Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

8 câu hỏi và trả lời ôn thi công chức kho bạc nhà nước mới nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.93 KB, 49 trang )

Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Câu 1: Điều 2 Hiến Pháp 1992 xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cấp
công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức
(sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH 10 ngày 25
tháng 12 năm 2001) thay tầng lớp trí thức = đội ngũ trí thức và bổ sung
Câu 2: Quốc hội là gì?Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn .
Câu 3. Chính phủ là gì ?Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn .
Câu 4: Văn bản vi phạm pháp luật và phạm vi ban hành văn bản vi phạm
pháp luật của HĐND, UBND.
Câu 5: Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành QĐ, chỉ thị của UBND cấp
huyện.
Câu 6: Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp
Câu 7: So sánh nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp: Tỉnh, huyện, xã
Câu 8: : So sánh nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các cấp: Tỉnh, huyện, xã
BÀI SOẠN
Câu 1: Điều 2 Hiến Pháp 1992 xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cấp
công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức
(sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH 10 ngày 25
tháng 12 năm 2001) thay tầng lớp trí thức = đội ngũ trí thức và bổ sung
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Thể hiện trên 5 nội dung :


* Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời. Đó là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, là Nhà nước
kiểu mới, về bản chất khác hẳn với các kiểu Nhà nước trong lịch sử. Bản chất bao
trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và hoạt động của đời sống nhà nước là tính
nhân dân của Nhà nước. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 xác định “ Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức “(HP 1992 là tầng lớp trí
thức) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp .
* Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước .
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng,
trải qua bao hy sinh gian khổ làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhân dân
tự mình lập nên Nhà nước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
nay là Nhà nước do nhân dân mà nòng cốt là lien minh công – nông – trí thức tự tổ
chức tành, tự mình định đoạt quyền lực của nhà nước.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực của Nhà nước, thực
hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là
nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6
Hiến pháp năm 1992 quy định “ Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyên
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” .
* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của tất cả
các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết
dân tộc .

Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là
nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường
và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và
tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 khẳng định :
“ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất
của dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc .
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nới, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình …”
* Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và
công dân .
Trước đây, trong các kiểu Nhà nước cũ, quan hệ giữa nhà nước và công dân
là mối quan hệ lệ thuộc người dân bị lệ thuộc vào Nhà nước.


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Ngày nay, khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì quan hệ giữa nhà
nước và công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do dân chủ trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ trước Nhà nước. Pháp
luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân: quyền
của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, nghĩa vụ của công dân là
quyền của Nhà nước.
* Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam .
Dân chủ hóa đời sống Nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của
thời đại, mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc nảy sinh từ bản chất dân chủ của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút những người lao động
tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của Nhà
nước và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng nhà nước phải là quá trình dân chủ
hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, đồng thời phải cụ thể hóa tư
tưởng dân chủ thành các quyền cua công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày
càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của Nhà nước .
Những đặc điểm mang tính chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
và được pháp luật chế định một cách chặt chẽ.
Tóm lại, Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân từ pháp luật, cơ chế,
chính sách đến tổ chức hoạt động của mình. Đồng thời, Nhà nước đó cũng mang


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

tính dân tộc tính nhân dân sâu sắc. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân .

Câu 2: Quốc hội là gì?Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn .
Điều 83: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp .
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với tòan bộ hoạt động của
Nhà nước.
Điều 84: Quốc hội có 14 nhiệm vụ và quyền hạn sau đây .

1.Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định
chương trình xây dựng, pháp lệnh;
2.Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến Pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao;
3.Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4.Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia,quyết định dự tóan ngân
sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết tóan ngân sách
Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bải bỏ các thứ thuế .


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

5. Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, chính phủ,
tòa án nhân dân, Việt kiểm soát nhân dân và chính quyền địa phương.
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên thường vụ Quốc hội, Thủ
tướng chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm soát
nhân dân tối cao, phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng
quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ.
8. Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính
phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt .
9. Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
10.Quyết định đại xá.

11.Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp
ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương
và danh hiệu vinh dự Nhà nước .
12. Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn
cấp, các biện pháp đặc biệt khắc bảo đảm Quốc phòng và an ninh quốc gia
13.Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các
điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước.
14. Quyết định việc trưng cầu dân ý .


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Câu 3. Chính phủ là gì ?Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn .
Điều 109:Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Chinh phủ thống nhất việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của Nhà nước, bảo đảm hiệu lực của
bộ máy Nhà nước từ TW đến cơ sở; bảo đảm, việc tôn trọng và chấp hành Hiếp
pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân .
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Điều 112: Chính phủ có 11 nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
1.Lãnh đạo công tác của Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện tòan hệ thống nhất bộ máy
hành chính Nhà nước từ TW đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra; tạo điều kiện để Hội
đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định, đào tạo, bồi
dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước .
2. Bảo dảm việc thi hành Hiếp Pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà

nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh
đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân .
3. Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội .
4.Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực
hiện chính sách, tiền tệ quốc gia, quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả thuộc sở
hữu tòan dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước .


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

5. Thi hành biện pháp các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều
kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản,
lợi ích của Nhà nước và của xã hội, bảo vệ môi trường .
6. Củng cố và tăng cường nền Quốc phòng tòan dân, an ninh nhân dân, bảo
đảm an ninh quốc gia và trật tự, an tòan xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang
nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện
pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước.
7.Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác
thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .
8. Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia,
phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước
ngoài .
9. Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.
10. Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dước cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc TW .

11. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đòan thể nhân dân trng khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt
động .
Câu 4: Văn bản vi phạm pháp luật và phạm vi ban hành văn bản vi phạm
pháp luật của HĐND, UBND.
Điều 1. Văn bản quy pháp pháp luật của HĐND, UBND.
1.Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND là văn bản do HĐND,
UBND ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do luật này quy định, trong đó
có nguyên tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định
hướng xã hội chủ nghĩa .
2. Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND được ban hành dưới hình thức
nghị quyết. Văn bản quy phạm pháp luật của BND được ban hành dưới hành thức
quyết định, chỉ thị .
Điều 2 : Phạm vị ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND,
UBND .
1.Hội đồng nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong những
trường hợp sau đây :
a/ Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi
hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên .
b/Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an
ninh địa phương .
c/Quyết định biện pháp nhằm ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân,
hòan thành nhiệm vụ cấp trên giao cho .
d/Quyết định phạm vị, thẩm quyền được giao những chủ trương, biện pháp
có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa

phưưong nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, nhưng không trái với các văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên .
đ/Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho HĐND quy định một vấn
đề cụ thể .
2. UBND ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nhữung trường hợp
sau đây :
a/ Để thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị
quyết của HĐND cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh.


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

b/ Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện các
chính sách khác trên địa bàn .
c/Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho UBND quy định một số
vấn đề cụ thể .
Câu 5: Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành QĐ, chỉ thị của UBND cấp
huyện.
Điều 41. Soạn thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện.
1.Dự thảo quyết định, chỉ thị UBND cấp huyện do Chủ tịch UBND phân
công và trực tiếp chỉ đạo cơ quan chuyên môn thuộc UBND soạn thảo. Cơ quan
soạn thảo có trách nhiệm xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo quyết định, chỉ thị .
2. Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, cơ quan
soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của quyết định, chỉ thị.
Cơ quan, tổ chức hữu quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn
bản trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo quyết định, chỉ thị .
Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của
quyết định, chỉ thị thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần

lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến và dành ít nhất 5 ngày, kể từ ngày tổ
chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định chỉ
thị .
Điều 42 .Thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị UBND cấp huyện .
1. Dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện phải được cơ quan tư
pháp cùng cấp thẩm định trước khi trình UBND. Chậm nhất là 10 ngày trước ngày
UBND tổ chức họp, cơ quan soạn thảo phải gởi dự thảo quyết định, chỉ thị đến cơ
quan tư pháp để thẩm định. Phạm vi thẩm định bao gồm :


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

+ Sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo QĐ, chỉ
thị.
+ Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo quyết định, chỉ thị
với hệ thống pháp luật .
+ Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản
Cơ quan tư pháp có thể đưa ra ý kiến về tính khả thi của dự thảo quyết định,
chỉ thị .
2. Chậm nhất là 7 ngày trước ngày UBND họp, cơ quan tư pháp gởi báo cáo
thẩm quyền đến cơ quan soạn thảo .
Điều 43.Hò sơ dự thảo quyết định, chỉ thị trình UBND cấp huyện .
1.Cơ quan soạn thảo gởi hồ sơ soạn thảo quyết định, chỉ thị đến UBND
chậm nhất là 5 ngày trước ngày UBND họp .
2.Chủ tịch UBND chỉ đạo việc chuẩn bị hồ sơ dự thảo QĐ, chỉ thị để chuyển
đến các thành viên UBND chậm nhất là 3 ngày trước ngày UBND họp. Hồ sơ dự
thảo QĐ, chỉ thị bao gồm :

+ Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị.


+ Báo cáo thẩm định
+ Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị
+ Các tài liệu có lien quan
Điều 44. Trình tự xem xét thông qua dự thảo QĐ, chỉ thị của UBND cấp
huyện.
1.Việc xem xét, thông qua dự thảo QĐ, chỉ thị tại phiên họp UBND được
tiến hành theo trình tự sau :
+ Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo QĐ, chỉ thị.
+ Đại diện cơ quan tư pháp trình bày báo cáo thẩm định.
+ UBND thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo QĐ, chỉ thị
2. Dự thảo QĐ, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên
UBND biểu quyết tán thành .


