BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
LÊ THỊ BÍCH NGỌC
NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT Y BAN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Gia Thế
HÀ NỘI, 2013
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Gia Thế
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ họp
tại
Trường
Đại
học
Sư
phạm
Hà
Nội
2
vào
hồi......giờ,
ngày......tháng .......năm 2013.
CÓ THỂ TÌM HIỂU LUẬN VĂN TẠI
THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhân vật là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật,
bởi đó là tiêu điểm để nhà văn thể hiện những khái quát về hiện thực đời sống, bộc lộ tư tưởng,
quan niệm nghệ thuật cũng như lý tưởng thẩm mỹ của mình về cuộc đời, con người. Nghiên cứu
tác phẩm văn học không thể không tiếp cận nhân vật văn học. Việc nghiên cứu nhân vật giúp
người nghiên cứu nhận diện những diễn biến tư tưởng, cảm quan đời sống và thi pháp nghệ thuật
của nhà văn, từ đó có cơ sở để khẳng định những đóng góp riêng của nhà văn vào tiến trình văn
học dân tộc.
1.2. Văn học Việt Nam từ sau đổi mới ghi nhận những đóng góp quan trọng của các nhà
văn nữ, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Điểm nổi bật trong sáng tác của các cây
bút nữ là sự xuất hiện đặc biệt đông đảo và chiếm ưu thế của các nhân vật nữ. Có thể nói, các nhà
văn nữ, với những nỗ lực sáng tạo nhiều mặt đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn.
Thông qua việc tìm hiểu nhân vật nữ trong các sáng tác của nhà văn nữ, người nghiên cứu có cơ sở
khám phá sâu sắc và nhiều chiều hơn thế giới tâm hồn, những “ẩn mật bản ngã” của “một nửa
nhân loại”. Nghiên cứu đặc tính cấu trúc nhân vật nữ còn giúp người nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn
các vấn đề văn hóa đương đại đang đặt ra như vấn đề giới, ý thức nữ tính, cái nhìn của chủ thể nhà
văn nữ.
1.3. Trong số các nhà văn nữ đương đại, Y Ban là một cây bút có một vị trí nổi bật. Từ hơn
mười năm trở lại đây, bà đã xuất bản hàng chục tập truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết gây tiếng
vang. Với sự tự tin và bản lĩnh của một ngòi bút tài năng, đam mê sáng tạo cùng sự tri nhận sắc
sảo về cuộc sống, Y Ban đã tạo dựng được một bản sắc văn xuôi độc đáo. Phân tích đặc điểm cấu
trúc nhân vật nữ trong tiểu thuyết của bà có thể nhận ra phần lớn đặc điểm này.
Đọc tiểu thuyết Y Ban, có thể nhận ra, mảng đề tài được đề cập nhiều nhất và cũng là một
thế mạnh trong sáng tác của bà là tình yêu và phụ nữ. Bản thân tác giả, khi nói về ý đồ và quan
điểm sáng tác của mình cũng nhấn mạnh: “Có thể nói, một mảng “ đặc sản” trong nghiệp văn của
tôi là viết về đàn bà. Mảng đề tài này là thuận tay, là niềm trăn trở, là món nợ nhất đối với tôi.
Trong một xã hội đang đánh mất quá nhiều giá trị như hiện nay thì người hứng chịu nhiều nhất
không ai khác chính là những người đàn bà. Họ buộc phải tự vươn lên để tìm cách giải tỏa, để đối
kháng, để sống. Trong tiểu thuyết của mình, tôi muốn những người đàn bà ấy phải sống cho mình,
sống theo cách của mình, dù cho họ phá cách”.
Với tất cả những lí do lí thuyết – lịch sử nêu trên, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài
“Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Y Ban là một cây bút văn xuôi độc đáo. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có nhiều bài
nghiên cứu, phê bình phân tích sáng tác của bà trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu trong số
đó là các bài: Một giọng nữ trầm trong văn chương của nhà phê bình Bùi Việt Thắng, Y Ban và
những thân phận đàn bà của nhà văn Xuân Cang, Đọc truyện ngắn Y Ban của Lê Hương Thủy,
Trò chơi hủy diệt cảm xúc - Nhịp điệu của văn xuôi của nhà phê bình Hoài Nam, Y Ban viết về nỗi
đau rất đàn bà của tác giả Dương Cầm.
Trên các trang báo điện tử, các bài viết về tác phẩm của Y Ban trên mạng khá phong phú.
Điều này cũng cho thấy các cách đọc và cảm nhận khác nhau của độc giả về truyện ngắn và tiểu
thuyết của bà. Có thể kể đến các bài như: Buồn ơi! Y Ban chào mi của Xuân Anh; Nhà văn Y Ban
– văn chương vẫn cần trời cho; Y Ban: Bốp chát & nữ tính của Hòa Bình; Y Ban không thấy nhục
cảm là phi đạo đức của Tú Cầu; Đối thoại Y Ban – Nguyễn Khắc Phục của Lê Hà; Nhà văn Y Ban
bị sốc khi “I am đàn bà” bị thu hồi của Nguyễn Hằng; Nhà văn Y Ban: “Chúng ta đang quay
cuồng trong bức xúc” của Hoàng Hường; “Lát cắt” Y Ban của Cao Minh, Trần Thanh Hà trong
Xuân Từ Chiều - chua xót vì nỗi con người,…
Có thể thấy, các bài viết, công trình nghiên cứu về sáng tác của Y Ban trên các báo và tạp
chí khá phong phú về số lượng. Tuy nhiên, tác giả của các bài viết đó mới chỉ dừng lại tìm hiểu
một số khía cạnh hoặc giới thiệu, nhận định chung về tác giả mà chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề
nhân vật nữ trong các tiểu thuyết của bà.
Trên cơ sở kế thừa ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi tập trung
nghiên cứu đề tài “Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban”. Chúng tôi xem đây là con
đường hợp lí nhất để đánh giá những nét độc đáo trong tiểu thuyết Y Ban, ngõ hầu ghi nhận kịp
thời những đóng góp của bà vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích đặc tính của nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban nhằm chỉ ra một phương diện
độc đáo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.
- Khẳng định những đóng góp quan trọng về tư tưởng và thi pháp nghệ thuật của tác giả
vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Loại hình hóa thế giới nhân vật nữ và phân tích đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y
Ban.
- Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban.
- Đối sánh loại hình với một số cây bút đương đại ( đặc biệt là các cây bút nữ) để thấy
những nét độc đáo trong cảm quan đời sống và thi pháp nghệ thuật của Y Ban.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban với những biểu hiện cụ thể của nó ( đặc điểm
loại hình, nghệ thuật biểu hiện).
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các tiểu thuyết đã công bố của Y Ban:
- Đàn bà xấu thì không có quà, Nxb. Hội nhà văn (2004);
- Xuân Từ Chiều, Nxb. Phụ nữ (2008);
- Trò chơi hủy diệt cảm xúc, Nxb. Trẻ ( 2012).
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống, Phương pháp phân tích - tổng hợp, Phương pháp so sánh, so sánh
hệ thống và so sánh loại hình.
7. Đóng góp mới của luận văn
7.1. Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc tính cấu trúc nhân vật nữ trong
tiểu thuyết của một nhà văn nữ nổi tiếng. Thực hiện đề tài này giúp người nghiên cứu có thể phát
hiện và loại hình hóa các kiểu loại nhân vật nữ tiêu biểu trong tiểu thuyết Y Ban, đồng thời chỉ ra
những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tác phẩm của bà.
