn lại bảng nhân ( trò chơi lô tô)
– Tôi chuẩn bị nhiều bảng theo thứ tự đảo ngược như sau:
8 20 16
32 12 24
40 28 36
Cách chơi:
Phát cho mỗi em một bảng. Giáo viên hoặc lớp trưởng lần lượt đọc mỗi lần 1 phép tính trong
bảng nhân 4 nhưng không nêu kết quả. Học sinh nghe và tự tìm kết quả đánh dấu vào ô có kết
quả đúng. Nếu học sinh nào đánh đúng, đủ 3 ô hàng ngang hoặc hàng dọc thì em đó thắng.
Giáo viên quan sát lại khen thưởng học sinh thắng cuộc, khuyến khích học sinh làm chưa tốt.
Tiếp tục như những cách làm trên cho đến khi cả lớp đều thuộc từ bảng nhân, chia 2 đến 9.
Qua thời gian không lâu lớp tôi có 20/ 20 học sinh thuộc tất cả bảng nhân chia từ 2 đến 9.

2) Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên.
( Học sinh biết đọc, viết, so sánh các số tự nhiên là chuỗi kiến thức rất quan trọng trong
chương trình toán 3).
– Chuỗi kiến thức này nhằm giúp học sinh nắm được cách đọc, viết và so sánh các số tự nhiên
vận dụng vào cộng, trừ, nhân, chia số thứ tự và giải bài toán hợp.
– Dạy chuỗi kiến thức này theo tôi người giáo viên cần hình thành cho học sinh những kiến
thức cơ bản sau:
* Giúp học sinh hiểu các số tự nhiên.
– Các số 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, . . . là các số tự nhiên.
– Số 0 là số tự nhiên bé nhất, không có số tự nhiên lớn nhất.
– Hai số tự nhiên liên tiếp hơn kém nhau 1 đơn vị.
– Số 0, 2, 4, 6 . . . là các số tự nhiên chẵn, số 1, 3, 5,7, 9, 11, . . . là các số tự nhiên lẻ. Hai số
chẵn ( hoặc lẻ) liên tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị.
– Nắm được tên và vị trí của các hàng ( hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn).
– Biết qui tắc các giá trị theo vị trí của các chữ số trong cách viết số.
VD: Dạy cho học sinh:
– Các số có bốn chữ số gồm hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị. Tôi giải thích cho
học sinh là: hàng nghìn các chữ số lớn hơn 0.
VD: 1234; 2574; 4351; . . . . hàng nghìn là: 1, 2, 4 nghìn. Không thể có hàng nghìn là 0 như:
0234, 0574, 0351, . . . . Vậy số có bốn chữ số có hàng nghìn nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 9.
* Hướng dẫn đọc, viết.
– Hướng dẫn phân hàng: VD số: 5921.


6

+ Hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị.
. Số 5921: Có 5 nghìn, 9 trăm, 2 chục, 1 đơn vị.
. Đọc số 5921: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt.
Giáo viên viết: 5921.

Phân tích: 5 9 2 1
5nghìn 9trăm 2chục 1đơn vị.
Hoặc: lớp nghìn lớp đơn vị.
. Khi viết, ta viết từ hàng cao đến hàng thấp (viết từ trái sang phải).
. Khi đọc lớp nào ta kèm theo đơn vị lớp đó.
. Học sinh đọc: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt.
– Hơn thế nữa, tôi còn hướng dẫn thêm cho học sinh cách đọc như sau:
VD: Số 5921 và 5911.
. Số 5921 đọc là: Năm nghìn, chín trăm hai mươi mốt.
. Số 5911 đọc là: Năm nghìn, chín trăm mười một.
– Nói cụ thể hơn, từ hai số trên cho học sinh nhận ra được cách đọc ở cùng hàng đơn vị của
hai số là khác nhau chỗ mốt và một. Nghĩa là số 5921, hàng đơn vị đọc là mốt, còn số 5911
hàng đơn vị đọc là một. Tuy cùng hàng và đều là số “1” nhưng tên gọi lại khác nhau. Tôi còn
phát hiện và giúp học sinh đọc và nhận ra cách đọc của một vài số lại có cách đọc tương tự
trên:
VD: Số 2305 và 2325 cùng hàng đơn vị là số “5” nhưng lại đọc là “năm” và “lăm”.
VD: Số 2010: Học sinh nhiều em đọc là “Hai nghìn không trăm linh mười”. Tôi hướng dẫn
các em. Trong số tự nhiên chỉ được đọc “linh một, linh hai, . . . .linh chín, không có đọc là linh
mười” vậy số 2010 đọc là: Hai nghìn không trăm mười.
* Hướng dẫn so sánh.
Trong qui tắc là: Khi ta so sánh trong hai số thì: Số nào có ít chữ số hơn thì số đó bé hơn và
ngược lại. VD: 9999 < 10 000 ; 1000 > 999.
+ Còn các số có cùng chữ số thì sao? Ngoài việc làm theo qui tắc thì tôi còn làm như sau:
VD: Bài tập 3a trang 100:
Để tìm số lớn nhất trong các số: 4375 ; 4735 ; 4537 ; 4753. Tôi hướng dẫn họ sinh như sau:
– Xếp theo cột dọc, sao cho thẳng hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị với nhau. Cụ thể trên bảng
phần được xoá là:
4375
47354735
4537

