Tải bản đầy đủ (.pptx) (36 trang)

em yêu lịch sử việt nam(hải anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.5 KB, 36 trang )

Em yêu lịch sử Việt Nam
Phạm Hải Anh

Lớp:7a14


1.Sơ lược về lịch sử Việt Nam
Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm
trước công nguyên, còn tính từ khi nhà nước được hình thành thì mới khoảng từ
hơn 4000 năm trước đây (theo truyền thuyết).
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt
Nam từ thời kỳ Đồ đá cũ thuộc các nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi
Nhụ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn tại vùng này đã
phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước. Những
người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng - Văn minh sông Hồng và sông Mã
này đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt
của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa
nước và văn hóa làng xã.


Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên đã xuất hiện nhà nước đầu tiên của người Việt
trên miền Bắc Việt Nam ngày nay, theo sử sách đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Vua
Hùng được nhiều người ghi nhận ra là một quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt Nam, bắt đầu với
truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.



I.Thời kì đầu dựng nước
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, 15 bộ lạc sinh sống
tại vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, miền bắc Việt Nam ngày nay
thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên của người Việt.


Kinh đô đóng tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày nay). Vua nước Văn Lang,
tất cả 18 đời, đều xưng là Hùng Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng chiến chống lại quân Tần Thủy
Hoàng (218-208), nhà nước phong kiến Trung Quốc ở phương Bắc, Thục
Phán lên làm vua nước Văn Lang xưng là An Dương Vương và đổi tên
nước thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) làm kinh
đô.


II.Thời kỳ bị phong kiến phương
Bắc đô hộ
Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu Đà xâm lược.
(Triệu Đà là tướng quân của nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, ông ta
nhân cơ hội chiếm phần đất do mình được giao cai quản ở phía nam nước
Tần lập nên nước Nam Việt. Còn nhà Tần thì bị nhà Hán thay thế.) Nước Âu
Lạc bị đô hộ mở đầu cho thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất hận dài
đằng đẵng hơn 1000 năm của dân tộc Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành
các quận, huyện của các nhà nước phong kiến phương Bắc (qua các triều đại
Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường của Trung Quốc).
Trong thời gian này, tuy bị cai trị, bóc lột tàn nhẫn, hà khắc nhưng nhân dân
ta vẫn không những chẳng khi nào chịu khuất phục mà còn liên tục vùng lên
đấu tranh nhằm giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.


Sau CN,năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi nghĩa giành
thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm sau. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.
Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ tay nhà
Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước

mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế
thua trận liên tục phải rút về động Khuất Lão. Tại đây ông bị bệnh chết. Triệu
Quang Phục lên thay. Triệu Quang Phục lui quân về đầm Dạ Trạch thực hiện
chiến tranh du kích. Cuối cùng năm 550, Triệu Quang Phục mới giành được
thắng lợi, khôi phục nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến năm
571, Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.


Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược của giặc, nước ta lại rơi vào tay nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà Đường công nhận chính quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán là một nước do Luu Ẩn, tướng của nhà Hậu Lương cát cứ vùng đất Hoa Nam
mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành lập (nhà Lương cướp ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu nước ta lúc đó
là Khúc Thừa Mỹ không chống lại được, bị bắt sang Nam Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức nhiều cuộc kháng chiến.


Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo thành công. Ông được tôn làm Tiết Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ khởi
binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua Nam Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo đường thủy định phối hợp với Kiều Công
Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận
địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô Quyền ở cửa sông Bạch Đằng thì bị đánh cho tan
tác. Hoằng Tháo chết trận, quân Nam Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.


.

Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ
hòan toàn cho nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc.

Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh hỗn lọan, tranh dành quyền
lực giữa các phe phái tướng lĩnh và con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương
Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn chết, các tướng lĩnh địa
phương thi nhau cát cứ. Đất nước bị chia cắt thành 12 sứ quân.



III.Thời kỳ các nước phong kiến
Việt Nam
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông đánh đâu thắng đấy nên
đuợc dân chúng tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế
xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều thần bắt giết Đỗ
Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ
chính được giao cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua còn
nhỏ tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua
quân xâm lược. Được tin, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi
báu cho Lê Hòan để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.



Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành).
Ông gấp rút tổ chức lại bộ máy hành chính, chỉnh đốn quân đội
chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường
thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt, và tài mưu lược. Lê Hoàn đánh bại quân
Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi báu.
Lê Long Đĩnh thắng lên làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông vua này rất

thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng dân chúng .


