ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN VĂN TRÌNH
SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÀ HOA TIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC
NĂM 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________
______________
NGUYỄN VĂN TRÌNH
SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ CỦA SINH
VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÀ HOA TIÊN
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hà
HÀ NỘI – 2015
MỤC LỤC
Lời cam đoan
3
Lời cảm ơn
4
Danh mục chữ viết tắt
5
Danh mục biểu đồ
6
Danh mục bảng
7
MỞ ĐẦU
8
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.
Sơ lược lịch sử nghiên cứu về thích ứng
12
12
1.1.1. Một số nghiên cứu về thích ứng ở nước ngoài
12
1.1.2. Một số nghiên cứu về thích ứng ở trong nước
15
1.2.
Một số khái niệm cơ bản
19
1.2.1. Khái niệm thích ứng
19
1.2.2. Khái niệm hoạt động học tập
23
1.2.3. Khái niệm đào tạo
25
1.2.4. Khái niệm sinh viên
35
1.2.5. Khái niệm sự thích ứng với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ
của sinh viên
36
1.3. Biểu hiện sự thích ứng tâm lý trong hoạt động học tập đào tạo theo
tín của của sinh viên Đại học Hà Hoa Tiên
39
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý sinh viên trường Đại học Hà Hoa Tiên
39
1.3.2. Thích ứng về mặt nhận thức
45
1.3.3. Thích ứng về mặt thái độ
48
1.3.4. Thích ứng về mặt hành vi
49
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học tập đào tạo
theo tín chỉ của sinh viên Đại học Hà Hoa Tiên
50
1.4.1. Yếu tố chủ quan
50
1.4.2. Yếu tố khách quan
52
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1
56
2.1. Đôi nét về khách thể nghiên cứu
56
2.1.1. Đôi nét về trường Đại học Hà Hoa Tiên
56
2.1.2. Khách thể nghiên cứu
56
2.2. Tổ chức nghiên cứu
57
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
57
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
57
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
58
2.3.3. Phương pháp quan sát
63
2.3.4. Phương pháp phỏng vấn
63
2.3.5. Phương pháp xử lý kết quả bằng thống kê toán học
64
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
66
3.1. Thích ứng của sinh viên Đại học Hà Hoa Tiên với hoạt động học tập
đào tạo theo tín chỉ.
66
3.1.1. Thích ứng biểu hiện ở mặt nhận thức của sinh viên trường Đại học Hà
Hoa Tiên với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ
66
3.1.2. Thích ứng biểu hiện về mặt thái độ của sinh viên trường Đại học Hà
Hoa Tiên với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ
78
3.1.3. Thích ứng biểu hiện về mặt hành vi của sinh viên trường Đại học Hà
Hoa Tiên với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ
85
3.1.4. Tổng hợp mức độ thích ứng trong hoạt động học tập đào tạo theo tín
chỉ của sinh viên trường Đại học Hà Hoa Tiên.
101
3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự thích ứng với hoạt động học tập đào
tạo theo tín chỉ của sinh viên trƣờng Đại học Hà Hoa Tiên
106
3.2.1. Các yếu tố chủ quan
106
3.2.2. Các yếu tố khách quan
110
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
121
PHỤ LỤC
123
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Mạnh Hà. Các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2015
Tác giả
NGUYỄN VĂN TRÌNH
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN, Ban Chủ nhiệm Khoa Tâm
lý học cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm Mạnh Hà,
người đã tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời biết ơn đến Ban Giám hiệu,
Phòng Quản lý Đào tạo, Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo
dục, các khoa/bộ môn, các giảng viên và sinh viên trường Đại học Hà
Hoa Tiên đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người
thân, bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn động viên, khuyến
khích và giúp đỡ tôi về mọi mặt, để tôi có thể hoàn thành luận văn của
mình.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Trình
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Xin đọc là
Chữ viết tắt
CĐSP
Cao đẳng sư phạm
HĐHT
Hoạt động học tập
ĐHQGHN
Đại học Quốc Gia Hà Nội
ĐHKHXH&NV
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
HSPT/THPT
Học sinh phổ thông/Trung học phổ thông
ĐBCL&KT
Đảm bảo chất lượng và khảo thí
CĐ
Cao đẳng
TC
Tín chỉ
ĐTB
Điểm trung bình
TBC
Trung bình cộng
5
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc lên kế
hoạch học tập đào tạo theo tín chỉ
Biểu đồ 3.2: Mức độ thích ứng biểu hiện ở mặt nhận thức
6
72
78
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: So sánh sự khác nhau giữa đào tạo niên chế và tỉn chỉ
30
Bảng 3.1: Nhận thức của sinh viên về mô hình đào tạo tín chỉ và niên chế
67
Bảng 3.2: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của hoạt động học tập
69
Bảng 3.3: Nhận thức của sinh viên về việc thay đổi phương pháp học tập
74
Bảng 3.4: Nhận thức về mục đích của các hoạt động học tập khi đến lớp học