7.2. Khẳng định những đóng góp riêng của Y Ban vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam
đương đại (cả về cảm quan đời sống lẫn thi pháp nghệ thuật).
7.3. Góp phần khẳng định ý nghĩa của hướng phân tích lí thuyết - lịch sử trong nghiên cứu
văn học nói chung, trong nghiên cứu cấu trúc nhân vật nói riêng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn của
chúng tôi gồm có ba chương:
Chương 1. Khái quát về hình tượng nhân vật nữ và một số đặc điểm của nhân vật nữ trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Chương 2. Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban.
Chương 3. Một số thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái quát về hình tượng nhân vật nữ trong văn học
1.1.1. Khái niệm về nhân vật và nhân vật nữ
1.1.1.1. Về khái niệm nhân vật văn học, giới nghiên cứu, phê bình đã đưa ra khá nhiều
quan điểm khác nhau.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân quan niệm: “Nhân vật
văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh
hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con
người. Một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ.
Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
đường được gán cho những đặc điểm giống con người”.
Các tác giả trong Từ điển văn học lại nhìn nhận nhân vật ở khía cạnh vai trò, chức năng của
nó đối với nội dung và hình thức của tác phẩm:
“Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư
tưởng chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung
khắc hoạ. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm văn học”.
Trong giáo trình Lý luận văn học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, các nhà nghiên
cứu nhận xét:
“Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh, Thuý Kiều,
… Đó là những nhân vật không có tên thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều, những kẻ đưa
tin, lính hầu, chạy hiệu thường thấy trong kịch. Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng
thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung và ý
nghĩa con người. Nhân vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau nhất. Đó có thể
là những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, tiểu sử như
thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng
lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm,
ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. (…) Khái niệm nhân vật có khi được sử
dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác
phẩm. (…) nhưng chủ yếu vẫn là con người trong tác phẩm. (…) nhân vật văn học là một hiện
tượng ước lệ, có những dấu hiệu để ta nhận ra”
Có thể xem đây là một quan niệm cụ thể, chi tiết về nhân vật văn học. Trong giáo trình Lí
luận văn học của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, nhà nghiên cứu Hà Minh
Đức cho rằng:
“Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao
chụp mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm
điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách, … Và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái niệm
nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người,
những con người có tên hoặc không tên, được khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua
trong tác phẩm mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách
con người… Cũng có khi đó không phải là những con người hoặc có liên quan tới con người, được
thể hiện nổi bật trong tác phẩm”.
Các quan niệm về nhân vật trên đây mặc dầu có khác nhau về tiểu tiết song cơ bản vẫn có
sự gặp gỡ trên một số tiêu điểm nhất định: nhân vật là đối tượng mà văn học miêu tả, được xây
dựng bằng những phương tiện nghệ thuật nhằm phản ánh đời sống hiện thực; là yếu tố cơ bản nhất
của tác phẩm, mang tính ước lệ và thể hiện sự sáng tạo của nhà văn. Với vị trí quan trọng như vậy,
nhân vật trở thành yếu tố không thể bỏ qua khi tìm hiểu, nghiên cứu về một nhà văn nào đó.
1.1.1.2. Nhân vật nữ là một loại hình cụ thể của nhân vật văn học. Có thể nói khái quát:
Nhân vật nữ chính là hình ảnh, hình tượng người phụ nữ được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
văn học bằng các phương tiện văn học.
Nghiên cứu nhân vật nữ là nghiên cứu một kiểu cấu trúc nhân vật văn học đặc thù.
1.1.2. Nhân vật nữ trong văn học truyền thống Việt Nam
Phụ nữ là một nửa của nhân loại, là biểu tượng của cái đẹp, hiện thân của sự sinh tồn và
luân chuyển sự sống. Trong dòng chảy văn học từ cổ chí kim, hình tượng người phụ nữ luôn là
một trong những đề tài quen thuộc nhất và là nguồn cảm hứng vô tận. Tuy mức độ đậm nhạt khác
nhau ở mỗi thời kỳ, song hình tượng người phụ nữ luôn được xem là một tâm điểm trong văn học
truyền thống Việt Nam. Qua hình tượng này, người đọc các thế hệ sau thấy được đặc điểm số phận
của người phụ nữ Việt Nam qua các thời đại và cả tầm mức nhân văn trong cái nhìn đối với phụ
nữ.
Trong văn học dân gian, nhân vật nữ đại diện cho lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân. Tuy
nhiên, những chuẩn mực thẩm mỹ buổi ban đầu chưa thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng, đầy đủ
diện mạo của người phụ nữ. Theo thời gian, bức chân dung này ngày càng được hình dung một
cách rõ nét hơn. Người phụ nữ hiện lên trong văn xuôi dân gian chủ yếu qua các câu chuyện cổ
tích. Họ luôn toả sáng những nét đẹp: hiền lành, chăm chỉ, giàu đức hy sinh, giàu lòng nhân ái.
Trong văn học trung đại, hình tượng người phụ nữ hiện lên ngày càng đa dạng, nhiều
chiều. Người phụ nữ, một mặt vẫn kế thừa tư tưởng của văn học dân gian; mặt khác, lại bổ sung
thêm những quan niệm mới, trong đó, “hồng nhan bạc mệnh”. Điểm qua gương mặt nhân vật nữ
thời kỳ này ta thấy một điểm chung ở họ là có cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy ai có
được hạnh phúc thật sự. Tuy nhiên, văn học trung đại bước đầu đã phản ánh được quan niệm về
con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ đã thể hiện sự phản kháng, tố cáo xã hội, nêu
lên suy nghĩ, quan điểm riêng của mình, bộc bạch trực tiếp những nỗi khổ đau, những niềm riêng
tư (sự tự ý thức về mình). Có thể nói, văn học thời kỳ này đã thực hiện những khám phá đời sống
nội tâm nhiều cung bậc của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 tiếp tục khai thác đề tài về người phụ nữ. Sáng tác
của Tự lực văn đoàn đã xây dựng hình ảnh những người phụ nữ mới, là những con người dám đấu
tranh cho tự do cá nhân, cho hạnh phúc con người, phê phán cái xấu, cái cũ, đòi quyền sống, tự do
yêu đương và lựa chọn hạnh phúc cho bản thân. Song hành và đối ứng với Tự lực văn đoàn, văn
học hiện thực phê phán giai đoạn này đi sâu khám phá những bi kịch khác nhau trong cuộc đời
người phụ nữ. Người phụ nữ hiện lên như một biểu tượng trong văn học về nỗi khổ đau, bất hạnh
chồng chất của kiếp người và cuộc đời họ bao giờ cũng kết thúc trong sự tuyệt vọng, bế tắc.
Những nhân vật nữ này đã phản ánh phần nào tình trạng bế tắc trong xã hội Việt Nam trước cách
mạng trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến.