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

3.Chủ tịch UBND thay mặt UBND ký ban hành quyết định, chỉ thị.

CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Vũ Khoan
Nguyên Bí thư Trung ương Đảng
Phó Thủ tướng Chính phủ
(Cập nhật: 5/6/2008)
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đang dần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
nhiều thành phần định hướng XHCN. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nay nước ta đã
hội nhập đầy đủ và hoàn toàn với nền kinh tế thế giới. Sau khi ra khỏi tình trạng
nước kém phát triển, chúng ta đang nhằm tới đích về cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Từ chỗ điều hành nhà nước chủ yếu
bằng chủ trương, chính sách và chỉ thị hành chính, nay chúng ta đang xây dựng
Nhà nước pháp quyền đi đôi với sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức xã hội.



Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Bao trùm lên tất cả những sự biến đổi sâu sắc đó, chúng ta tiếp tục kiên trì định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các quá trình trên đều đang vận động, những di chứng
của cái cũ chưa mất hẳn, những đường nét của cái mới còn đang hình thành. Đặc
điểm trên của thời kỳ chuyển tiếp đặt dấu ấn lên toàn bộ công tác tổ chức, cán bộ
nói chung và công tác cán bộ nói riêng.
Những chủ trương chung về công tác cán bộ đã được các kỳ đại hội đảng, nhiều
hội nghị Trung ương, nhiều văn bản của Bộ Chính trị và Ban Bí thư xác định.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi đề cập một số khía cạnh cụ thể gắn với những
đặc điểm mới của tình hình trên cơ sở những trải nghiệm thực tiễn công tác ở các
ngành, các cấp khác nhau.
Khâu đầu tiên, cực kỳ quan trọng trong công tác cán bộ là việc xác định cho rõ hệ
tiêu chuẩn của từng loại hình cán bộ, công chức. Đây có thể coi là căn cứ để thực
hiện các khâu khác trong công tác cán bộ. Không xây dựng được hệ tiêu chuẩn rất
khó tiến hành quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ một cách chuẩn
xác.
Lâu nay, trong không ít trường hợp, tiêu chuẩn cán bộ, công chức ở nước ta còn
quá chung chung, có thể áp dụng cho mọi loại hình cán bộ, công chức. Mặt khác,
chúng ít được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ biến đổi không
ngừng.
Ngay những “tiêu chuẩn cứng” - tiêu chuẩn chung dành cho mọi cán bộ, công chức
như “bản lĩnh chính trị vững vàng”, “có đạo đức, lối sống lành mạnh”, “có tư duy
đổi mới”, “có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao”... thì cũng
cần định tính rõ ràng, cụ thể hoá ở mức tối đa đối với từng loại hình cán bộ, công
chức. Ví dụ, tiêu chuẩn “bản lĩnh chính trị vững vàng” - một tiêu chuẩn rất khó
kiểm nghiệm trong hoàn cảnh “sóng yên biển lặng”. Tiêu chuẩn này cũng nên được



Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

làm rõ đối với từng loại hình. Cụ thể như đối với cán bộ cấp chiến lược thì cần thể
hiện trong khả năng đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp sáng tạo nhằm
thực hiện thành công đường lối của Đảng. Đối với số đông công chức, chỉ cần
nghiêm chỉnh thực hiện là đủ. Đối với các cán bộ làm công tác lý luận, tuyên giáo,
đối ngoại... cần biết thuyết phục quần chúng đồng tình với những quan điểm đúng
đắn, tiến hành đấu tranh có sức thuyết phục cao với những luận điểm sai trái...
Bên cạnh đó, trong hệ các “tiêu chuẩn cứng” cũng cần bổ sung những tiêu chuẩn
cần thiết cho phù hợp với tình hình mới. Ví dụ:
Hiểu biết về thể chế kinh tế thị trường. Với tiêu chuẩn này, cán bộ cấp chiến lược
cần nắm vững những quy luật của kinh tế thị trường và biết điều hành nền kinh tế
vĩ mô theo những quy luật đó. Cán bộ, công chức thừa hành cần biết vận dụng
chúng trong công việc cụ thể được giao. Cả hai loại cán bộ đều phải chuyển từ chỗ
sử dụng những công cụ quản lý trực tiếp theo mệnh lệnh hành chính sang việc sử
dụng những công cụ quản lý gián tiếp, chủ yếu là những biện pháp kinh tế - kỹ
thuật.
Hiểu biết thế giới, ít nhất là trong những lĩnh vực mình được giao. Từ đó tận dụng
được những cơ hội, ứng phó với những thách thức do quá trình hội nhập đặt ra,
khôn khéo vận dụng những luật chơi của thế giới và những cam kết quốc tế của
nước ta.
Hiểu biết pháp luật, bao gồm pháp luật nước ta và các quy định pháp lý quốc tế.
Trong đó, cán bộ cấp chiến lược phải biết xây dựng hoặc tham gia xây dựng luật
pháp; cán bộ thừa hành phải nắm chắc những quy định pháp luật liên quan tới công
việc của mình và biết vận dụng sát đúng trong lĩnh vực được giao.