75
Bảng 3.5: Thái độ của sinh viên đối với việc ủng hộ hoạt động đào tạo theo
tín chỉ
79
Bảng 3.6: Thái độ của sinh viên đối với việc lập kế hoạch học tập
81
Bảng 3.7: Thái độ của sinh viên trong việc chủ động tham gia vào các buổi
thảo luận nhóm/Seminar
83
Bảng 3.8: Hành vi của sinh viên đối với các hoạt động học tập đào tạo theo
tín chỉ
86
Bảng 3.9: Hành vi thực hiện hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp
89
Bảng 3.10: Hành vi của sinh viên tham gia vào việc học tập thảo luận
nhóm/Seminar
91
Bảng 3.11: Hành vi của sinh viên về các việc làm khi lên lớp học
93
Bảng 3.12: Hành vi của sinh viên thực hiện việc ghi chép bài trên lớp
95
Bảng 3.13: Hành vi của sinh viên khi gặp những khó khăn trong hoạt động
học tập
98
Bảng 3.14: Mức độ thích ứng biểu hiện về mặt nhận thức, thái độ, hành vi
101
Bảng 3.15: Mức độ thích ứng của sinh viên Đại học Hà Hoa Tiên
103
Bảng 3.16: Kết quả thực hiện các bài kiểm tra của sinh viên Hà Hoa Tiên
104
Bảng 3.17: Kết quả học tập của sinh viên năm học 2014-2015
105
Bảng 3.18: Yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học tập
106
Bảng 3.19: Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học
tập
110
7
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo theo tín chỉ đã được áp dụng vào việc đào tạo ở bậc đại học
từ lâu trên thế giới, ở các đại học danh tiếng của các nước phương Tây. Năm 2007 ở
Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”, và năm 2011 là hạn cuối cùng để các
trường trên cả nước phải chuyển đổi sang hệ thống đào tạo mới này, cho đến nay
hầu như các trường đại học và cao đẳng đã áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ
trong quy mô đào tạo hệ chính quy của mỗi trường và Đại học Hà Hoa Tiên đã áp
dụng đào tạo tín chỉ cho sinh viên của mình.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là mô hình đào tạo mới đối với giáo dục đại học
Việt Nam, đòi hỏi cả người dạy và người học, đặc biệt là sinh viên phải nâng cao
tính tích cực, có thái độ ý thức trách nhiệm của bản thân, chủ động, sáng tạo nắm
lấy những phương pháp, kỹ năng, công cụ cần thiết để tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự
tổ chức, định hướng của người thầy. Điều này khác xa so với cách học theo ở
trường phổ thông hay theo chương trình đào tạo niên chế. Song, trong quá trình
thực hiện, nhiều sinh viên gặp không ít khó khăn trong việc tìm ra cách thức phù
hợp để đáp ứng với yêu cầu học tập cao của chương trình đào tạo theo mô hình tín
chỉ với nhiều đổi mới trong phương pháp giảng dạy và học tập. Đây cũng là một
trong những lý do khiến kết quả học tập của nhiều sinh viên còn thấp.
Trường Đại học Hà Hoa Tiên áp dụng thực hiện chương trình đào tạo theo hệ
thống tín chỉ từ năm 2011 cho đến nay. Bên cạnh nhiều mặt tích cực do chương
trình đào tạo mang lại, thì cũng đã nảy sinh một số bất cập. Kết quả học tập của sinh
viên chưa cao so với các khóa học theo chương trình đào tạo niên chế trước đây.
Sinh viên còn chưa chủ động trong việc học tập đặc biệt là việc xây dựng kế hoạch
học tập cho từng môn học, cho từng học kỳ và cho cả khóa học, hay là việc lên kế
hoạch chủ động tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp. Vì vậy, việc nghiên cứu sự
thích ứng với hoạt động học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên trường Đại học
8
Hà Hoa Tiên lại thiết thực cho việc nâng cao kết quả học tập, vừa mang lại ý nghĩa
lý luận và ý nghĩa thực tiễn cho sinh viên trường Đại học Hà Hoa Tiên hiện nay.
Kết quả nghiên cứu sẽ chỉ ra mức độ thích ứng với hoạt động học tập theo
học chế tín chỉ của sinh viên Trường Đại học Hà Hoa Tiên nói riêng và việc áp
dụng đào tạo tín chỉ trên cả nước nói chung.
Với những lý do trên chúng tôi đã chọn vấn đề: “Sự thích ứng với hoạt động
học tập đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường Đại học Hà Hoa Tiên” làm đề
tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các biểu hiện trong hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ
của sinh viên Đại học Hà Hoa Tiên qua đó chỉ ra được mức độ thích ứng của sinh
viên khi áp dụng đào tạo theo tín chỉ. Từ đó, đề xuất một số biện pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động đào tạo theo tín chỉ đối với sinh
viên nhà trường.
3.
Đối tƣợng nghiên cứu
Mức độ thích ứng với hoạt động đào tạo theo tín chỉ của sinh viên Trường
Đại học Hà Hoa Tiên.
4.
Giả thuyết nghiên cứu
Mức độ thích ứng với hoạt động đào tạo theo tín của sinh viên trường Đại
học Hà Hoa Tiên ở mức trung bình và có mức độ thích ứng khác nhau giữa các năm
học. Sinh viên năm thứ nhất thích ứng chậm hơn so với sinh viên năm thứ hai và
các năm về sau. Có cả yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến vấn đề thích
ứng với hoạt động học tập học tập đào tạo theo tín chỉ của sinh viên, tuy nhiên yếu
tố chủ quan là yếu tố tác động mạnh mẽ hơn.