Trong văn học giai đoạn 1945 - 1975, trong không khí hào hùng của một thời đại lịch sử,
nhân vật người phụ nữ đã có một diện mạo mới bên cạnh những nét đẹp truyền thống bao đời của
người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, thủy chung, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh… Người
phụ nữ được đặt trong mối quan hệ với những vấn đề chung của thời đại. Người phụ nữ bước vào
cuộc chiến đấu thần thánh của đất nước, làm nên những tượng đài bất tử về vẻ đẹp của người phụ
nữ Việt Nam trong lòng dân tộc, thời đại. Có thể thấy, người phụ nữ trong giai đoạn này là con
người của cộng đồng, của xã hội gắn với cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, được soi rọi dưới cái
nhìn lý tưởng hoá mang tính sử thi.
1.2. Một số đặc điểm của nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Sau năm 1975, văn học có xu hướng trở về với cái đời thường muôn mặt, cảm hứng sử thi
nhạt dần, thay thế vào đó là cảm hứng về thế sự - đời tư. Nhân vật người phụ nữ hiện lên với tư
cách con người cá nhân, những mảnh đời riêng lẻ. Văn xuôi thời kỳ đổi mới xem phụ nữ như một
khách thể thẩm mĩ độc lập, một thế giới riêng đầy bí ẩn và hấp dẫn cần được khám phá và lý giải.
Chưa bao giờ người phụ nữ lại nhận được sự quan tâm lớn của đông đảo người cầm bút
như hôm nay, kể cả người cùng giới và khác giới. Sự xuất hiện đa dạng, phong phú của nhân vật
nữ cho thấy mỗi nhà văn đã tìm cho mình một hướng đi riêng khi khai thác đề tài này. Nhân vật nữ
trong các sáng tác của nhà văn nữ hiện ra như một sự khám phá và thể hiện chính bản thân mình.
Thế giới phụ nữ qua cái nhìn phụ nữ của các nhà văn đương đại đa dạng và đa sự. Bằng kinh
nghiệm bản thân, các nhà văn đã phô bày đời sống của người phụ nữ ở tầng sâu bản thể. Họ đem
đến cho văn học những trải nghiệm mới, những hiểu biết mới về người phụ nữ.
Tóm lại, người phụ nữ là hình tượng xuyên xuốt và nổi bật trong văn học Việt Nam, gắn
liền với sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn lịch sử văn học.
Mặc dù ở mỗi giai đoạn khác nhau, cái nhìn về người phụ nữ luôn có những thay đổi nhất định
song dù ở thời đại nào thì người phụ nữ vẫn sáng ngời vẻ đẹp truyền thống của mình trong văn hóa
dân tộc và luôn là hình ảnh tích cực được nhà văn gửi gắm nhiều tình cảm thương yêu trân trọng.
1.3. Vấn đề nhân vật nữ của các nhà văn nữ
Văn học Việt Nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ khá đông đảo các nhà văn nữ
viết về người phụ nữ. Tiêu biểu trong số đó là các tác giả: Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Y Ban… Sự xuất hiện của các cây bút nữ đã đem đến cho
văn học đương đại Việt Nam một luồng gió mới và tạo thế cân bằng trong sáng tác văn học giữa
hai giới.
Người phụ nữ viết văn sở hữu những thuận lợi thiên bẩm mà các cây bút nam khó có được.
Họ có thể dễ dàng viết về những vấn đề của giới mình và có khả năng đi sâu vào thế giới tâm hồn
đầy bí ẩn của người phụ nữ. Với cái nhìn mẫn cảm bản năng, các nhà văn nữ thường thể hiện sự
quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của giới mình.
Theo suy nghĩ và cảm nhận của các nhà văn nữ, người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ
cực đắng cay cần được chia sẻ. Văn học là một phương tiện để người phụ nữ giãi bày tâm tư,
nghiền ngẫm nỗi niềm nhân tâm thế sự, thẳng thắn đối thoại với những quan niệm cũ, thức tỉnh ý
thức cá nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống của chính mình.
Mảng hiện thực lớn trong các sáng tác của cây bút nữ là “những cái tôi đàn bà phong phú,
phức tạp và sâu sắc”. Người phụ nữ được khai thác ở nhiều sắc thái cảm xúc, tâm trạng và cảm
giác một cách tinh tế và khéo léo. Cùng với khát vọng yêu đương, niềm thương cảm với những
thân phận đàn bà được bộc lộ một cách đầy suy tư, trắc ẩn. Không những vậy, người phụ nữ được
đưa về với thiên tính nữ đặc trưng.
Mỗi tác giả với một lối viết riêng, một cách tiếp cận riêng, song đằng sau từng trang viết là
những niềm thương yêu, sự trân trọng và cảm thông với số phận của người phụ nữ. Các nhà văn
nữ đã phát huy được những ưu thế giới tính của mình khi xây dựng nhân vật nữ với đời sống nội
tâm phong phú, phức tạp, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc và quyền sống của
người giới mình trong đời sống hôm nay.
CHƯƠNG 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT Y BAN
2.1. Quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ trong tiểu thuyết
Y Ban
2.1.1. Khái quát về quan niệm nghệ thuật về con người
Đối tượng thẩm mỹ của văn học là con người. Do vậy, tất cả những gì liên quan đến con
người, thuộc về con người đều nằm trong phạm vi biểu hiện của văn học. Khái niệm nghệ thuật về
con người được nghiên cứu ở nhiều phương diện với những cách hiểu phong phú. Về cơ bản có
thể xác định:
“Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã
được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong
văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”
Quan niệm nghệ thuật về con người tồn tại trong thế giới quan của mỗi người nghệ sĩ, gắn
liền với cá tính sáng tạo của nhà văn.
Quan niệm nghệ thuật về con người là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá giá trị nhân văn
vốn có của một hiện tượng văn học. Người nghệ sĩ đích thực là người luôn suy nghĩ về con người,
vì con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu con người. Khám phá quan niệm nghệ thuật về
con người là đi sâu vào thực chất sáng tạo của người nghệ sĩ để đánh giá đúng về họ.
Quan niệm nghệ thuật về con người có sự thay đổi qua mỗi thời kỳ văn học. Trước 1975,
con người được nhìn theo lối sử thi hoá, luôn được đặt trong mối quan hệ với cộng đồng, với dân
tộc. Bởi thế cái nhìn giản đơn, phiến diện về con người là không tránh khỏi.
Sau 1975, con người đã được nhìn nhận như “một cá thể bình thường trong những môi
trường sống bình thường”. Sự hỗn tạp trong tâm hồn, bản năng tự nhiên, đời sống tâm linh là
những miền sáng tác bất tận của người nghệ sĩ. Sự soi chiếu con người từ nhiều chiều kích, góc độ
nhằm “tìm ra con người bên trong con người”, đem lại cái nhìn toàn diện về con người cho văn
học.
2.1.2. Một số biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ trong tiểu thuyết Y
Ban
Như đã khẳng định ở trên, đối tượng thẩm mĩ đặc thù trong các sáng tác của Y Ban là
những kiếp phận đàn bà. Do đó, hình ảnh và thân phận đàn bà hiện ra trong tác phẩm của nhà văn
được xem là “đàn bà nhất trong mọi đàn bà này” thật phong phú: những cô gái thôn quê, những
người đàn bà thành thị, người phụ nữ ít học hay có học vị và địa vị xã hội cao, những người phụ
nữ bình thường hay khuyết tật, lỡ dở… Mỗi người một cảnh đời, một số phận. Nhưng cho dù họ là
ai thì với Y Ban đều có điểm chung muôn thủa: kiếp đàn bà là kiếp đời bi kịch, khổ đau, bất hạnh.