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử


Có kiến thức về quản lý đô thị. Song song với quá trình công nghiệp hoá, quá trình
đô thị hoá cũng tăng tốc phát triển, một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức, cả ở
cấp chiến lược lẫn cấp thừa hành cần có kiến thức quản lý đô thị để kịp thời ứng
phó với những thay đổi của thời kỳ mới.
Nâng cao ý thức phục vụ người dân và nắm vững kỹ năng ứng xử với dân. Đất
nước đổi mới, phát triển, dân trí gia tăng, yêu cầu dân chủ phát triển, nước ta lại
đang xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân nên mỗi cán bộ, viên
chức càng cần rèn luyện, nâng cao phẩm chất này.
Cán bộ cấp chiến lược có khái niệm và có khả năng đề ra chủ trương sát hợp trong
việc ứng dụng và bản thân phải biết sử dụng ở mức độ cần thiết những phương tiện
kỹ thuật hiện đại trong công tác quản lý. Cán bộ, công chức thừa hành cần biết sử
dụng thành thạo những phương tiện ấy.
Khi nước ta đã hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới, các cán bộ, công chức, kể
cả ở cấp chiến lược lẫn cấp thừa hành đều cần biết và sử dụng được ngoại ngữ,
nhất là tiếng Anh - ngoại ngữ phổ cập. (Đương nhiên không thể đòi hỏi ở mọi
người tiêu chuẩn này, cán bộ, viên chức ở vùng sâu, vùng xa, nơi yêu cầu về ngôn
ngữ dân tộc địa phương có tầm quan trọng hơn)...
Bên cạnh hệ “tiêu chuẩn cứng”, rất cần hệ “tiêu chuẩn mềm”, chủ yếu liên quan tới
nghiệp vụ chuyên môn của từng loại hình cán bộ, viên chức để nâng cao tính
chuyên nghiệp của cả hệ thống. Ví dụ, ở cấp chiến lược, tiêu chuẩn cụ thể đối với
một bộ trưởng tất yếu phải khác tiêu chuẩn áp dụng đối với bí thư tỉnh uỷ hoặc chủ
tịch UBND tỉnh, thành phố. Có thể thấy như:
Một vị bộ trưởng không nhất thiết phải nắm quá sâu tình hình cụ thể ở mọi địa
phương. Nhưng ngược lại, đồng chí đó phải nắm rất vững các thông tin vĩ mô, tình


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

hình và nghiệp vụ của bộ, ngành mình. Tương tự, với các cán bộ lãnh đạo chủ chốt
ở cấp tỉnh lại phải nắm rất sâu tình hình mọi mặt của địa phương mình đi đôi với

sự hiểu biết ở mức độ tương đối về cục diện chung ở tầm vĩ mô.
Đối với từng loại hình cán bộ, viên chức cụ thể ở mỗi ngành, mỗi cấp, cần có hệ
tiêu chuẩn càng cụ thể càng tốt để làm căn cứ quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố
trí, đánh giá, nhất là tiêu chuẩn tinh thông nghiệp vụ được giao. Tiếc rằng, cho đến
nay còn khá phổ biến tình trạng cán bộ, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo “vạn
năng”, làm gì cũng được, tính chuyên nghiệp không cao, chất lượng, hiệu quả công
việc thấp. Sở dĩ vậy vì một phần do chưa có hệ tiêu chuẩn cụ thể, nhiều khi bố trí
người sai chỗ, nhiều người ngồi nhầm chỗ. Giữa những năm 80 thế kỷ trước ở
nước ta đã có ý định xây dựng chức danh, tiêu chuẩn theo hướng nói trên song đến
nay vẫn còn chung chung.
Công tác quy hoạch cũng đã được đặt ra từ lâu nhưng không phải ở đâu, lúc nào
cũng thành công. Quy hoạch có chuẩn xác hay không tuỳ thuộc vào hai yếu tố: xác
định đúng nhu cầu (cần loại cán bộ, công chức nào, theo những tiêu chuẩn cụ thể
gì) và đánh giá đúng cán bộ, viên chức cả về năng lực lẫn phẩm chất.
Bên cạnh đó tồn tại không ít vấn đề trong quy trình quy hoạch. Theo tôi, sau khi đã
xác định nhu cầu thì khâu quan trọng hàng đầu đương nhiên là khâu chọn lựa con
người đưa vào diện quy hoạch. Như trên đã nói, không có hệ tiêu chuẩn cụ thể thì
khó bề đánh giá chuẩn xác và chọn được đúng người. Có lẽ nên áp dụng phương
pháp đánh giá đa chiều mà nhiều nước, nhiều doanh nghiệp nước ngoài áp dụng
khá hiệu quả. Cụ thể là, dựa trên hệ tiêu chuẩn rất cụ thể, mỗi cán bộ, công chức tự
đánh giá. Đồng nghiệp và cấp lãnh đạo trực tiếp cũng đánh giá cả về công tác
chính quyền, chuyên môn, nghiệp vụ và công tác đảng, đoàn thể theo phương pháp
trắc nghiệm. Kết quả cuối cùng là tổng hợp của cả ba phương thức đánh giá ấy làm