5.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Cụ thể xây dựng các khái niệm
công cụ của đề tài: Thích ứng, hoạt động học tập, sinh viên, quy chế đào tạo theo tín
chỉ, niên chế, sự thích ứng với hoạt động học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên.
9
Nghiên cứu chỉ ra thực trạng mức độ sự thích ứng với hoạt động học tập đào
tạo theo tín chỉ của sinh viên trường Đại học Hà Hoa Tiên.
Phân tích một số tác động chủ yếu và những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
thích ứng với hoạt động học tập khi đào tạo theo tín chỉ.
Đề xuất một số những kiến nghị, đưa ra một số giải pháp nhằm giúp sinh
viên Đại học Hà Hoa Tiên nhanh chóng thích ứng với hoạt động học tập khi đào tạo
theo tín chỉ.
6.
Khách thể và giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài lựa chọn 180 sinh viên năm 1,2,3,4, của Đại học Hà Hoa Tiên để tiến
hành nghiên cứu.
- Giới hạn nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu sự thích ứng của sinh viên trong
hoạt động học tập khi áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
7.
Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Thu tập, phân tích và tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
nghiên cứu. Trên cơ sở đó xác định rõ nội dung của các khái niệm cơ bản, xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Phương pháp quan sát
Dự giờ tại một số lớp được nghiên cứu để quan sát việc học tập của sinh viên
ở trên lớp có hòa nhập với cách giảng dạy mới hay không.
Quan sát một số hoạt động học tập ngoài giờ của sinh viên (tại thư viện khoa,
thư viện trường), và kế hoạch học tập cho từng môn học, từng học kỳ và cho cả
khóa học.
7.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đề tài sử dụng một bảng hỏi dành cho sinh viên từ năm thứ nhất cho đến
năm thứ tư. Trong bảng hỏi sử dụng các câu hỏi đóng để sinh viên lựa chọn các ý
kiến phù hợp với mình, câu hỏi mở để thu thập những đánh giá, góp ý và đề xuất
của sinh viên. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng câu hỏi kết hợp (đóng và mở) để thu
10
thập những thông tin phong phú thêm nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu. Chúng
tôi mô tả cụ thể trong chương 2.
7.4. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn khoảng 10 sinh viên học tập tại các lớp mà đề tài nghiên cứu để
thu thập những thông tin cần thiết nhằm làm rõ hơn các nội dung nghiên cứu trong
đề tài.
7.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng kết quả học tập của sinh viên từng
lớp như là sản phẩm của hoạt động học tập và so sánh kết quả này với mức độ thích
ứng trong hoạt động học tập theo mô hình đào tạo tín chỉ của sinh viên.
7.6. Phương pháp thống kê toán học:
Xử lý các kết quả nghiên cứu bằng phần mềm SPSS
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.
Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu về thích ứng
1.1.1. Một số nghiên cứu về thích ứng ở nước ngoài
Các tác giả nước ngoài có rất nhiều nghiên cứu về thích ứng cụ thể như sau:
Năm 1925, Harvey Carr cho rằng học tập là một công cụ quan trọng được
con người sử dụng để thích nghi với môi trường. Ông đã tập trung nghiên cứu hành
vi thích nghi. Theo ông, hành vi thích nghi gồm 3 thành phần: 1/Một động lực dùng
như một kích thích cho hành vi (ví dụ: đói, khát); 2/Một khung cảnh môi trường hay
hoàn cảnh mà sinh vật ở trong đó; 3/Một phản ứng thoả mãn động lực kia (ví dụ:
ăn, uống)
Một số tác giả Liên xô (cũ) như N.D. Carsev, L.N.Khadecva, K.D.Pavlov
năm 1968 đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp trong đó họ
đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học sinh với chế độ học
tập và rèn luyện trong nhà trường. Những phản ứng sinh lý, những biến đổi của các
hệ số tương quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh. L. X. Vưgôtxki đã chỉ ra
sự khác biệt giữa sự thích ứng tâm lý - xã hội ở người và sự thích nghi sinh học ở
động vật. Bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hoá, xã hội, con người một mặt hình thành
các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt khác, hình thành các chức năng tâm lý cấp
cao để trở thành chủ thể của các hành vi đó.
Năm 1969, E.A.Ermolaeva đã nghiên cứu vấn đề “Đặc điểm thích ứng xã hội
và nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm”. Tác giả đã đưa ra khái
niệm “thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động với những đặc điểm và
điều kiện lao động trong tập thể nhất định” và đã đưa ra chỉ số cho sự thích ứng
nghề nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm.
Năm 1971, X.A.Kughen và O.N. Nhicandov, đã nghiên cứu sự thích ứng với
hoạt động lao động của các kỹ sư trẻ. Các tác giả này đã đưa ra nhiều mức độ thích
ứng khác nhau.