Y Ban đã hướng ngòi bút vào những mảnh đời, những thân phận đàn bà với những nỗi đau cũng
rất đỗi đàn bà trong cuộc sống hiện đại.
Người phụ nữ trong sáng tác của Y Ban còn là những con người bản năng yêu và khát vọng
sống mãnh liệt. Trong tiểu thuyết của mình, Y Ban đã để những người đàn bà ấy phải sống cho
mình, sống theo cách của mình, dù cho họ phá cách. Trong mỗi tác phẩm của bà luôn xuất hiện hình
ảnh người đàn bà khao khát một tình yêu hoàn hảo và tuyệt mĩ. Họ mong muốn được cảm nhận hết
những cung bậc và sắc thái muôn màu của tình yêu. Họ cũng cần một người đàn ông lí tưởng để
đem lại cho họ những cảm giác thăng hoa trong tình yêu và những rung động hạnh phúc. Với Y
Ban, hạnh phúc của người phụ nữ thật giản đơn. Hạnh phúc là được có một gia đình với một người
chồng và những đứa con để chăm lo; là được giao cảm với mọi người, đem hạnh phúc đến cho mọi
người; là sự đồng điệu của những tâm hồn biết chia sẻ, cảm thông lẫn nhau. Cùng với khát khao
hạnh phúc, người phụ nữ theo quan niệm của bà còn là những con người có những khát khao rất
bản năng, rất con người. Cuộc sống càng văn minh, con người ngày càng có những đòi hỏi cao hơn
cho mình. Mong muốn được giải phóng cho cái phần bản năng sâu thẳm nhất, hoang dại nhất, sơ
khai nhất để cảm nhận những điều tốt đẹp mà tạo hóa đã ban tặng. Đó cũng là xu hướng trở về với
con người tự nhiên bản thể, sống chân thực với chính mình. Cho nên trong tiểu thuyết của mình, Y
Ban muốn những người đàn bà ấy phải sống cho mình, sống theo cách của mình, cho dù họ có phá
cách. Và vì thế, những người đàn bà trong tác phẩm của bà, cho dù khổ đau, mặc cho vẻ bề ngoài
khô cứng, có lúc cô đơn đến tận cùng thì bên trong vẫn là trái tim ấm nóng, muốn quan tâm người
và muốn được người khác quan tâm. Họ khao khát được sống, được yêu, được là bản thân mình.
Tóm lại, người phụ nữ trong tiểu thuyết của Y Ban là những con người được chú ý khai thác
trên nhiều bình diện, nhiều khía cạnh, ở cả những khuất khúc trong tâm hồn tình cảm và chiều sâu
thân phận. Người đọc nhận thấy người thấy người phụ nữ trong tiểu thuyết của bà là những con
người bất hạnh, con người khát khao, con người bản năng – đó là phần bí ẩn trong người phụ nữ mà
nhà văn muốn khám phá và tìm hiểu. Được xem là “người đàn bà nhất trong mọi đàn bà”, lại là nhà
văn tiêu biểu cho tinh thần nữ quyền, Y Ban đã giúp người đọc hình dung về một thế giới đàn bà
thật bí ẩn, chênh vênh mà cũng đầy yêu thương và đức hi sinh cho nhân loại.
2.2. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban
Nghiên cứu nhân vật chính là nghiên cứu cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người
như thế nào và bằng cách nào trong văn chương của mình. Khảo sát hệ thống nhân vật của Y Ban,
cách tiếp cận của chúng tôi là đi vào những kiểu dạng nhân vật nổi bật, những thủ pháp nghệ thuật
đặc thù, tìm hiểu những đặc trưng của nhân vật, qua đó hiểu được cái nhìn nghệ thuật của nhà văn
về con người và cuộc đời. Căn cứ vào sự lặp lại mang tính qui luật của các mô hình nhân vật,
chúng tôi khu biệt thành những kiểu nhân vật nữ cơ bản sau đây:
2.2.1. Nhân vật bi kịch
Bi kịch hầu như không xuất hiện trong văn học chính thống Việt Nam 1945 -1975. Luồng
gió đổi mới đã đưa văn học về với quỹ đạo phổ quát của nó: nghiền ngẫm nỗi đau thân phận con
người. Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực, các nhà
văn không ngần ngại đi sâu vào những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn nhân thế, thể hiện cảm nhận
sâu sắc về những mất mát của con người. Y Ban cũng không là ngoại lệ.
Nhân vật bi kịch là kiểu nhân vật phổ biến và chủ chốt trong cả ba tiểu thuyết của Y Ban.
Các kiểu bi kịch qua các nhân vật nữ trong các sáng tác của bà:
2.2.1.1. Bi kịch của những mảnh đời tật nguyền, lỡ dại, kém may mắn
Y Ban đặc biệt quan tâm đến số phận của những con người không may mắn mang nỗi mặc
cảm về hình thức không hoàn thiện, những con người phải gánh chịu nỗi đau khi sinh ra là kẻ tật
nguyền, lỡ dại.
Viết về số phận của những mảnh đời bất hạnh này, ẩn đằng sau mỗi câu chữ là cả một nỗi
xót xa, cảm thông. Y Ban đã gắng tìm cho họ một giải pháp, một điểm tựa để họ hy vọng.
Trong những mảnh đời tật nguyền, lỡ dại, kém may mắn tội nghiệp ấy, Y Ban luôn tìm
thấy những khát khao mãnh liệt mà đau thương của họ. Hạnh phúc nhỏ nhoi, bình thường không
dành cho họ, chỉ có nỗi xót thương vô hạn của nhà văn trong mỗi lời kể về cuộc đời họ. Viết về số
phận của họ, bà đã tìm thấy trong chiều sâu tâm hồn đó một khát khao được sống như những
người bình thường. Câu chuyện dù kết thúc nhưng những chua xót cuộc đời của họ dường như còn
mở ra bất tận. Các nhân vật như Nấm trong Đàn bà xấu thì không có quà, người đàn bà điên trong
Xuân Từ Chiều, người chị song sinh của nhân vật “ả” trong Trò choi huỷ diệt cảm xúc là những ví
dụ tiêu biểu.
2.2.1.2. Bi kịch trong tình yêu
Đề tài về tình yêu và hạnh phúc gia đình là mảng hiện thực khá sinh động không chỉ trong
truyện ngắn mà cả tiểu thuyết của Y Ban. Y Ban đã nhìn nhận và lý giải nó theo những sắc thái
khác nhau. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Y Ban được nếm trải hầu như tất cả những dư vị
khác nhau của tình yêu. Ngọt ngào có, đắng cay xót xa có. Họ hiện lên trong tình yêu với nhiều
cung bậc khác nhau từ nhẹ dạ đến mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải. Đáng chú ý là, người
phụ nữ trong sáng tác của Y Ban luôn chủ động, quyết liệt đấu tranh để giành giữ tình yêu, luôn
sống thật với chính mình và dám đi đến tận cùng của bản thể. Có thể xem đây là biểu hiện rõ nét
nhất của bản sắc nữ trong sáng tác của bà.
Phân tích các tiểu thuyết của Y Ban, có thể nhận thấy, nhân vật nữ của bà càng khao khát
yêu thương chia sẻ bao nhiêu thì càng dễ gặp phải những khổ đau bất hạnh bấy nhiêu (Nấm – Đàn
bà xấu thì không có quà). Đó là lý do vì sao nhân vật chính khổ đau trong mảng đề tài này của Y
Ban thường là những người phụ nữ, những bi kịch, đổ vỡ trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi được
biểu hiện rõ nhất cũng thông qua người phụ nữ.