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

căn cứ đánh giá tương đối toàn diện. Đối với một số chức năng, nhiệm vụ, nghiệp
vụ cụ thể có khi cần tổ chức sát hạch. Tất cả kết quả đánh giá ấy cần được công bố
công khai, minh bạch.

Để quy hoạch thành công, một nhân tố không thể thiếu được là đào tạo, thử thách.
Xuất phát điểm của công tác đào tạo, thử thách là lấy yêu cầu đối với từng chức
danh cụ thể và những mặt còn yếu của người được quy hoạch đối chiếu với hệ tiêu
chuẩn để đào tạo, thử thách có mục tiêu, theo tiêu chuẩn chức danh, học đi đôi với
hành. Để rèn luyện, đào tạo, thử thách cán bộ quản lý, lãnh đạo nhất thiết nên giao
cho những nhiệm vụ, vị trí sẽ đảm nhiệm trong một thời gian nhất định. Ví dụ, cần
đào tạo vụ phó thì giao cho những người đủ tiêu chuẩn theo sự đánh giá nhiều
chiều nói trên gánh vác trọng trách điều hành đơn vị như một vụ phó thực thụ trong
một thời gian 1-2 năm để vừa đào tạo, vừa thử thách. Sau thời hạn ấy, nếu đáp ứng
yêu cầu, được tập thể chấp nhận thông qua bỏ phiếu kín thì đề bạt, ngược lại thì trở
về vị trí cũ. Trong bối cảnh hội nhập sâu với thế giới, cần mạnh dạn đưa cán bộ, kể
cả cán bộ quản lý, lãnh đạo đi học (chứ không chỉ tham quan, tìm hiểu) ở nước
ngoài trong một thời gian cần thiết. Việc tiếp cận sâu ở một quốc gia phát triển sẽ
giúp cán bộ vừa nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vừa trau dồi khả năng
ngoại ngữ.
Để đào tạo, rèn luyện, đồng thời để hạn chế những biểu hiện tiêu cực như bè phái,
địa phương, cục bộ hoặc tham nhũng... cơ chế luân chuyển cần được tiếp tục với
một số cải tiến. Bên cạnh hai hình thức luân chuyển gần đây là đưa về địa phương
một thời gian để hiểu biết thực tế và hoán đổi các cán bộ, viên chức liên quan tới
những lợi ích kinh tế, tài chính để tránh tiêu cực, chúng ta nên mạnh dạn áp dụng
một nguyên tắc mà nhiều nước đã áp dụng là các cán bộ lãnh đạo không được bố
trí ở địa phương quê nhà. Quy định về việc vợ chồng, con cái, họ hàng thân thích
không được làm trong cùng cơ quan cần được áp dụng nghiêm ngặt.


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mở ra cơ hội và
những thách thức cho sự phát triển đất nước đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng đội
ngũ cán bộ ngang tầm. Chỉ khi chúng ta thay đổi tư duy trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ thời kỳ hội nhập, chấp nhận thách thức và từng bước điều
chỉnh chúng ta mới có thể bước những bước vững chắc.
Đào tạo cán bộ chuẩn bị cho nhiệm kỳ đến
Trong hệ thống hành chính của nhà nước ta, phường, xã là đơn vị hành chính, là
cấp chính quyền ở cơ sở, có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị; thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
an ninh, quốc phòng…Đội ngũ cán bộ, công chức phường, xã là người thường
xuyên tiếp xúc và trực tiếp quan hệ với nhân dân; tổ chức, vận động nhân dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
các hoạt động về đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở địa phương.
Trong thời gian qua, đặc biệt từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở phường, xã, thị trấn”, các cấp chính quyền cơ sở ở
thành phố Đà Nẵng được Thành uỷ, UBND thành phố thường xuyên chăm lo
củng cố, kiện toàn thông qua các chủ trương lớn như: Thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”;
đầu tư xây dựng trụ sở làm việc; kiện toàn tổ chức, bộ máy; tăng cường cán bộ,
công chức cho các phường, xã mới thành lập, thực hiện chính sách đặc thù của
thành phố, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước, tin học v.v…bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở như Nghị quyết Đại
hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố nhận định“đã tập trung củng cố, nâng cao