12
V.I.Alaudie và A.L.Meseracov, trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành
hoạt động học tập của các sinh viên thuộc Khoa Tâm lý học - Đại học tổng hợp
Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích ứng của sinh viên đại học với hoạt động học
tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình phát triển của người học, tiếp cận được
với hệ thống tri thức và kinh nghiệm lịch sử xã hội. Như vậy, thích ứng ở đây được
hiểu là khả năng tự tổ chức học tập của người học.
Năm 1972, D.A.Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng. Tác
giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học, đặc biệt
bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện đại để nghiên
cứu vấn đề thích ứng. Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với
điều kiện, hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những điều kiện mới một cách
không gượng ép. Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa về thích ứng: “là một quá trình tạo
ra một chế độ hoạt động tối ưu có mục đích của nhân cách, tức là con người vừa
thích nghi với điều kiện mới, vừa phải chủ động thâm nhập vào những điều kiện đó
để xây dựng một chế độ hoạt động mới, phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của
điều kiện mới”.
Ngoài ra, trong cuốn “Con người và xã hội”, Andreeva đã so sánh khái niệm
“thích ứng và xã hội hóa”. Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự khác biệt nhau về
nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của con người. Thích ứng
nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trường mới. Còn “xã hội hóa”, về cơ
bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân.
Từ đây, vấn đề thích ứng luôn được gắn liền với hoạt động có đối tượng cụ
thể. Hai quá trình này diễn ra đồng thời trong đó thích ứng là tiền đề để cho hoạt
động có hiệu quả của nhân cách với vai trò xã hội này hay khác.
A.I.Serbacov và A.B.Mudric đã nghiên cứu “sự thích ứng nghề nghiệp của
người thầy giáo” và đã nêu lên quan niệm chung về sự thích ứng của người thầy
giáo. Những yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến hiệu quả của sự thích
ứng đó.
13
Năm 1980, trong tạp chí “Những vấn đề tâm lý học” số 4, A.A.Krintreva đã
trình bày những nghiên cứu của mình về những đặc điểm tâm lý của sự thích ứng đối
với sản xuất ở những học sinh mới ra trường, ở các trường trung cấp, kỹ thuật chuyên
nghiệp và các trường phổ thông trung học. Tác giả cho rằng: thích ứng là quá trình làm
quen với sản xuất, là quá trình gia nhập dần vào sản xuất. Krintreva cũng đưa ra một số
chỉ số đặc trưng của sự thích ứng nghề nghiệp là:
+Sự thích ứng nhanh chóng nắm vững chuyên ngành sản xuất, các chuẩn
mực kỹ thuật.
+ Sự phát triển tay nghề
+ Vị trí xã hội trong tập thể.
+ Sự hài lòng đối với công việc và vị thế của mình trong tập thể.
Năm 1986, A.V.Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề thích
ứng học tập của sinh viên. Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên là một quá
trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt như: 1/Thích nghi với hệ thống học tập mới;
2/Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/Thích nghi với các mối quan hệ
mới. Các nội dung này đã được chúng tôi sử dụng và cụ thể hoá trong nghiên cứu.
Năm 1990, ở Mỹ, B.P. Allen đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của sinh
viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở trường đại
học. Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập của sinh viên là
hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Sử dụng quỹ thời gian cá nhân; 2/Kỹ năng
hình thành các hành động học tập và các phẩm chất khác (như tâm thế, sự lựa chọn
các hình thức, nội dung học tập; 3/kỹ năng làm chủ các cảm xúc tiêu cực; 4/kỹ năng
chủ động luyện tập và hình thành các thói quen hành vi mang tính nghề nghiệp.
Theo cách hiểu này, sự thích ứng (hay không thích ứng của sinh viên được giải
thích chủ yếu do sinh viên có (hay thiếu) một số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến
khía cạnh tổ chức trong hệ thống giáo dục của nhà trường đại học.
Năm 1992, trong tác phẩm "Sự thích nghi của con người", Richard E.
Tremblay (nhà TLH người Canada) đã phát biểu rằng: thích nghi tâm lý - xã hội là
sự tìm kiếm sự cân bằng giữa các xung năng, những ham muốn của bản thân với
14
những đòi hỏi, mong đợi từ môi trường bên ngoài. Theo ông, khi xem xét sự thích
nghi ở con người cần xem xét sự thích nghi bên ngoài và thích nghi bên trong của
bản thân. Ông cũng đã chỉ ra hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thích nghi ở
mỗi cá nhân: 1. Nhóm thứ nhất bao gồm các yếu tố thuộc về cá nhân như đặc điểm
di truyền, lịch sử phát triển của cá nhân, việc cá nhân được tự do lựa chọn hay
không khi thực hiện hành vi, cách ứng xử của mình; 2. Nhóm thứ hai là những yếu
tố của môi trường sống của cá nhân như điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội.
Và còn rất nhiều công trình nghiên cứu về thích ứng khác nữa, nhưng nhìn
chung, các tác giả nước ngoài đã có những công trình nghiên cứu về thích ứng để
xây dựng và khái quát những nét cơ bản nhất về sự thích ứng ở con người. Mỗi nhà
khoa học có những cách nhìn riêng về thích ứng, đó là những đóng góp khoa học rất
cần thiết cho các nhà khoa học sau này.
1.1.2.
Một số nghiên cứu về thích ứng ở trong nước
Ở nước ta bước đầu đã có một số nghiên cứu về những vấn đề thích ứng học
tập của sinh viên đại học của Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Hà Nhật Thăng;
Nguyễn Ngọc Phú… Cụ thể, chúng tôi xin liệt kê một số đề tài nghiên cứu về sự
thích ứng của các tác giả trong nước như sau:
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ mang tên
“Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục”. Tác
giả đã đưa ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp của giáo
viên tâm lý – giáo dục.
Năm 1982, Nguyễn Thị Trang, trường Đại học Sư phạm Hà Nội với đề tài
“Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý học giáo dục”
Năm 1983, Hoàng Trần Doãn với luận văn Thạc sỹ: “Sự thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên khoa văn và toán trường Đại học Sư phạm Hà Nội I”. Tác
giả đã đưa ra kết luận rằng: Thích ứng học tập là một quá trình thích nghi đặc biệt
của cá nhân đối với điều kiện mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào điều kiện mới
một cách thuần thục và chính trong quá trình đó, con người không thụ động mà
được bộc lộ trong quá trình hoạt động có đối tượng như một chủ thể động...
15
Từ năm 1994 – 1996 đã triển khai công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ với
đề tài “Sự thích nghi với hoạt động học tập của học sinh tiểu học” của tập thể cán
bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Tâm – Sinh lý học lứa tuổi, thuộc Viện khoa học
giáo dục do Vũ Thị Nho làm chủ nhiệm đề tài.
Năm 1998, Lê Thị Hương với luận văn Thạc sỹ “Nghiên cứu sự thích ứng với
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng Sư phạm Thanh Hoá”.
Tác giả đã nêu lên việc thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên là một quá trình
người sinh viên tích cực chủ động làm quen, hòa nhập vào các điều kiện học tập mới khác
về chất so với hoạt động học tập trong trường phổ thông trung học nhằm hình thành và
phát triển nhân cách của người cán bộ trong tương lai, thực hiện hiệu quả mục tiêu đào tạo
của nhà trường và đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại.
Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: “Sự thích ứng của sinh viên đối với học tập
và rèn luyện của học viên các trường Sỹ quan quân đội”
Năm 2000, Phan Quốc Lâm với Luận án Tiến sỹ “Sự thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh lớp I”
Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất Đại học quốc gia Hà Nội với
môi trường Đại học” do Trần Thị Minh Đức là Chủ nhiệm đề tài v.v...
Năm 2006, Vũ Mộng Đóa với luận văn Thạc sỹ “sự thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên khoa công tác xã hội và phát triển cộng đồng trường Đại học
Đà Lạt”. Tác giả đã nêu lên một số vấn đề: Mức độ thích ứng học tập có sự khác
biệt giữa các năm học, khác biệt theo nơi sinh sống của các em trước khi vào đại
học và có các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng học tập: Sự thích ứng học tập bị
tác động với thái độ học tập của sinh viên, sự thích ứng còn bị tác động bởi cách
dạy của giáo viên và sự thích ứng còn bị tác động bởi sự tìm hiểu thông tin về
ngành học mà mình đang học. Vì thế các em chưa có một tâm thế sẵn sàng để đón
nhận nó.
Năm 2009, Đỗ Thị Thanh Mai với luận án tiến sĩ về “Mức độ thích ứng với
HĐHT của sinh viên hệ Cao đẳng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội”. Tác giả
16
đã cho rằng: Sinh viên hệ cao đẳng thích ứng không giống nhau với hoạt động thực
hành các môn học tại trường. Đa số sinh viên năm thứ ba hệ cao đẳng thực hành
môn học tại trường. Trước khi tốt nghiệp, số sinh viên thích ứng với hoạt động thực
hành của sinh viên chịu sự chi phối bởi các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Đồng thời nâng cao nhận thức và thái độ đối với hoạt động thực hành môn học của
sinh viên sẽ nâng cao được kỹ năng thực hành môn học của sinh viên, đồng thời
nâng cao được mức độ thích ứng với hoạt động thực hành môn học của sinh viên,
kết quả học tập được nâng cao.
Năm 2009, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Thị Lan về “Mức độ thích ứng
với hoạt động học tập một số môn học chung và môn đọc hiểu tiếng nước ngoài của
SV Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN”. Tác giả đã đưa ra một số kết luận như
sau: Mức độ thích ứng với hoạt động học tập một số môn học chung và môn đọc
hiểu tiếng nước ngoài của sinh viên trong trường còn thấp, so với mức độ thích ứng
với hoạt động học tập một số môn học chung thì mức độ thích ứng hoạt động học
tập môn học hiểu tiếng nước ngoài còn thấp hơn. Có nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan ảnh hưởng đến mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
trong trường, trong đó yếu tố chủ quan có ảnh hưởng nhiều hơn. Nếu tổ chức và
hướng dẫn sinh viên thực hành một số hành động học cơ bản sẽ nâng cao khả năng
thích ứng với hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên.
Năm 2012, Vũ Dũng chủ biên đề tài “Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội
yếu thế ở nước ta hiện nay”, do nhà xuất bản từ điển Bách Khoa ban hành. Các tác
giả đã đưa ra kết luận về thực trạng thích ứng của các nhóm yếu thế là người cao
tuổi, người mắc bệnh, người tàn tật là thấp. Những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến
thực trạng nhận thức này là sức khỏe của các nhóm yếu thế, sau đó đến vấn đề vốn
sản xuất... Sự thích ứng của các nhóm yếu thế qua việc thay đổi việc làm và nghề
nghiệp cho thấy chỉ có một tỷ lệ khá thấp số người yếu thế được hỏi trả lời họ có sự
thay đổi việc làm, nghề nghiệp để thích ứng với cuộc sống. Còn trẻ em lang thang
cơ nhỡ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống từ nhu cầu vật chất đến tinh thần. Khó
khăn lớn nhất của các em là khó khăn về học tập, do các em không có khả năng học,
17
do thiếu điều kiện học tập. Khó khăn thứ hai là về ăn ở, đặc biệt là số các em sống
lang thang trên đường phố, nhiều em sống cùng gia đình cũng gặp khó khăn này do
gia đình không có chỗ phải đi thuê hay sống tạm bợ đâu đó. Một số khó khăn khác
là việc làm và giao tiếp...
Năm 2012, Hoàng Thế Hải và các cộng sự nghiên cứu về đề tài “Sự thích
ứng với hoạt động học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Đà Nẵng”. Tác giả đã kết luận mức độ thích ứng với hoạt động học
tập theo học chế tín chỉ của sinh viên trong trường còn thấp, sự khác biệt về mức độ
thích ứng giữa các hành động học tập cơ bản là không lớn.
Năm 2014, Nguyễn Đức Quỳnh với luận văn Thạc sỹ “Thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Phòng Cháy Chữa Cháy”.
Tác giả đã đưa ra kết luận rằng: Sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Phòng cháy
chữa cháy thích ứng với hoạt động học tập ở mức độ trung bình, biểu hiện qua các
mặt nhận thức, thái độ và hành động. Đồng thời có mối tương quan thuận và chặt
chẽ giữa thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất với kết quả
học tập. Sự thích ứng còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan và khách quan,
trong đó yếu tố chủ quan ảnh hưởng nhiều hơn yếu tố khách quan.
Còn rất nhiều luận văn về thích ứng khác mà trong khuôn khổ luận văn của
mình chúng tôi không thể thống kế hết được các tác giả trong nước đã nghiên cứu
về vấn đề thích ứng.
Như vậy, các tác giả trong nước đã có nhiều nghiên cứu về thích ứng ở nhiều
phương diện và nhiều góc nhìn khác nhau. Nhìn chung, các nghiên cứu trong và
ngoài nước tập trung vào nghiên cứu thích ứng vào đối tượng học sinh, hoặc các đối
tượng yếu thế trong xã hội…các công trình này đã góp phần khái quát và xây dựng
những nét cơ bản nhất về vấn đề thích ứng ở con người. Mỗi nghiên cứu đều tập trung
nêu một đến hai yếu tố ảnh hưởng cùng với sự phân tích sâu sắc những ảnh hưởng của
các yếu tố ảnh hưởng đó trong những trường hợp cụ thể. Đây chính là những đóng góp
rất lớn để các nhà giáo dục và bản thân người học tự rút ra những bài học nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học trong các nhà trường.
18
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm thích ứng
1.2.1.1. Định nghĩa
Thích ứng là phản ứng của cơ thể với những thay đổi của môi trường. Về
nguyên tắc có hai phương thức thích ứng khác nhau của cơ thể: Đối với những điều
kiện môi trường
-
Thích ứng bằng cách thay đổi cấu tạo và hoạt động của các cơ quan, đây là
phương thức phổ biến đối với động vật và thực vật.