Thế giới nhân vật nữ của Y Ban có sự góp mặt của nhiều tầng lớp: từ những người lao
động bình thường cho đến có học vị cao, ở nông thôn hoặc thành thị, ít học hay nhiều chữ, đang
phải lần hồi để kiếm cái ăn hoặc dư thừa tiền bạc. Không phải chỉ có những con người bình thường
lành lặn mà cả những người sinh ra đã là tật nguyền. Tất cả họ đều có chung một khát vọng thiết
tha cháy bỏng về tình yêu và hạnh phúc. Với bà, trong cuộc sống và trên hành trình đi tìm hạnh
phúc của người phụ nữ không phải lúc nào cũng toại nguyện. Càng khát khao, lí tưởng hóa tình
yêu người phụ nữ càng lẻ loi, cô độc, bất hạnh.
Thể hiện nỗi đau của người phụ nữ trong hành trình tìm kiếm tình yêu, nhà văn cảm nhận
sâu sắc về thân phận người phụ nữ. Thông qua nhân vật, bà đã thông cảm, sẻ chia với những bất
hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu trong tình yêu và muốn nhắn nhủ một thông điệp rằng hạnh
phúc trong tình yêu của người phụ nữ mong manh và khó nắm bắt, hãy biết trân trọng, đón nhận
và giữ gìn nó.
2.2.1.3. Bi kịch trong hôn nhân và gia đình
Y Ban đã đề cập trực diện đến những vấn đề phức tạp, bức bối trong đời sống gia đình
người Việt hiện đại. Người phụ nữ vì luôn cam chịu, nhẫn nhục, hi sinh mà họ luôn phải chịu
những khổ đau trong cuộc sống. Thông qua các sáng tác, bà gửi gắm thông điệp: phụ nữ cũng cần
thay đổi quan niệm về sự hi sinh, cần có cân bằng giữa cho và nhận, đồng thời phải biết làm chủ
cuộc đời mình. Bà cũng đã diễn tả rất hay, rất khéo cái dở dang của đời người để độc giả nhận thấy
những thân phận đàn bà cùng những phẩm chất, tính cách tốt đẹp của họ trong gia đình.
Y Ban đã để nhân vật của mình trong nhiều tình huống trớ trêu của cuộc đời để khắc sâu
thêm những điều đem lại ý nghĩa lớn lao đối với người phụ nữ. Từ những câu chuyện tâm thức gia
đình, Y Ban đã đẩy lên thành những câu chuyện tâm thức mang ý nghĩa xã hội. Với bà, “cuộc đời
đang dần thiếu đi những cổ tích tình yêu”. Trong hành trình bất tận kiếm tìm tình yêu và hạnh
phúc, người đàn bà trong sáng tác của Y Ban gặp không ít những khổ đau, dang dở, hụt hẫng. Từ
những câu chuyện tâm thức gia đình, Y Ban đã chuyển dẫn tự nhiên thành những câu chuyện tâm
thức mang ý nghĩa xã hội. Các nhân vật Xuân, Từ , Chiều trong Xuân Từ Chiều, “ả” trong Trò
chơi huỷ diệt cảm xúc… đều là những hiện dạng tiêu biểu của kiểu bi kịch này.
Nói về bi kịch trong hôn nhân và gia đình, Y Ban muốn nói đến thông điệp muôn đời của
phái tính mình: đàn bà chúng tôi sẽ bớt bất hạnh hơn nếu gặp được những người đàn ông tốt,
khoan dung và biết sẻ chia. Đó cũng chính là khát vọng nhân bản chính đáng và muôn đời của một
nửa thế giới này.
2.2.1.4. Bi kịch từ chính cuộc sống hiện đại
Công cuộc đổi mới cùng chính sách mở cửa đã có tác động to lớn đối với sự phát triển đất
nước. Nhưng những mặt trái do chính nó đẻ ra cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội
và cá nhân con người. Người phụ nữ trước sau vẫn là những kẻ phải hứng chịu nhiều nhất những
tệ nạn mà cuộc sống hiện đại gây ra. Là một người làm nghệ thuật nhưng đồng thời cũng là một
người làm báo, Y Ban đã tỏ ra rất nhạy bén và sắc nhọn trong việc tìm hiểu và phản ánh kịp thời
những ung nhọt trong xã hội. Theo đó, lối sống thực dụng, sự đổ vỡ những thang bảng giá trị của
đời sống… đều được bà thẳng thắn mổ xẻ, phanh phui.
Từ câu chuyện về sự bần cùng hoá, tha hoá, lưu manh hoá gắn với số phận đàn bà trong xã
hội hiện đại đã trở thành một tâm điểm trong sáng tác của Y Ban.
Phụ nữ thời hiện đại dường như vẫn chưa thoát khỏi những vướng mắc, giằng xé, những
cuộc chiến nội tâm đau đớn dai dẳng, cả những hụt hẫng, chới với, chênh vênh giữa các lằn ranh
mong manh của cuộc đời. Là nhà văn của phụ nữ, Y Ban thích mổ xẻ đến tận cùng tâm lý của
người đàn bà hiện đại. Bà không né tránh hiện thực. Từ Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, I am đàn bà đến
Trò chơi hủy diệt cảm xúc, Y Ban luôn dũng cảm chạm tới vào những vấn đề nóng hổi của thời đại
với tư duy: “giải phóng phụ nữ là giải phóng cả thế giới”.
Viết về thân phận bi kịch mà người phụ nữ Việt đương đại đang từng ngày phải nếm trải.
Đằng sau mỗi câu chuyện, mỗi cảnh đời, mỗi số phận con người, người ta nhận thấy sự thấu hiểu
và cảm thông sâu sắc của một nhà văn giàu tình yêu thương và nhạy cảm với nỗi đau của con
người. Bằng cảm quan tinh tế của người phụ nữ, qua những trang viết, Y Ban cũng trăn trở cùng
nhân vật của mình để tìm ra lối thoát cho cuộc đời họ sau những bi kịch.
2.2.2. Nhân vật tự ý thức
Nhân vật tự nhận thức là kiểu nhân vật chủ đạo trong văn xuôi sau 1975. Từ nhận thức thế
giới bên ngoài đến nhận thức thế giới tâm hồn mình là bước phát triển mới của tư duy nghệ thuật
về con người, gắn với sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Việc
xây dựng nhân vật tự ý thức là một cách nhà văn tự nhận thức và lí giải vấn đề theo quan niệm
riêng của mình. Nhân vật tự ý thức là sản phẩm của cảm hứng nghiên cứu, của tinh thần đi sâu
nghiền ngẫm, khám phá các vấn đề đặt ra trong đời sống hiện thực và đời sống cá nhân con người.
Kiểu nhân vật này “tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn và cảnh tỉnh chính mình
với những biến động của nội tâm trước sự dồn đẩy âm thầm mà quyết liệt của lương tâm, của bổn
phận làm người”.
Màu sắc nữ quyền không chỉ dừng lại ở sự quyết liệt, mạnh bạo giành giữ tình yêu, ở việc
khai thác các vấn đề nhạy cảm hay ca ngợi vẻ đẹp nữ tính mà còn thể hiện ở nhiều phương diện
khác.