Vua Lê Hoàn


Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người, Lý
Công Uẩn tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập ra triều đại nhà Lý kéo dài 216
năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân
Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông và Lý Chiêu
Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên thành
Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung
Quốc cho là cơ hội tốt chuẩn bị lương thảo có ý xâm lược nước ta. Vì
vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt nắm trọn binh
quyền.


Hình ảnh vua Lý Công Uẩn


Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương "đánh phủ đầu" quân Tống để tự
vệ trước bèn tập trung 10 vạn quân thủy bộ chia làm hai đường đánh
sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ trữ lương thảo hậu cần
nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống đang chuẩn bị
để phục vụ cho cuộc xâm lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu,
quận bộ đánh Ung Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa
tháng sau chính quyền Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống
lập tức chuẩn bị đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.

Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục
đích và rút về nước cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân
Tống còn chưa kịp lên đường.. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ
đánh Ung Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau
chính quyền Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống lập tức
chuẩn bị đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục
đích và rút về nước cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân
Tống còn chưa kịp lên đường.


Lý Thường Kiệt


...Cuối cùng,Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam đã lật đổ được chính quyền của Pháp, Nhật, lật đổ chế
độ quân chủ phong kiến của nhà Nguyễn để lập nên nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một thể chế nhà nước mới mà
tất cả nhân dân lao động được làm chủ đất nước, bình đẳng
với nhau, không có ai bóc lột ai cả.



Nước Việt Nam thời kì 19451975
Tháng 8/1945, Pháp nổ súng tái chiếm Nam Kỳ mở đường xâm lược Việt
Nam lần 2.
Tháng 12/1946, Pháp ra tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam ở Hà Nội, phải
giải tán quân đội, giao nộp vũ khí. Biết đã tới giới hạn cuối cùng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cử một bộ phận quân đội ở

lại cầm cự với Pháp tại Hà Nội, còn lại rút hết lên vùng rừng núi phía Bắc,
lập căn cứ kháng chiến.


Không đựơc đáp ứng tối hậu thư, Pháp tấn công Hà Nôi, quân Việt Nam
chặn quân Pháp ở đó hơn hai tháng, khi đại quân và tài sản đã di tản lên
căn cứ kháng chiến an toàn thì rút đi. Pháp chiếm được Hà Nội và sau đó
mở rộng ra khắp vùng đồng bằng bắc bộ. Tuy nhiên không tiêu diệt được
chính phủ của Hồ Chí Minh.
Pháp tuy chiếm được Việt Nam nhưng phần lớn chỉ có đủ quân để giữ các
vùng đô thị. Nhân dân Việt Nam tổ chức đánh du kích ở vùng nông thôn và
rừng núi. Pháp càng đánh càng đuối sức trong khi quân Việt Nam càng
đánh càng trưởng thành và lớn mạnh. Đến năm 1950 thì quân đội Việt Nam
đã bắt đầu lấy lại thế chủ động có thể đánh những trận lớn trực diện. Và
đến năm 1953 thì Pháp đã rơi vào tình thế bị động đối phó.


Năm 1954, với nỗ lực nhằm giành lại thế chủ động trên chiến
trường, Pháp ra sức càn quét, tăng cường bắt lính để mở rộng
nguỵ quân, xin thêm viện binh, viện trợ vũ khí. Xây dựng những
cứ điểm phòng thủ ở miền bắc để thi hành kế hoạch Nava:
phòng thủ ở miền bắc, bình định miền Nam, sau khi bình định
miền Nam sẽ có thêm nhiều ngụy quân và thanh thế tiến ra
miền bắc tiêu diệt quân bắc Việt. Và Điện Biên Phủ là một trong
những cứ điểm lớn nhất, mạnh nhất, đông quân nhất và
“không thể công phá” tại Đông Dương đã được xây dựng với
sự giúp đỡ của người Mỹ. Pháp định dùng nó làm cái bẫy để
nhử quân Việt Nam vào đánh để tiêu diệt. Thế nhưng…



Tháng 5/1954, cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Việt
Minh bắt sống toàn bộ 16 nghìn quân Pháp trong đó có cả sở chỉ huy.
Cả thế giới chấn động. Thất bại này khiến Pháp phải ký hiệp định Giơ ne
vơ chấm dứt xâm lược Việt Nam, chấm dứt sự hiện diện của quân đội
nước ngoài tại Việt Nam.
Pháp rút, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam dựng nên chính quyền tay
sai là Ngô Đình Diệm đàn áp những người chống đối.


×