-
Thích ứng bằng cách thay đổi hành vi mà không thay đổi tổ chức, phương
thức này chỉ đặc trưng cho động vật và gắn liền với sự phát triển tâm lý, phương
thức này được phân chia thành 2 hướng khác nhau: - Thay đổi chậm nhưng hình
thức hành vi được kế thừa – bản năng, mà sự tiến hóa của những bản năng này diễn
ra dưới ảnh hưởng của những thay đổi môi trường với tốc độ chậm. Phát triển năng
lực học tập của cá nhân, những lúc “hành động hợp lý” - Những thay đổi nhanh của
hành vi, “sáng tạo” ở mức độ nhất định những phương thức hành vi mới để đáp lại
những thay đổi nhanh của môi trường mà bản năng bị bất lực, những hoạt động này
không nhất thiết phải cố định, phải di truyền, vì sự ưu việt của chúng là tính mềm
dẻo cao, vì vậy, chỉ có những khả năng hành động quy định thứ bậc của tổ chức tâm
lý của sinh vật mới được di truyền.[3]
Thích ứng là một quá trình hòa nhập tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua
đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về mặt tâm lý.[5]
Theo từ điển tiếng việt thuộc trung tâm từ điển học của nhà xuất bản Đà
Nẵng đã định nghĩa: “Thích ứng là có những thay đổi cho phù hợp với điều kiện
mới, yêu cầu mới”. [11]
Thích ứng là quá trình cá nhân thông qua những hoạt động tích cực để lĩnh
hội các điều kiện mới hay hoàn cảnh mới qua đó đạt được các mục đích, yêu cầu đề
ra và tự trưởng thành về tâm lý. A.Maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những
cái vốn có của cá nhân trong những điều kiện sống nhất định. Sự không thích ứng
chính là sự không được tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển
19
nhân cách. Tiền đề để tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách,
được sắp xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu bẩm
sinh nhưng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp được thoả
mãn. Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng (của phân tâm học)
hay quá trình học tập (của chủ nghĩa hành vi), nhưng Maslow có quan niệm khác về
yếu tố quy định sự thích ứng. Theo ông, nhu cầu “tự thể hiện” mong muốn phát
triển hết mức khả năng vốn có của bản thân và năng lực lựa chọn một cách có ý
thức những mục tiêu hành động của nhân cách là yếu tố quyết định sự thích ứng của
con người. [20]
- Thích ứng là quá trình tích cực của chủ thể trong quá trình tác động qua lại
giữa chủ thể với môi trường mới, với những hoạt động có những yêu cầu mới.
- Kích thích chỉ xảy ra khi xuất hiện kích thích mới từ môi trường sống mới.
Khi điều kiện kích thích thay đổi, những đặc điểm về cơ thể, đặc điểm tâm lý trong
cấu trúc tâm lý không còn thích hợp để phản ứng thích hợp với môi trường sống
mới buộc chủ thể phải thay đổi cấu trúc tâm lý bên trong, trên cơ sở đó điều chỉnh,
hình thành hành vi mới cho phù hợp với điều kiện kích thích mới.
Kích thích tác động đến chủ thể có thể là một kích thích đơn, có thể là hệ
thống kích thích. Tùy theo dạng kích thích này, thì phản ứng thích ứng của chủ thể
có tính chất khác nhau.
-
Từ góc độ triết học, thích ứng được hiểu là sự thay đổi của bản thân con
người cho phù hợp với hoàn cảnh sống, để con người tồn tại và phát triển. Thích
ứng là quá trình con người nỗ lực làm chủ tự nhiên, cải tạo tự nhiên, giải quyết mối
quan hệ giữa con người với thế giới.
-
Từ góc độ sinh học, thích ứng là sự biến đổi cấu tạo, chức năng của cơ thể,
biến đổi hành vi để con người tồn tại và phát triển. Sự thích ứng của con người biến
đổi từ thấp đến cao.
-
Từ góc độ tâm lý học, thích ứng là sự biến đổi tâm lý của chủ thể nhằm vượt
qua những khó khăn, trở ngại, để tồn tại và phát triển trong môi trường sống. Tâm
lý học xem xét sự thích ứng của con người chủ yếu từ góc độ tâm lý xã hội.[4]
20
Theo chúng tôi, thích ứng là quá trình cá nhân tích cực tiếp cận và lĩnh
hội những khác biệt trong hoàn cảnh mới, qua việc chủ động thay đổi nhận thức,
thái độ, hành vi nhằm đạt được kết quả như mong muốn đối với bản thân cũng
như của xã hội hiện tại.
1.2.1.2. Vai trò
Sự biến đổi tâm lý của chủ thể đó là sự biến đổi về nhận thức, thái độ và
hành vi của chủ thể.
Thích ứng về mặt nhận thức thể hiện qua sự thay đổi về cách thức suy nghĩ,
hiểu biết của chủ thể về bản thân, về các vấn đề của cuộc sống và của xã hội nói
chung. Thích ứng về mặt nhận thức là sự thích ứng quan trọng vì nhận thức là cơ sở
định hướng cho thái độ và hành vi của con người. Không thay đổi về nhận thức thì
chủ thể không có khả năng hòa nhập với cuộc sống.
Thích ứng về mặt hành vi là thích ứng quan trọng nhất của con người. Bởi vì
hành vi là kết quả của quá trình nhận thức, xúc cảm và thái độ của con người, là
biểu hiện cuối cùng của tâm lý con người. Thích ứng về hành vi thể hiện con người
vượt qua khó khăn, trở ngại để hòa nhập cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Thích ứng chỉ xuất hiện khi con người gặp phải môi trường, hoàn cảnh sống
mới. Khi môi trường sống đó xuất hiện những trở ngại, khó khăn đòi hỏi con người
phải vượt qua.
Khi con người thích ứng được với môi trường sống mới có nghĩa là họ đang
tồn tại và phát triển được trong môi trường đó [4,tr.58].
1.2.1.3. Phân biệt thích ứng với thích nghi
Theo từ điển Tiếng Việt 1997 của trung tâm từ điển ngôn ngữ, thích nghi
được hiểu là: có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Thích
ứng có hai nghĩa: (1) Như thích nghi; (2) là do những thay đổi cho phù hợp với yêu
cầu, điều kiện mới.
Trong từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, thích
nghi xã hội là: 1/quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều kiện của
môi trường xã hội mới; 2/kết quả của quá trình trên. Thích nghi là sự thích ứng của
21
cấu trúc và các chức năng, các cơ quan và tế bào của cơ thể đối với những điều kiện
của môi trường, hướng tới sự duy trì cân bằng nội tại. Thích nghi tâm lý là sự thích
ứng của con người đối với những yêu cầu và tiêu chuẩn đánh giá hiện có trong xã
hội nhờ chiếm lĩnh được những chuẩn mực và giá trị của xã hội đó [3].
Theo từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994), khái niệm thích nghi
được giải thích là “có những biến đổi nhất định phù hợp với hoàn cảnh mới, môi
trường mới”.
“Thích nghi” được dùng trước hết và phổ biến trong sinh vật học. Theo A.N
Leonchiev, “Sự phát triển của con người không phải là quá trình thích nghi hiểu theo
nghĩa của từ này”. Charles Darwin là người đầu tiên đưa phạm trù “thích nghi” vào
ngành sinh vật học để chỉ ra các quá trình biến đổi về cấu trúc và chức năng của cơ thể
trước sự thay đổi của môi trường. Sự “thích nghi cảm giác” xảy ra khi cơ thể sinh vật
chịu kích thích trong thời gian nhất định đến mức nó quen và không còn phản ứng với
kích thích ấy nữa. Thích nghi là quá trình xảy ra ở mọi sinh vật sống.
Còn “thích ứng” thể hiện tính tích cực, chủ động của cá thể trước những biến
đổi của môi trường xung quanh (cả môi trường tự nhiên và xã hội). Với ý nghĩa đó,
tâm lý học thường dùng thuật ngữ “thích ứng” để tránh trùng lặp với thuật ngữ
“thích nghi” của sinh học.
Thông thường các nhà nghiên cứu phân biệt hai loại thích ứng tâm lý cơ bản
sau: “thích ứng tâm lý” và “thích ứng tâm lý xã hội”.
D.A.Andreeva cho rằng: “Có thể xem thích ứng là một quá trình xây dựng
chế độ hoạt động tối ưu và có mục đích của nhân cách” [8,tr.47].
D.A.Andreeva phân biệt rõ các khái niệm thích ứng và thích nghi sinh
học. Bà nhấn mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhưng cần chú ý phân biệt
chúng. Nếu đem khái niệm thích ứng với ý nghĩa thích nghi sinh học vào giải
thích các hiện tượng xã hội thì dĩ nhiên sẽ sai lầm vì thích nghi sinh học chỉ sự
đồng hoá của cơ thể đối với những tác động từ bên ngoài và là sự xây dựng lại
trạng thái của cơ thể do những tác động đó để tồn tại trong điều kiện môi trường
thay đổi, còn thích ứng tâm lý ở người có ý nghĩa khác biệt về chất. Cần hiểu
22
“thích ứng” là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới, là sự
thâm nhập của nó vào điều kiện đó một cách không gượng ép. Bà chỉ rõ: “Sự
thích ứng của con người phải làm sao góp phần cho con người thoát khỏi sự phụ
thuộc có tính chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khỏi vòng tù
hãm trực tiếp của cơ thể” [9,tr.47]. Như vậy ta thấy, bà đã phân biệt rõ thích ứng
tâm lý người với thích nghi sinh học, đưa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập
trường thích nghi sinh học, xem xét nó dưới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn
toàn vào địa hạt của tâm lý học người.
Theo chúng tôi, giữa thích ứng và thích nghi có sự trùng lặp nhau về sự
phát triển. Tuy nhiên, thích nghi chỉ sự phát triển theo hướng thuận lợi, dễ dàng
đạt được, còn thích ứng thể hiện sự tích cực của chủ thể đối với sự phát triển của
hoàn cảnh thật sự khó khăn, đòi hỏi chủ thể phải có sự cố gắng rất nhiều mới
theo kịp với sự phát triển của hoàn cảnh đó, không dễ dàng theo kịp sự phát
triển.
1.2.2. Khái niệm hoạt động học tập
Các loại học tập ở người: Căn cứ và tính mục đích của hoạt động, sự học
được chia thành: học không chủ định và học có chủ định ( hoạt động học) [14].
- Học không chủ định là sự tiếp thu tri thức, biến đổi hành vi không có mục
đích đặt ra từ trước. Sự học này diễn ra một cách ngẫu nhiên thông qua việc thực
hiện một hoạt động có mục đích không phải là mục đích học tập.
- Học có chủ định hay là hoạt động học là sự tiếp thu tri thức, biến đổi hành
vi có mục đích đặt ra từ trước. Sự học này diễn ra trong hoạt động mà mục đích
trực tiếp của nó là học một cái gì đó. Người ta gọi hoạt động này là hoạt động học,
một hoạt động đặc thù của con người, chỉ có ở con người. Hoạt động học được
thực hiện theo phương thức nhà trường, do người học thực hiện dưới sự hướng
dẫn của người thầy/cô giáo nhằm lĩnh hội những tri thức, khái niệm khoa học và
hình thành những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, làm phát triển trí tuệ và năng lực con
người để giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. Hoạt động học có 5 đặc
điểm sau:
23