Trong tiểu thuyết Y Ban, lời tụng ca không chỉ dành cho những con người nhân hậu vị tha
với những khát vọng bình dị, cho những tấm gương về nghị lực đáng nể phục mà còn dành cho
những người phụ nữ yếu đuối, nhưng ẩn tàng trong họ là cả một khát vọng mãnh liệt về quyền
được sống, được yêu, được nắm bắt cơ hội hạnh phúc. Nhân vật nữ của Y Ban, rất nhiều khi tự
cảm thấy tình cảnh bi kịch của chính mình. Nhiều người trong số họ, ý thức được việc mình làm, ý
thức rằng mình đang tha hoá mà vẫn không tránh được.
(Từ trong Xuân Từ Chiều, “ả” trong Trò chơi huỷ diệt cảm xúc). Viết về phương diện này, Y Ban
là một trong những cây bút cực kỳ mạnh mẽ và sâu sắc. Để tạo được những biến đổi trong nhận
thức của các nhân vật, Y Ban đã đặt nhân vật vào trong những tình huống, những biến cố để nhân
vật không còn suy nghĩ theo lối mòn nữa và bắt đầu chiêm nghiệm, phân tích lại bản thân, nhận ra
những chân lý cuộc đời.
Để biểu hiện sự tự ý thức của nhân vật, Y Ban chú ý đến xây dựng tình huống và miêu tả
những biến động tinh vi trong thế giới nội cảm của nhân vật, khám phá nhân vật ở chiều sâu các
tầng vỉa tâm thức. Khám phá sâu đời sống tâm hồn, chia sẻ, đồng cảm với những khắc khoải, trăn
trở cùng nhân vật trên con đường tìm kiếm hạnh phúc, Y Ban đã thể hiện sự tinh tế và trái tim rất
mực nhân hậu của mình.
Mỗi con người đều có một thân phận, một tính cách riêng, một cuộc đời biệt lập, chịu sự
tác động khác nhau của môi trường, hoàn cảnh nhưng tự ý thức vẫn luôn là điều cần thiết để giảm
thiểu những lỡ lầm trong cuộc đời để mỗi con người sống tốt đẹp hơn, an nhiên tự tại hơn trong
đời sống vốn sinh động và đầy thách thức.
2.2.3. Nhân vật cô đơn
Trong văn học 1945 - 1975, con người trong văn học được xem là con người của tập thể,
con người cá nhân với nỗi cô đơn vẫn được xem là một vùng cấm kị. Từ sau 1975, cùng với sự
chuyển dịch trong quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn và với nhu cầu tự ý thức trước
sự đổi thay của đời sống xã hội, con người cô đơn đã trở thành một kiểu nhân vật đặc thù. Các nhà
văn đương đại quan tâm đến nhu cầu tự ý thức, đến sự thức tỉnh của cá nhân, đến trạng thái tâm lý
cô đơn của con người. “Cô đơn trở thành chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều cây bút văn xuôi, bởi
bản chất của tâm trạng cô đơn là khao khát cái đẹp, cái thiên lương của con người. Cô đơn là vấn
đề của mỗi bản thể, cá nhân nhưng nó không hẳn là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Có thể nói, từng cuộc
đời riêng của mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng đồng, của xã hội, một khía cạnh của chủ
nghĩa nhân đạo hôm nay. Trong không khí dân chủ hóa của nền văn học, các nhà văn đã có dịp đi
sâu khám phá các phương diện và sắc thái khác nhau về trạng thái cô đơn của con người”. Chính
vì vậy, không ít nhà văn đã đi vào khám phá những sắc diện khác nhau của trạng thái này trong
con người.
Y Ban cũng nằm trong số các cây bút nhạy cảm đó. Bằng khả năng lắng nghe tinh tế những
rạn vỡ thầm thì của cuộc đời, Y Ban đã nhận ra cô đơn như một trạng thái tinh thần thường trực
của con người. Với các nhân vật nữ, điều này càng được hiện thể một cách sâu sắc.
Để khắc họa nỗi cô đơn của nhân vật, mỗi nhà văn có một cách riêng. Y Ban quan tâm đến
việc đào xới tâm trạng, cảm giác, suy nghĩ của nhân vật để làm nổi bật sự cô đơn.
Con người cô đơn được biểu hiện bởi sự lạc lõng giữa cuộc đời. Con người cô đơn không
chỉ tồn tại đơn thân, một mình một bóng mà còn ngay trong chính ngôi nhà của mình, giữa những
người thân yêu của mình. Con người cô đơn còn được thể hiện trong khoảng khắc của cuộc đời,
cũng có thể là triền miên.
Với khả năng tri nhận đời sống sắc sảo và khám phá tinh tế chiều sâu tâm hồn con người,
Y Ban đã cho thấy một thực trạng tinh thần của con người trong cuộc sống hiện đại. Qua thế giới
nhân vật của mình, bà còn bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc đối với những khát khao, ước vọng được
hòa đồng, được hạnh phúc của người phụ nữ. Đây cũng chính là nét nhân văn trong các tiểu thuyết
của bà.
2.2.4. Nhân vật tha hóa
Văn học hiện đại khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của từng cá
nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Y Ban là một
trong những nhà văn có ý thức và có khả năng phản ánh chân xác về hiện thực và con người, nhìn
nhận vấn đề theo tất cả các chiều kích khác nhau. Nhịp sống hiện đại với những mặt trái của nó đã
có những ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và số phận của những người đàn bà.
Y Ban không chỉ thể hiện nỗi đau của người đàn bà trong xã hội hiện đại mà còn bộc lộ nỗi
đau của mình trước sự tha hóa của mỗi cá nhân. Với Y Ban, thế giới con người thật muôn màu
muôn vẻ. Đời sống nhân vật trong sáng tác của bà cũng vì thế mà bị ảnh hưởng và chi phối từ
nhiều phía. Có khi là những áp lực từ hoàn cảnh sống từng ngày từng giờ vật lộn với cơm áo gạo
tiền, từ hệ quả của quá trình hiện đại hóa nông thôn quá nhanh, từ chính những thị phi nơi công sở,
hay từ chính sự cảm nhận, suy nghĩ về cuộc sống của những trí thức…
Tìm hiểu nhân vật tha hóa trong các sáng tác của bà tức là tìm hiểu nhân vật theo chiều
hướng phát triển và biến đổi của nó, mà ở đây là chiều hướng biến đổi theo chiều hướng ngày một
trở nên xấu đi. Hay nói cách khác, nhân vật chịu sự chi phối của môi trường và dẫn đến tha hóa.
Trong các trang viết của mình, Y Ban đã biểu thị thái độ đầy lo ngại và bi quan trước một
thực trạng nhiều bất ổn, bất công. Trên cái phông nền ấy, phụ nữ phải trực tiếp gánh chịu hậu quả
nhiều nhất và khốc liệt nhất. Tính chất “tha hoá” hiện thể qua phần lớn các nhân vật nữ trong các
sáng tác của bà.
Có thể nhận ra, các nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết của Y Ban đều là những con người
chịu sự chi phối của hoàn cảnh sống và bản thân con người cũng bất lực trước hoàn cảnh sống.