4 7 5 3 4 7 5 3 Số lớn nhất 4753.
47475
– Phân theo hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị.
– So sánh từng hàng để chọn ra số lớn nhất trong hàng như: hàng nghìn đều bằng nhau là 4.
Đến hàng trăm chọn được hai số lớn là 7 có trong 4735 và 4753. Sau đó yêu cầu các em chỉ so
sánh hai số này và tìm được số lớn nhất là 4753.
3) Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc)
Theo tôi, đặt tính cũng là một việc hết sức quan trọng trong quá trình làm tính. Nếu học sinh
không biết cách đặt tính hoặc tính sai sẽ dẫn đến kết quả sai. Vì thế theo tôi nghĩ, để học sinh


7

có căn bản khi thực hiện phép tính phải nắm vững cách đặt tính, các thành phần cũng như sự
liên quan trong khi tính cộng trừ, nhân chia.
* Đối với phép cộng, trừ: ( giúp học sinh nhớ và áp dụng)
– Phép cộng:
VD : 2473 + 3422 = 5895
Số hạng số hạng Tổng
+ Nếu ta thay đổi chỗ các số hạng của tổng thì tổng không thay đổi.
2473 + 3422 = 3422 + 2473= 5895
+ Muốn tìm tổng ta lấy số hạng thứ nhất cộng với số hạng thứ hai.
2473 + 3422 = 5895
+ Muốn tìm số hạng chưa biết, ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết.
2473 – x = 5895
x = 5895- 2473
+ Bất kì số nào cộng với 0 cũng bằng chính số đó.
2+0=2
– Phép trừ:
VD: 8265 – 5152 = 3113

Số bị trừ số trừ hiệu
+ Muốn tìm hiệu ta lấy số bị trừ, trừ đi số trừ.
8265 – 5152 = 3113
+ Muốn tìm số bị trừ chưa biết, ta lấy hiệu cộng với số trừ.
x – 5152 = 3113
x = 3113 + 5152
x = 8265
+ Muốn tìm số trừ chưa biết, ta lấy số bị trừ trừ đi hiệu.
8265 – x = 3113
x = 8265 – 3113
x = 5152
+ Bất kì số nào trừ 0 cũng bằng chính số đó.
4–0=4
– Đặt tính và tính:
Cần hướng dẫn học sinh kĩ là phải đặt tính thẳng hàng (hàng đơn vị theo hàng đơn vị, hàng
chục theo hàng chục, hàng trăm theo hàng trăm, hàng nghìn theo hàng nghìn). Hướng dẫn học
sinh bắt đầu cộng từ hàng đơn vị (hoặc từ phải sang trái). Nên lưu ý học sinh đối với phép trừ
có nhớ, cần bớt ra khi trừ hàng kế tiếp.
* GV nói: Khi kẻ lần vạch ngang, tất cả các em đều dùng bằng thước.
* Nhắc học sinh chú ý: Trong phép cộng, trừ chỉ nhớ số 1, không nhớ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9.(trừ
khi có nhiều số hạng cộng với nhau như bài tập 1b trang 156).
* Đối với phép nhân, chia: (giúp học sinh nhớ và áp dụng).
– Phép nhân:
VD: 1427 x 3 = 4281
Thừ số Thừa số Tích
+ Muốn tìm tích, ta lấy thừa số thứ nhất nhân với thừa số thứ hai.