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở và dưới cơ sở”.
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức phường, xã của thành phố Đà Nẵng vẫn còn
một số bất cập, đặc biệt là chất lượng, trình độ đào tạo; năng lực quản lý, điều
hành, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố trong thời kỳ mới “một

trong những đô thị lớn của cả nước, trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung”
theo tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 2003 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phường, xã đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo kế thừa, chuyển tiếp giữa các
thế hệ cán bộ một cách liên tục và vững chắc; trong năm 2007 và những năm tiếp
theo cần thiết phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
phường, xã theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp cơ sở đủ sức
quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và
nhân dân đòi hỏi” và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố:“Tập
trung củng cố chính quyền cơ sở đủ sức quản lý và giải quyết theo thẩm quyền
những vấn đề phức tạp nảy sinh trên địa bàn”.
Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo thành phố, Sở Nội vụ phối hợp với Ban
Tổ chức Thành uỷ, Trường Chính trị thành phố xây dựng Kế hoạch “Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức phường, xã ở thành phố Đà Nẵng” nhằm góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của hệ thống chính trị ở cơ sở theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố là:“Tiếp tục kiện toàn về tổ chức,
bộ máy; nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp từ thành
phố đến cơ sở” và đã được Chủ tịch UBND thành phố phê duyệt


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

Qua thời gian tích cực chuẩn bị, sáng ngày 19/10/2007, Sở Nội vụ, Ban Tổ chức
Thành uỷ, Trường Chính trị thành phố đã tổ chức khai giảng lớp bồi dưỡng cho
71 học viên là cán bộ chuyên trách, không chuyên trách; công chức phường, xã;
cán bộ, công chức trong diện quy hoạch kế cận, dự nguồn các chức danh chủ chốt
phường, xã; các đối tượng theo chính sách thu hút nguồn nhân lực của thành phố
bố trí công tác tại phường, xã được các quận, huyện chọn cử nhằm phục vụ

nguồn cán bộ nhiệm kỳ đến của hệ thống chính trị ở cơ sở phường, xã. Nội dung
bồi dưỡng theo các nhóm chuyên đề về kiến thức về quản lý hành chính Nhà
nước; công tác xây dựng Đảng, dân vận, mặt trận, đoàn thể; kỹ năng quản lý,
điều hành và xử lý tình huống v.v.
Đây có thể xem là một trong những mô hình mới về công tác đào tạo, bồi dưỡng
theo đơn đặt hàng, kết hợp với lý luận và thực tiễn công tác đang diễn ra tại các
địa phương. Trong quá trình học tập, tổ chức trao đổi, làm bài tập và xử lý những
tình huống thực tế xảy ra trong quá trình giải quyết công việc để từ đó giúp học
viên rút kinh nghiệm chỉ đạo, điều hành công tác tại cơ sở tốt hơn./.
Công Chánh (VP CLB)
ĐÀ NẴNG THÍ ĐIỂM THI TUYỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRẦN THỌ
Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng
(Cập nhật: 16/7/2007)
Năm 2003, sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành nghị


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

định về tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và đơn
vị sự nghiệp, theo đó, việc tuyển dụng công chức đều phải thông qua thi tuyển. Đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý đến nay không có quy định thi tuyển mà thực hiện
theo cơ chế bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý được thực hiện theo
quy trình, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tranh thủ được ý kiến của cán bộ,
công chức trong cơ quan, đơn vị và cấp uỷ địa phương nơi cán bộ cư trú. Tuy
nhiên, việc bổ nhiệm ít nhiều vẫn còn dựa trên cảm tính của một số cán bộ, cơ
quan thẩm định, đánh giá và quyết định.
Để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo cơ hội
động viên, khuyến khích những người có tài năng và phẩm chất đạo đức tốt tham

gia vào công tác lãnh đạo, điều hành, Đại hội đại biểu lần thứ XIX (2005-2010)
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã xác định: “Thực hiện tốt cơ chế tuyển chọn cán bộ.
Xây dựng đề án và triển khai thí điểm việc thi tuyển vào các chức danh bổ nhiệm
cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước”.
Thành phố Đà Nẵng hiện có 151 đơn vị sự nghiệp, với số lượng cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp trưởng và phó là 337 người, số đông đã được đào tạo cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, có năng lực quản lý, điều hành. Tuy nhiên, vẫn
còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới, một số nơi chưa chuẩn bị tốt nguồn cán bộ trẻ thay thế… Từ chủ trương
của Ban thường vụ Thành uỷ, UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Đề án thực
hiện thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý một số đơn vị sự nghiệp thuộc UBND
thành phố. Đây là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, tạo ra một hướng mới trong công tác cán bộ. Thực hiện Đề án, Ban
Tổ chức Thành ủy phối hợp với các cơ quan chức năng xác định chương trình, nội
dung và kế hoạch triển khai. Trước mắt, tổ chức làm thí điểm tại Trung tâm Đăng
kiểm xe cơ giới, Trường THPT Phan Châu Trinh, Trường THPT Thái Phiên. Việc thi


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý tuân thủ nguyên tắc Đảng lãnh đạo và thống nhất quản
lý đội ngũ cán bộ. Thi tuyển được tổ chức công khai với các tiêu chí cụ thể và được
công bố công khai trước kỳ thi. Người đủ điều kiện dự tuyển có cơ hội ngang nhau
trong thi tuyển. Người trúng tuyển được bổ nhiệm là người đáp ứng cao nhất các tiêu
chí đánh giá của kỳ thi.
Quy trình thực hiện thí điểm thi tuyển bao gồm các bước: Các sở, ban, ngành có đơn
vị sự nghiệp trực thuộc được các ngành chức năng lựa chọn đề xuất hoặc có nhu cầu
thi tuyển xây dựng kế hoạch trình UBND thành phố phê duyệt, đồng thời thông báo
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng của thành phố, sau đó tiến hành
thu nhận, kiểm tra, thẩm định, xét duyệt hồ sơ của người dự tuyển.

Người tham gia thi tuyển là cán bộ, công chức, viên chức trong biên chế hoặc hợp
đồng lao động, kể cả đối tượng được tiếp nhận theo chính sách thu hút nguồn nhân
lực của UBND thành phố hiện đang công tác tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài thành phố Đà
Nẵng. Người dự thi phải đáp ứng tiêu chuẩn: Có phẩm chất đạo đức tốt, lịch sử chính
trị rõ ràng, không vi phạm những quy định của Đảng và Nhà nước, có bằng đại học hệ
chính quy tập trung với chuyên ngành đào tạo phù hợp với lĩnh vực hoạt động và chức
năng, nhiệm vụ của đơn vị thực hiện thi tuyển, biết sử dụng ngoại ngữ và tin học để
phục vụ cho công tác quản lý, điều hành, tuổi đời từ 25 đến 45, riêng cán bộ, công
chức, viên chức hiện đang giữ chức vụ trưởng, phó phòng cấp sở, giám đốc, phó giám
đốc các đơn vị sự nghiệp không quá 50 tuổi.
Hình thức thi tuyển gồm thi viết và bảo vệ đề án. Bài thi viết với các nội dung: Trình
bày chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, bộ máy của đơn vị có nhu cầu thi tuyển;
mô tả vị trí, chức trách, quyền hạn và trách nhiệm của giám đốc, phó giám đốc đơn vị
đó; dự báo kết quả, hiệu quả hoạt động và tăng trưởng của đơn vị. Sau khi bài thi viết


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

được chọn, người dự tuyển sẽ bảo vệ Đề án tổ chức hoạt động và phát triển đơn vị,
nêu các giải pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển đơn vị bền vững
và tốt hơn trong thời gian tới.
Hội đồng thi tuyển do Chủ tịch UBND thành phố làm Chủ tịch. Phó chủ tịch hội đồng
là giám đốc sở có đơn vị thi tuyển và Giám đốc Sở Nội vụ. Các uỷ viên gồm đại diện
lãnh đạo các sở: Tài chính, Khoa học và công nghệ, các chuyên gia, nhà khoa học,
giảng viên ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành.
Người trúng tuyển có nghĩa vụ chấp hành tốt nội quy, quy chế làm việc của cơ quan,
đảm bảo sự lãnh đạo của cấp uỷ và thủ trưởng đơn vị, thực hiện có kết quả cao nhất
đề án đã bảo vệ trước hội đồng thi tuyển. Về quyền lợi, người trúng tuyển được tạo
điều kiện thuận lợi để tiếp cận nhanh công việc, phát huy tài năng trong tổ chức hoạt

động, quản lý; được hưởng một số ưu đãi như thêm một khoản phụ cấp bằng một lần
lương của ngạch, bậc lương hiện hưởng (trong một số đơn vị đặc thù, khoản phụ cấp
này có thể cao hơn); được cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước và nước ngoài theo các
quy định của UBND thành phố; được đăng ký hộ khẩu thường trú, thuê nhà chung cư
để ở; được ưu tiên tiếp nhận vợ hoặc chồng vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc
thành phố như các đối tượng được tiếp nhận theo quy định tại Quyết định số
86/2000/QĐ-UB ngày 2-8-2000 của UBND thành phố...
Với sự quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, từ tháng 9-2006 đến tháng
3-2007, Đà Nẵng đã thí điểm thi tuyển thành công chức danh trưởng phòng tại Trung
tâm Đăng kiểm xe cơ giới thuộc Sở Giao thông - Công chính; Phó hiệu trưởng
Trường THPT Phan Châu Trinh; Hiệu trưởng Trường THPT Thái Phiên thuộc Sở
Giáo dục và Đào tạo. Tại Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới, số người đăng ký dự
tuyển chức vụ trưởng phòng và tương đương là 8 người, số đạt yêu cầu và đã trúng
tuyển là 2 người. Tại Trường THPT Phan Châu Trinh đã chọn được 1 phó hiệu trưởng


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

trong số 3 người dự tuyển và tại Trường THPT Thái Phiên đã chọn được hiệu trưởng
trong số 5 người dự tuyển. Việc thi tuyển tại 3 đơn vị trên đảm bảo công khai, khách
quan; các cán bộ trúng tuyển đều đáp ứng tiêu chuẩn chức danh theo quy định, đề án
tổ chức hoạt động và phát triển đơn vị được Hội đồng thi tuyển đánh giá cao vì tính
thực tiễn và khả năng ứng dụng. Hiện nay, số cán bộ trúng tuyển đã được Chủ tịch
UBND thành phố phê chuẩn và có quyết định bổ nhiệm. Họ đã và đang bắt tay triển
khai thực hiện các nội dung đề án với tinh thần phấn chấn và trách nhiệm cao nhất.
Đây là những đơn vị đầu tiên thực hiện thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý,
thu hút được cán bộ giỏi, có năng lực đăng ký tham gia thi tuyển và đã chọn được
những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, đủ khả năng hoàn thành tốt trọng trách
được giao, hứa hẹn thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đơn vị. Những kết
quả bước đầu cho thấy, hình thức lựa chọn cán bộ lãnh đạo qua thi tuyển đã phát

huy dân chủ, công khai, được sự nhất trí, ủng hộ cao của các cấp chính quyền trong
thành phố và đông đảo cán bộ, công chức tại địa phương.
Rút kinh nghiệm các lần thi vừa qua, sắp tới, Đà Nẵng sẽ tiếp tục mở rộng thi
tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở một số đơn vị sự nghiệp khác, góp phần tạo
nguồn quy hoạch các chức danh cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Thành uỷ quản
lý. Tin tưởng rằng, bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng và
Nhà nước về quy trình bổ nhiệm cán bộ hiện nay, việc thực hiện thi tuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý sẽ là một giải pháp tốt, có hiệu quả để nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ.

60 năm nhà nước của dân, do dân, vì dân – Những thành tựu lập pháp
Kể từ thời khắc lịch sử ấy, ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được truyền đến triệu triệu


Ketnooi.com kết nối công dân điện tử

con tim của đồng bào đất Việt, khẳng định từ đây chính quyền về tay nhân dân, từ
đây nhân dân ta là người chủ đất nước và long trọng tuyên bố với thế giới sự ra
đời của Nhà nước công nông đầu tiên ở cõi á đông. Đã 60 năm qua, lịnh sử quật
cường của dân tộc khắc ghi vào thế kỷ 20 biết bao chiến công huy hoàng trong
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn lịch sử hào hùng, hoạt động lập pháp của
chính quyền nhân dân được khai sinh, lớn mạnh và đóng góp những thành tựu to
lớn trong sự trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam – Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Ngày 8 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I, Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam được thông qua. Sự ra đời của Hiến pháp là kết tinh
thành tựu của cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân do Đảng lãnh
đạo, là nền tảng pháp lý xây dựng chính quyền của dân, xoá bỏ hệ thống pháp luật

nô dịch, thực dân, phong kiến đầy ải, bóc lột đến tận xương tuỷ người dân, thúc
đẩy sự hình thành hệ thống pháp luật mới, công bằng, bình đẳng và tiến bộ. Và
chính nó đặt nền móng cho sự phát triển hoạt động lập pháp .
Khi đất nước vừa giành được độc lập, chính quyền non trẻ đứng trước thách
thách cam go, trình độ phát triển kinh tế xã hội manh mún, giặc đói, giặc dốt
hoành hành, năng lực quản lý nhà nước còn thấp kém, hoạt động của bộ máy
chính quyền mang tính thời chiến, Quốc hội không thể tiến hành họp thường
xuyên, mà giao một số quyền hạn cho Ban thường trực của Quốc hội hoạt động
bên cạnh Chính phủ, giám sát Chính phủ ban hành các văn bản cần thiết phục vụ
yêu cầu trong giai đoạn kháng chiến . g chiến .
Trong bối cảnh đó, năm 1953, Quốc hội ban hành luật cải cách ruộng đất đạo luật thiết yếu phục vụ cho cách mạng. Sau năm 1953 đến năm 1959, Quốc hội
ban hành được 7 luật quy định một số quyền cơ bản về tự do báo chí, lập hội. Có


×