Tuy nhiên, không phải ai cũng buông xuôi theo số phận mà họ đã cố gắng vật lộn với cuộc sống
từng ngày, từng giờ. Y Ban đã đặt nhân vật luôn trong trạng thái đối diện với chính mình, với thực
tại. Chính vì vậy mà nhân vật của bà luôn có sự đấu tranh, giằng co tư tưởng quyết liệt để vươn lên
có cuộc sống xứng đáng.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA Y BAN
Sức sống, sức hấp dẫn của một tiểu thuyết không chỉ phụ thuộc vào mức độ sâu sắc và giá
trị nhân văn của hình tượng mà còn phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề lối viết, vào nghệ thuật thiết
dựng nhân vật của nhà văn. Trước các hiện tượng khác nhau của đời sống, mỗi nhà văn lại có
những cách thức khai thác nghệ thuật, phương thức biểu hiện riêng. Chính điều này làm cơ sở hình
thành phong cách nghệ thuật cá nhân của mỗi nghệ sĩ. Y Ban cũng thuộc về số đó. Có thể nói, tài
năng tiểu thuyết của Y Ban là sự thống hợp giữa cái nhìn nhân văn, sự cảm nhận sâu sắc thân phận
con người với một khả năng thiết tạ thế giới nghệ thuật độc đáo, có bản sắc.
Phân tích thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của bà không thể không nói đến những đặc
sắc về thi pháp nghệ thuật xây dựng một kiểu nhân vật đặc thù. Sau đây là một số thủ pháp nghệ
thuật nổi trội.
3.1. Độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là thủ pháp miêu tả tâm lí và đời sống bên trong nhân vật. Nó cho phép
nhà văn đi sâu khám phá và miêu tả những trạng thái tình cảm, những bí ẩn riêng tư trong suy
nghĩ, tâm tưởng của con người. Độc thoại nội tâm là phương tiện nghệ thuật đóng vai trò quan
trọng trong văn xuôi tự sự.
Khảo sát tiểu thuyết của Y Ban, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện nhiều của yếu tố độc
thoại nội tâm. Khi xây dựng nhân vật nữ, Y Ban chú trọng đi sâu vào thể hiện nội tâm hơn là miêu
tả vẻ bề ngoài của họ. Bà đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật độc thoại nội tâm với những dạng thức
khác nhau trong nhiều trạng huống khác nhau để lột tả bản chất bên trong cũng như những suy
nghĩ rất đời thường của nhân vật.
Trong tiểu thuyết của mình, bên cạnh những dòng độc thoại nội tâm trực tiếp, Y Ban còn
sử dụng hình thức độc thoại nội tâm nửa trực tiếp. Y Ban còn để nhân vật của mình bộc lộ thế giới
nội cảm qua những lá thư online. Dòng ý thức cũng đã được tác giả quan tâm đến.
Sử dụng độc thoại nội tâm, bên cạnh việc sử dụng các hình thức thể hiện truyền thống, Y
Ban đã có những sáng tạo riêng trong cách thể hiện của mình. Đây chính là sự sáng tạo của nhà
văn trong đổi mới hình thức ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật.
Với việc sử dụng độc thoại nội tâm, Y Ban đã tái hiện đầy đủ thế giới đa chiều phức tạp
của người phụ nữ hiện đại. Tài năng nắm bắt chính xác những biểu hiện tâm lí sinh động của nhân
vật đã tạo nên sức sống nội tại mãnh liệt và góp phần vào thành công của tác phẩm. Đây cũng
chính là những đóng góp đáng ghi nhận vào quá trình cách tân tiểu thuyết Việt Nam.
3.2. Ngôn ngữ thông tục, đời thường
“Khác với sự “mĩ hóa” thế giới trong văn xuôi giai đoạn 1945-1975, văn xuôi sau 1975 có
xu hướng diễn tả thực tại trong những trạng thái tục tằn thô nhám nhất của nó. Thể loại ngôn từ
văn học, theo đây cũng có những biến đổi căn rễ. Xu hướng thông tục hóa phi thẩm mĩ ngôn từ
trong văn xuôi sau 1975 trước hết gắn liền với thái độ giải thiêng của nhà văn: giải thiêng đấng bậc
và giải thiêng chính văn học, và tiếp theo, đây còn là vấn đề quan niệm của nhà văn với ngôn từ.
Như một qui luật, khi tiếng hát trở thành tiếng nói, tiếng nói trở thành tiếng nói tục, ngôn ngữ văn
xuôi được bình dân hóa, trở về gần với đời thường, cơ bản không còn sự trang trọng, ước lệ, véo
von”
Khảo sát ba tiểu thuyết của Y Ban, có thể nhận thấy, bà sử dụng nhiều ngôn ngữ thông tục,
đời thường: đó là sự dung nạp của nhiều khẩu ngữ, ngôn ngữ thô nhám, suồng sã, bỗ bã của lời ăn
tiếng nói hàng ngày, kể cả những từ ngữ thông tục, từ tục, cách nói tục và xuất hiện cả ngôn ngữ
chợ búa, ngoa ngoắt.
Tính chất thông tục hóa ngôn từ không chỉ thể hiện qua lời nói của những người phụ nữ
lam lũ, ít học, hàng ngày phải đối mặt với cơm áo, gạo tiền mà còn thể hiện ngay trong lời nói của
những người phụ nữ có học vị và địa vị xã hội. Nó không chỉ thể hiện qua lời của nhân vật mà còn
ở ngôn ngữ nhân vật người trần thuật của nhà văn.
Có thể nhận thấy, trong các tiểu thuyết của mình, Y Ban đã chứng tỏ là một nhà văn rất
giàu ngôn ngữ xã hội và mang chúng vào các bản văn tiểu thuyết một cách rất tự nhiên. Qua việc
sử dụng ngôn ngữ thông tục, đời thường, giới nhân vật nữ của Y Ban hiện lên thật sống động, gần
gũi. Họ thực sự là những con người của cuộc sống thường nhật.
Có thể xem, việc sử dụng nhiều từ ngữ thông tục là một đặc điểm phong cách của Y Ban.
Vượt qua hiểm địa từ ngữ thông tục, Y Ban thực sự đã tạo dựng cho mình một bản sắc văn xuôi
độc đáo. Chính kiểu ngôn ngữ thông tục, suồng sã, vỉa hè, cả “ngồi lê đôi mách”, như bà nói, đã
góp phần quan trọng vào việc tạo dựng bức chân dung tinh thần đa sắc vẻ của người phụ nữ.
3.3. Hình tượng hoá “cái tôi” nhà văn
Một trong những thủ pháp nghệ thuật có thể xem là ưu thế của nữ văn sĩ là họ thường đem
cuộc đời mình ra làm câu chuyện. Những rung động sâu kín của tâm tư, cuộc sống vợ chồng, các
quan hệ gia đình, đặc tính nghề nghiệp… tất cả đều trở thành sở trường của họ. Là một nhà văn
nữ, Y Ban cũng không là ngoại lệ.
Đọc tiểu thuyết Y Ban, có thể nhận ra, hầu hết các tình huống nhân vật của bà nếm trải đều
bắt nguồn một phần lớn từ chính những trải nghiệm nhà văn. Lợi thế viết văn khiến Y Ban dễ diễn
tả tâm trạng và hành trình sáng tác của Nấm trong Đàn bà xấu thì không có quà. Không phải ngẫu
nhiên, trong Xuân Từ Chiều, Y Ban kể rất sinh động về cảnh sống của vợ chồng Từ, về cuộc sống
vỉa hè của Từ, đến việc bà sử dụng dày đặc trường ngôn ngữ y khoa để diễn tả nội tâm, ham muốn,
cảm xúc của nhân vật nữ. Các đặc tính gắn với nghề báo cũng giúp Y Ban tiếp cận nhanh nhạy với
các vấn đề phức tạp, bức xúc trong xã hội đương đại.