8


1427 x 3 = 4281
+ Muốn tìm thừa số chưa biết, ta lấy tích chia cho thừa số đã biết.
1427 x x = 4281
x = 4281 : 1427
+ Khi ta thay đổi các thừa số trong một tích thì tích không thay đổi.
3 x 9 = 9 x 3 = 27
+ Số nào nhân với 1 cũng bằng chính số đó.
3 x 1 = 3; 6 x 1 = 6; . . .
+ Số nào nhân với 0 cũng bằng 0.
3x0=0
– Đặt tính và tính:
Khi đặt tính giáo viên lưu ý cho học: Viết thừa số thứ nhất ở 1 dòng, viết thừa số thứ hai ở
dòng dưới sao cho thẳng cột với hàng đơn vị (nhân số có 2, 3, 4 chữ số với số có 1 chữ số).
Viết dấu nhân ở giữa hai dòng thừa số thứ nhất và thừa số thứ hai và lùi ra khoảng 1, 2 mm,
rồi kẻ vạch ngang bằng thước kẻ.
Khi thực hiện phép nhân này, ta phải thực hiện tính bắt đầu từ hàng đơn vị, sau đó đến hàng
chục, hàng trăm, hàng nghìn (hoặc tính từ phải sang trái). Các chữ số ở tích nên viết sao cho
thẳng cột với theo từng hàng, bắt đầu từ hàng đơn vị, chục, trăm, nghìn của thừa số thứ nhất.
Đối với cách viết từng chữ số của tích có nhớ, ta nên viết số đơn vị, nhớ số chục. (hoặc nhắc
học sinh viết số bên tay phải nhớ số bên tay trái).
* Nhắc thêm cho học sinh:
Nếu trường hợp như: 8 nhân 3 bằng 24, thì viết 4 nhớ 2, . . . ( đối với phép nhân thì chỉ có nhớ
1, 2, . . . 8, không có nhớ 9)
– Phép chia:
VD: 6369 : 3 = 2123
+ Muốn tìm thương, ta lấy số bị chia, chia cho số chia. 6369 : 3
+ Muốn tìm số bị chia chưa biết, ta lấy thương nhân với số chia.
x : 3 = 2123
x = 2123 x 3
+ Muốn tìm số chia chưa biết, ta lấy số bị chia, chia cho thương.

32 : x = 8
x = 32 : 8
+ Số nào chia cho 1 cũng bằng chính số đó.
4 : 1 = 4; . . . . . 9 : 1 = 9
+ 0 chia cho bất kỳ số nào cũng bằng 0.
0:3=0
* Nhắc thêm cho học sinh: không thể chia cho 0.
3:0
+ Muốn tìm số chia trong phép chia có dư, ta lấy số bị chia trừ đi số dư rồi chia cho thương.
7 : 3 = 2(dư 1) Vậy: (7 – 1) : 2
+ Muốn tìm số bị chia trong phép chia có dư, ta lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số
dư.
7 : 3 = 2 (dư 1) Vậy: 2 x 3 + 1


9

+ Trong phép chia có dư, số dư nhỏ nhất là 1, số dư lớn nhất kém số chia 1 đơn vị. ( trong
chương trình toán 3 số dư trong phép chia nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 8).
VD: Số chia là 9, thì số dư là 1, 2, 3, 4, . . . . 8. (số dư phải nhỏ hơn số chia)
– Đặt tính và tính:
Tôi nghĩ thực hiện đặt tính và tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc, thì phép chia là khó nhất
vì:
– Học sinh hay quên, thực hiện chưa đầy đủ các hàng cao đến hàng thấp (có em chỉ mới thực
hiện đến hàng trăm, chục mà không thực hiện hết). Cần hướng dẫn kĩ cho học sinh cách nhân
ngược lên và trừ lại, . . . Đặc biệt đối với học sinh yếu toán, tôi hướng dẫn kĩ cách đặt tính,
nhằm giúp các em thấy được hàng nào thực hiện rồi, hàng nào chưa thực hiện. Thực hiện như
sau:
VD: Chia số có 4 chữ số cho số có 1 chữ số: 1276 : 3 = ?
– Trước tiên giúp học sinh biết ghi theo cột dọc và hiểu tên gọi các thành phần trong cột dọc

của phép chia. (sử dụng phần bảng được xoá)
Số bị chia dấu chia số chia
1276 : 3
1276 3
Hạ 425 Thương tìm được.
Số dư lần chia 1 07
Số dư lần chia 2 16
1 Số dư lần chia cuối cùng (Phép chia có dư).
* Khi hạ hàng nào phải hạ dưới sao cho thẳng hàng, để ta biết sẽ thực hiện hàng đó, sau đó
mới thực hiện hàng kế tiếp.
* Nhắc học sinh:
Tôi nói trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc thì các phép cộng, trừ, nhân ta
thực hiện tính theo thứ tự từ phải sang trái, hoặc từ hàng đơn vị, hàng chục, . . . Còn riêng phép
chia ta tính theo thứ tụ từ trái sang phải, hoặc từ hàng cao nhất đến hàng thấp nhất ( hàng
nghìn, trăm, chục, đơn vị).
Nhìn chung, các em có tiến bộ rõ rệt. Các em không còn đặt tính sai, cộng, trừ, nhân, chia
không viết lộn kết quả và quên số nhớ nữa.
Đối với các em này, hàng ngày mỗi tiết học toán tôi gọi lên bảng thực hiện phép tính. Tôi cũng
thường xuyên đến các em yếu toán, việc làm theo yêu cầu cần đạt của chuẩn kĩ năng, kiến
thức. Có khi tôi yêu cầu những em này chỉ làm một phần trong mỗi bài tập và hướng dẫn rất kĩ
khi làm bài vào vở. Cách trình bày từng con số, cách sửa sai để từng trang vở được sạch đẹp.
Qua một thời gian các em có tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần thực hiện các em viết rất rõ ràng và tính
chính xác.
4) Hướng dẫn giải toán có lời văn.
Đây là chuỗi kiến thức học sinh mất căn bản. Các em thường chưa biết phân tích đề toán, chưa
biết suy luận, tổng hợp, so sánh tìm cách giải hợp lí cho từng bài. Vì vậy, trong mỗi tiết học
gặp những bài toán giải có lời văn tôi yêu cầu học sinh như sau:
– Phần đọc thành tiếng và đọc thầm.
+ Đọc kĩ đề toán, gạch chân từ, số quan trọng liên quan đến khâu giải. (GV theo dõi cả lớp đọc
thầm và yêu cầu em nào cũng phải đọc, có đọc mới hiểu và làm bài đựơc).



10

+ Khi đọc cần hiểu bài toán cho ta biết điều gi? Bài toán hỏi gi?
– Phần hướng dẫn giải.
+ Hướng dẫn tóm tắt đề toán bằng hình vẽ, lời câu văn, . . .
+ Tìm hướng giải: Phân tích hoặc tổng hợp.
+ Gợi mở khâu đặt lời giải rõ ràng, gọn, đúng yêu cầu bài toán.
VD: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10l mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
Bước 1: Gọi học sinh đọc kĩ đề: 2 em đọc to, cả lớp đọc thầm. (chú ý nội dung)
Bước 2: Hướng dẫn phân tích để xác định cái đã cho và cái cần tìm, sau đó giáo viên gạch
chân.
+ Hỏi: Cái đã cho: 35l mật ong, 7 can
+ Cái cần tìm: Có 10l mật ong đựng trong bao nhiêu can.
* Giáo viên hướng dẫn tóm tắt bài toán.
35 lít mật ong: 7 can
10 lít mật ong: . . . can?
Bước 3: Tìm hướng giải:
+ Bài toán hỏi gì? (có 10l mật ong thì đựng trong bao nhiêu can?)
+ Muốn biết 10l mật ong đựng đều mấy can, ta phải làm gì? (tìm xem 1 can đựng được bao
nhiêu lít mật ong).
+ Muốn tìm được 1 can đựng bao nhiêu lít mật ong ta làm sao?
– Gợi mở cho học sinh đặt lời giải và chọn phép tính giải.
Số lít mật ong đựng trong 1 can là:
35 : 7 = 5 ( l )
+ Hỏi tiếp:
Biết được mỗi can 5l mật ong. Vậy nếu có 10l mật ong thì đựng đều mấy can như thế?
– Gợi mở để cho học sinh chọn lời giải và phép tính.

Số can đựng 10l mật ong là:
10 : 5 = 2 (can)
Đáp số: 2 can.
– Song song với qui trình hướng dẫn giải, tôi luôn lưu ý học sinh cách trình bày bài giải sao
cho phù hợp với trình tự yêu cầu của đề, cụ thể như bài toán vừa hướng dẫn trên, tôi hướng
dẫn các em trình bày như sau:
Bài giải
Số lít mật ong đựng trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số can đựng trong 10l mật ong là:
10 : 5 = 2 (can)
Đap số: 2 can.
– Những biện pháp trên được áp dụng ở lớp tôi về giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị
và mang lại kết quả tương đối cao, và trong lớp bây giờ có khoảng ba phần tư học sinh giải
thành thạo.
5) Giúp học sinh nắm, thuộc các qui tắc đã học.
Tuy nhiên học sinh đã biết cộng, trừ, nhân, chia, . . . cũng chưa giải hết được các bài toán


11

trong chương trình sách giáo khoa toán lớp 3. Vì thế tôi cần giúp cho các em thuộc và khắc sâu
các qui tắc đã học để áp dụng và làm toán tốt hơn, tôi làm như sau:
+ Tôi soạn lại các qui tắc đã học và có ví dụ , rồi in trên giấy A4, phát cho học sinh và yêu cầu
các em phải học thuộc.
+ Tổ chức cho học sinh ôn lại qui tắc: Lớp tôi có 3 tổ tôi chia làm 3 nhóm. Tôi thường cho các
nhóm thi với nhau về các qui tắc như sau:
VD:
Nhóm 1 nêu câu hỏi: Muốn gấp một số lên nhiều lần ta làm gì? Nêu xong gọi nhóm 2 hoặc
nhóm 3 trả lời, nhóm nào trả lời được, sau đó nêu câu hỏi cho nhóm khác trả lời. ( không được

hỏi trùng câu hỏi). VD: Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta làm thế nào? Hoặc: Muốn tìm thừa
số chưa biết, . . . Cứ làm như vậy, khoảng 15 phút chốt lại nhóm đặt và trả lời đúng nhiều thì
nhóm đó thắng cuộc. (hàng tuần tổ chức cho học sinh 2 lần, và áp dụng đến việc trực nhựt
lớp).
– Qua khoảng thời gian không lâu lớp tôi có rất nhiều học sinh học thuộc và biết áp dụng rất
tốt về qui tắc đã học.
– Đặc biệt, theo tôi để có những kinh nghiệm và bồi dưỡng cho học sinh học tốt môn toán,
Ngoài việc hưóng dẫn kĩ cho học sinh những kiến thức cơ bản và kèm học sinh yếu toán, tôi
còn chú ý bồi dưỡng cho học sinh giỏi như sau:
– Tôi tìm tồi, tham khảo sách báo, vở bài tập, chọn những bài toán lạ có những nội dung phù
hợp và hay, để các em làm thêm những phút rảnh, hoặc làm thêm ở nhà nhằm giúp các em làm
toán ngày càng giỏi hơn.
VD1: Giáo viên hỏi cho học sinh giỏi giơ tay nhanh và trả lời nhanh đúng bài toán: 72 x 2 + =
150
+ 72 nhân 2 cộng mấy bằng 150?
+ HS giơ tay nhanh và trả lời: 72 nhân 2 cộng 6 bằng 150.
VD2: Hãy tìm số chẵn thích hợp điền vào ô vuông .
_ Để đạt được kết quả trên thì đòi hỏi:
* Giáo viên.
– Có tinh thần công tác giảng dạy phải có nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu, vượt nhiều khó
khăn để dồn về công sức vào nhiệm vụ giảng dạy.
– Để học sinh chiếm lĩnh và khắc sâu kiến thức, vận dụng được chính xác, linh hoạt kiến thức
đó trong luyện tập, thực hành thì đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị kĩ nội dung bài dạy
trước khi lên lớp.
– Để chuẩn bị tốt cho nội dung bài dạy, theo tôi người giáo viên phải chuẩn bị những yêu cầu
sau:
a/ Chuẩn bị thiết kế bài dạy.
* Những việc làm để chuẩn bị bài dạy.
Nghiên cứu nắm vững chương trình, hệ thống kiến thức, mức độ yêu cầu kiến thức, kĩ năng
của học sinh, nghiên cứu nắm vững sự thể hiện cụ thể của chương trình, sách giáo khoa, sách

bài tập, sách hướng dẫn (sách giáo viên). Sưu tầm nghiên cứu các kinh nghiệm dạy học trên
các tập chí, tài liệu bồi dưỡng giáo viên về kiến thức, nghiệp vụ, nắm tình hình điều kiện địa
phương, trường lớp và hoàn cảnh học tập của học sinh.
* Nghiên cứu tài liệu và xác định nội dung bài dạy học.


12

Nghiên cứu mục đích yêu cầu bài học cả về 3 mặt (kiến thức, kĩ năng tư duy và giáo dục). Xác
định kiến thức trọng tâm căn cứ trên mục đích yêu cầu. Lựa chọn phương pháp cụ thể và
phương tiện dạy học, các biện pháp sẽ thực hiện từng khâu từng đối tượng học sinh.
* Soát lại việc chuẩn bị của học sinh về bài học.
Tình hình nắm kiến thức đã học có liên quan, tình hình sách giáo khoa và đồ dùng học tập của
học sinh.
b/ Điều kiện tiến hành một tiết dạy đạt hiệu quả.
Tạo được không khí sẵn sàng học tập ở chỗ học sinh nắm chắc bài cũ, chuẩn bị tốt sách giáo
khoa và đồ dùng học tập. Tập thể học sinh tự giác, tôn trọng nội quy, nề nếp và làm việc tốt.
Học sinh trong trạng thái khoẻ mạnh, tỉnh táo.
Tạo mối quan hệ tốt giáo viên và học sinh thể hiện ở chỗ:
+ Giáo viên có thái độ cởi mở, chan hoà, ân cần, quan tâm đến học sinh, mẫu mực trong tác
phong. Giáo viên chuẩn bị bài soạn, sẵn sàng lên lớp.
+ Học sinh lễ phép, chăm chỉ và tích cực trong học tập.
c/ Những yêu cầu chung của một tiết học trên lớp.
– Tiết học toán phải chú ý đến hai mặt giáo dục và giáo dưỡng. Hai mặt này kết hợp chặt chẽ
với nhau.
– Luôn luôn chú ý theo dõi thái độ học tập và sự lĩnh hội nội dung bài học của học sinh, để có
biện pháp điều chỉnh, uốn nắn kịp thời.
– Tiết học trên lớp cần căn cứ vào trình độ học sinh trung bình ở lớp, có phân biệt đến hai đối
tượng giỏi và yếu.
d/ Thực hiện bài soạn.

– Giáo viên thực hiện tiết học theo trình tự bài soạn, có điều chỉnh thời gian các phần nhưng
đảm bảo nội dung trọng tâm của bài.
– Cần quan tâm đến hoạt động của học sinh, sao cho học trực tiếp giải quyết vấn đề qua các
bước suy luận, thảo luận thực hành phát biểu, báo cáo kết quả. . . .
– Cần quan tâm đối tượng khác nhau về trình độ để giao việc, đặt câu hỏi thích hợp. Có động
viên khuyến khích, biểu dương kịp thời các tiến bộ, cố gắng của học sinh. Nhưng phải nghiêm
khắc đối với học sinh lười biếng, vô trách nhiệm. Giáo viên phải linh động, khéo léo xử lí tình
huống diễn ra sao cho đạt mục đích yêu cầu của tiết dạy.
* Kết quả.
Từ việc áp dụng những biện pháp trên đến nay đã hơn nửa học kì II năm học 2009 – 2010.
Trong quá trình thực hiện cho thấy nhiều học sinh trong lớp
có tiến bộ rõ rệt so với đầu năm. Học sinh nắm được một số kiến thức căn bản về toán lớp 3.
Qua thời gian đứng lớp giảng dạy theo cách làm trên đã đưa chất lượng lớp tôi có kết quả rất
khả quan.
Kết quả kiểm tra giữa học kì II như sau:
Giỏi: 7 học sinh. Khá: 9 học sinh. Trung bình: 4 học sinh.
Yếu: 0 học sinh.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi nắm thực trạng học sinh về môn toán. Tôi đã kịp thời áp dụng một số biện pháp nêu
trên mang lại kết quả khả quan. Qua đó tôi rút ra được một số kinh nghiệm như:


13

+ Cần khảo sát nắm chắc từng đối tượng và năng lực học của học sinh, có biện pháp thiết thực,
nâng chất lượng phù hợp đối với từng học sinh.
+ Kêu gọi lực lượng Phụ huynh học sinh kết hợp hỗ trợ giúp các em về điều kiện học toán
cũng như học lý thuyết và thực hành giải các bài tập ở nhà để kết quả dạy, học toán càng khả
quan hơn.

+ Theo dõi, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu và đề ra những biện pháp
khắc phục.
+ Giáo viên phải nhiệt tình, luôn quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, không ngại khó.
+ Tổ chức nhiều hình thức học tập, với nhiều phương pháp đảm bảo tính vừa sức.
+ Kèm học sinh yếu và bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Trong giảng dạy cần phân loại học sinh thật hợp lí, để có phương pháp giảng dạy phù hợp
từng đối tượng.
+ Đối với học sinh mất căn bản, cần chú ý lấp dần các lỗ hỏng kiến thức cho các em bằng cách
phối hợp nhiều phương pháp như: Tổ chức phụ đạo, nhắc lại kiến thức cơ bản, chú trọng thực
hành giải bài tập, yêu cầu vừa sức và khuyến khích để từng bước khôi phục lòng tin của em, . .
.
+ Tăng cường phát huy phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm theo hướng phù hợp
giữa nội dung bài dạy và đối tượng học sinh đang học. Chú ý khai thác các khía cạnh gây hứng
thú của bộ môn, tạo niềm sai mê học tập cho học sinh.
+ Giáo viên tham khảo kĩ nội dung bài, xác định yêu cầu trọng tâm bài dạy (soạn giáo án). Lựa
chọn phối hợp tốt, hợp lí các phương pháp và phương tiện dạy học, các biện pháp thực hiện
trong từng khâu, từng đối tượng học sinh. Từ đó, giáo viên truyền thụ đúng, chính xác nội
dung bài, khắc sâu kiến thức. Học sinh nắm vững nội dung bài, vận dụng luyện tập, thực hành
đạt kết quả cao.
Tuy nhiên tôi nhgĩ, trên đây cũng chưa phải là những kinh nghiệm bồi dưỡng tốt cho học sinh.
Vì vậy tôi bao giờ cũng nghiên cứu tìm tòi và học hỏi mãi qua sách báo, qua đồng nghiệp.
2. Kết luận:
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu áp dụng những kinh nghiệm và bồi dưỡng học sinh học tốt
môn toán. Thực tiển cho thấy kết quả học toán của học sinh có chuyển biến rõ rệt. Bước đầu
đã cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chất lượng toán được nâng cao.
Đồng thời đã hình thành khắc sâu cho những kĩ năng, thói quen hứng thú, chăm chỉ học toán.
Thật đáng mừng, vì sau mấy tháng áp dụng biện pháp nghiên cứu trên mà chất lượng môn toán
của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. Học sinh có kĩ năng, thói quen căn bản trong quá trình học
toán, góp phần nâng cao chất lượng môn toán của lớp, của trường ngày một tốt hơn.
3. Đề xuất:

Để việc dạy và học đạt kết quả cao, tôi có một số ý đề xuất sau:
+ Nhà trường thông báo cho học sinh đến lớp và tổ chức cuộc họp Phụ huynh học sinh sớm
hơn, để phụ huynh có thời gian chuẩn bị và chăm sóc học sinh kịp lúc.
+ Phòng giáo dục và nhà trường hỗ trợ đồ dùng học tập kịp thời cho học sinh (sách giáo khoa,
vở bài tập, bảng con, tập viết, . . .). Nhất là học sinh nghèo.
+ Để tiếp cận những phương pháp mới, hay, có sáng tạo và phù hợp với từng địa phương.
Phòng Giáo Dục tổ chức chuyên đề để giáo viên có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn.


14

(nhất là phương pháp giải toán có lời văn).
+ Phòng Giáo Dục tổ chức báo cáo kinh nghiệm hay cho giáo viên học hỏi, . .



×