Có thể nói, bằng cái nhìn và tài năng nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là khả năng sử dụng
ngôn ngữ tự nhiên, điêu luyện, Y Ban đã cắm một dấu ấn nổi bật của mình vào tiến trình tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Những thành công về thi pháp nghệ thuật của Y Ban trong xây dựng
hệ thống nhân vật nữ thực sự làm nên sức sống, sức hấp dẫn cho các sáng tác nhà văn.
KẾT LUẬN
1. “Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi với sự bí ẩn của người phụ
nữ” (Vladimir Lobanok). Người phụ nữ - một nửa của nhân loại, là biểu tượng cho đạo đức và vẻ đẹp
bền vững của nghệ thuật và cuộc sống. Tìm hiểu về người phụ nữ chính là khám phá vẻ đẹp của nghệ
thuật và sự sống của nhân loại. Từ xưa đến nay, nhiều nhà thơ, nhà văn đã viết về người phụ nữ với tất
cả tấm lòng yêu thương rộng mở và người phụ nữ được xem như là thước đo của những giá trị mĩ học
nhân văn. Họ đi từ cuộc sống vào văn học, trở thành một kiểu hình tượng quan trọng trong văn học
Việt Nam. Theo dòng chảy đó, văn học ngày nay viết về người phụ nữ là sự tiếp nối truyền thống văn
học dân tộc, góp phần hoàn thiện hơn chân dung người phụ nữ Việt Nam, cũng là sự thể hiện sâu sắc
hơn nhận thức về người phụ nữ nói chung. Nghiên cứu đặc tính cấu trúc nhân vật nữ còn giúp người
nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn các vấn đề văn hóa đương đại đang đặt ra như vấn đề giới, ý thức nữ
tính, cái nhìn của chủ thể nhà văn nữ.
2. Trong số các nhà văn nữ đương đại, Y Ban là một cây bút có vị trí nổi bật. Được xem là
một trong những nhà văn nữ chuyên sâu khai thác về chủ đề người phụ nữ, Y Ban đã khẳng định
vị trí, tên tuổi của mình trong văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung và trong dòng văn học nữ
nói riêng. Những gì Y Ban thể hiện trong tác phẩm là minh chứng cho những cố gắng, tìm tòi,
sáng tạo và đóng góp của bà trong việc thể hiện những quan niệm mới về người phụ nữ hiện đại.
Có thể nói, nhân vật là một trong những phương diện đánh dấu sự thành công của bà. Trên cơ sở
tìm hiểu về nhân vật nữ trong văn xuôi truyền thống và tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả
luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Y Ban nhằm chỉ ra những
độc đáo, mới mẻ trong một số biểu hiện quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ, về thế giới nhân
vật và các thủ pháp xây dựng nhân vật nữ của nhà văn. Từ đó góp phần khẳng định những đóng
góp và vị trí của nhà văn vào tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Qua việc nghiên cứu nhân vật nữ trong tiểu thuyết Y Ban, chúng tôi đã nhận thấy những
điểm độc đáo, nổi bật sau đây:
Thứ nhất, về một số biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ: Xuất phát từ cái
phông nền là cuộc sống đương đại với những lo toan, hỗn độn và phức tạp, Y Ban đã nhìn nhận
người phụ nữ hiện đại với sự tổng hợp của: con người bất hạnh, con người khát khao, con người
bản năng – đó là phần bí ẩn trong người phụ nữ mà nhà văn muốn khám phá và tìm hiểu. Người
phụ nữ đã được bà chú ý khai thác trên nhiều bình diện, nhiều khía cạnh, ở cả những khuất khúc
trong tâm hồn tình cảm và chiều sâu thân phận. Khai thác người phụ nữ ở những khía cạnh: bi
kịch, khát khao và bản năng, Y Ban đã cho người đọc thấy quan niệm nghệ thuật về người phụ nữ
hiện đại, tuy không thật mới mẻ nhưng mang những nét riêng biệt. Chính vì vậy mà thế giới nhân
vật trong tiểu thuyết của bà hiện lên chân thực, sinh động, phong phú và phức tạp. Người đọc hình
dung được một thế giới đàn bà đầy bí ẩn, chênh vênh mà cũng đầy yêu thương và giàu đức hi sinh
cho nhân loại.
Về các kiểu nhân vật: tiểu thuyết của Y Ban đã tập trung khắc họa một số loại nhân vật tiêu
biểu: nhân vật bi kịch, nhân vật cô đơn, nhân vật tha hóa và nhân vật tự ý thức. Mỗi loại nhân vật
đều có những nét độc đáo riêng mang những cảm quan riêng của nhà văn. Tuy nhiên, nhân vật bi
kịch là kiểu nhân vật chủ yếu trong tiểu thuyết của bà. Với Y Ban, kiếp đàn bà là khổ đau. Họ là
hiện thân của những bi kịch trong muôn mặt của cuộc sống đương đại. Tuy nhiên, cho dù khổ đau,
bất hạnh nhưng những người phụ nữ trong sáng tác của bà vẫn luôn có trái tim ấm nóng với những
phẩm chất, đức tính tốt đẹp vốn có, khát khao được sống, được yêu, được là chính bản thân mình,
dám sống thật với những khát khao của mình. Thông qua nhân vật nữ, Y Ban đã nêu lên nhiều vấn
đề sâu sắc, những vấn đề mang ý nghĩa thời đại. Một trong những vấn đề xuyên suốt trong cả ba
tiểu thuyết mà tác giả đặt ra khi xây dựng nhân vật là vấn đề thân phận người phụ nữ cũng như
những cố gắng trong việc tìm kiếm giá trị đích thực cho họ. Đây chính là ý nghĩa nhân văn thấm
sâu trong mỗi trang viết của bà.
Về những thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ: Để xây dựng thành công nhân vật nữ
trong sáng tác của mình, Y Ban đã kết hợp sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó tập trung ở
độc thoại nội tâm, ngôn ngữ thông tục, đời thường và hình tượng hóa “cái tôi” nhà văn. Với việc
sử dụng đầy sáng tạo các thủ pháp nghệ thuật này đã cho thấy cách nhìn con người và thế giới đa
chiều của bà. Bà đã tạo dựng bức chân dung tinh thần đa sắc vẻ của người phụ nữ hiện đại trong
hiện thực cuộc sống thô nhám, trắc trở, gấp khúc. Đây cũng chính là những đóng góp đáng ghi
nhận của nhà văn vào quá trình cách tân tiểu thuyết Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Y Ban, chúng tôi nhận
thấy Y Ban thực sự là nhà văn có trách nhiệm với nghề, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm và đổi
mới cảm hứng sáng tạo cũng như bút pháp thể hiện. Y Ban thực sự đã tạo dựng cho mình một bản
sắc văn xuôi độc đáo. Với lối viết riêng, Y Ban đã góp một tiếng nói làm phong phú hơn bức tranh
văn xuôi nữ nói riêng và nền văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung.