Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC III: BIỆN CHỨNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY – GIAI CẤP, DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.12 KB, 101 trang )

Th.s Trần Thị Hà Giang

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC III
BIỆN CHỨNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
- CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY – GIAI CẤP, DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI

Giảng viên: Th.s Trần Thị Hà Giang

1


Th.s Trần Thị Hà Giang

PHẦN THỨ NHẤT: BIỆN CHỨNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1. Xã hội và các đặc trưng cơ bản của quy luật xã hội
1.1.1. Xã hội và quy luật xã hội
Xã hội là gì?
Trước Mác, có nhiều học thuyết, lý luận tìm cách lý giải về bản chất và quy
luật vận động của xã hội loài người trong đó có những khía cạnh hợp lý, tiến bộ
nhưng chưa chỉ ra được tính quy luật của nó do chủ yếu lấy hệ tư tưởng (tôn giao,
pháp luật, chính trị,...) làm cơ sở. Chưa có học thuyết, lý luận nào giải quyết được
toàn diện, triệt để về cơ sở khoa học của bản chất và quy luật vận động, phát triển
của xã hội loài người.
Thời kỳ cổ đại:
Hêrôđôt: tìm cái chung thông qua việc mô tả hoạt động sản xuất của con
người và lưu truyền cho các thế hệ sau.
Pratôn: nêu ra mô hình nhà nước lý tưởng dựa trên sự bất bình đẳng trong xã
hội.


Thời kỳ trung cổ:
Tômat Đacanh, Bêcơn: giải thích xã hội, số phận con người theo quan điểm
coi lịch sử là sự thể hiện của mệnh trời, số phận con người do thượng đế quy định.
Thời kỳ triết học khai sáng Pháp
Hecdo: cho rằng những lực lượng sống, những năng lực người là nguồn gốc
sự vận động xã hội.
Rutxô: cho rằng sở hữu tư nhân là nguyên nhân của bất bình đằng, của
những đối kháng trong xã hội và sự xuất hiện nhà nước. Để hạn chế sự bất bình
2


Th.s Trần Thị Hà Giang
đằng trong xã hội theo ông nên có nền dân chủ trực tiếp dựa trên cơ sở đồng thuận
xã hội và quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Xanhximông: mỗi xã hội đều là những bước tiến của lịch sử và chứng trải
qua những giai đoạn hưng thịnh,suy tàn, tan rã. Ông chia xã hội loài người thành 3
giai đoạn, trong đó có những tư tưởng đáng chú ý về giải phóng giai cấp công nhân,
loại bỏ sự bần cùng, nâng cao trình độ vật chất, văn hóa cho giai cấp nghèo khổ, tư
tưởng về nền sản xuất kế hoạch
Thời kỳ cận đại:
Vico: phân chia lịch sử xã hội loài người như phân chia các giai đoạn của
một vòng đời người là: thơ ấu, thanh niên, tuổi già.
Phuriê: chia lịch sử xã hội loài người thành 4 giai đoạn: mông muội, dã man,
gia trưởng, văn minh.
Moocgang: chia thành 3 thời kỳ: mông muội, dã man, văn minh.
Hêghen: chia thành 3 thời kỳ: Phương đông, Cổ đại, Giecmani. Ông vẫn lấy
tôn giáo làm công cụ thống trị.
Các quan điểm trên về xã hội vẫn mang màu sắc duy tâm vì vậy nó làm đảo
lộn, hạn chế sự phát triển xã hội. Một số nhà xã hội học tư sản xem xã hội là tổng
số các cá nhân, là sự kết hợp một cách cơ học giữa các cá nhân. Họ ví xã hội như

một bao tải khoai tây, mà mỗi cá nhân là một củ. Bắt đầu từ xã hội nguyên thủy đến
chăn nuôi và trồng trọt.
Ngày nay, có quan điểm cho rằng cần thay thế cách tiếp cận xã hội của lý
luận hình thái kinh tế - xã hội bằng cách khác, trong đó cách tiếp cận theo nền văn
minh của các nhà tương lai học A. Toffler và H. Toffler là đáng chú ý hơn cả. Họ
chia lịch sử xã hội loài người thành 3 nền văn minh thay thế nhau:
Văn minh nông nghiệp: nền văn minh khép kín, tự cung, tự cấp, kéo dài từ
những năm 1650 - 1750
3


Th.s Trần Thị Hà Giang
Văn minh công nghiệp: công nghiệp giữ vai trò chủ đạo, kéo dài từ những
năm 50 thế kỷ XX nhờ sự xuất hiện của các ngành khoa học mới: CN thông tin, CN
sinh học, CN vật liệu,... Nền văn minh đã làm ra hàm lượng tri thức nhiều hơn giá
trị thể lực của người lao động.
Văn minh hậu công nghiệp: quan điểm khoa học, kỹ thuật về xã hội chỉ có ý
nghĩa trong nghiên cứu trình độ và các giai đoạn tất yếu phải trải qua của kinh tế
mỗi nước, mà không có ý nghĩa trong phân chia chế độ xã hội của mỗi nước và
không thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội bởi
vậy mà không chỉ ra được quy luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác.
Quan điểm Mácxit về xã hội
Trên cơ sở phê phán quan điểm duy tâm trong mọi hình thức của triết học cổ
điển Đức về xã hội, phê phán quan điểm siêu hình về xã hội của triết học khai sáng
Pháp, triết học thời kỳ cận đại,... Mác đã đưa ra quan điểm của mình về xã hội
trong đó đề cao quan hệ xã hội giữa các cá nhân. Theo đó xã hội không phải là sự
kết hợp, ràng buộc duy tâm tôn giáo hay cơ học giữa các cá nhân với nhau.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, là một hình thức vận động cao
nhất của vật chất, là giới tự nhiên kéo dài ra. C.Mác cho rằng: “Xã hội không phải
gồm các cá nhân, mà xã hội là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan

hệ của các cá nhân đối với nhau”1. Hoặc “xã hội là sản phẩm của sự tác động qua
lại giữa những con người”2. Theo C.Mác, xã hội là do con người tạo ra, là một
thực thể đặc biệt, có quá trình hình thành, vận động và phát triển riêng. Sự vận
động và phát triển của xã hội chính là sự vận động, phát triển của cơ cấu xã hội. Ở
mỗi giai đoạn lịch sử xã hội, cơ cấu xã hội có dạng cơ bản, đặc thù. Đó chính là

1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, t.46, tr.335.

2

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996, t.27, tr.675.
4


Th.s Trần Thị Hà Giang
hình thái kinh tế xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội là một nấc thang của sự phát
triển xã hội.
Xã hội là một cấu trúc đặc biệt, trong đó nền tảng của nó là quan hệ sản
xuất - quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trên nền tảng những
quan hệ sản xuất ấy hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Trong các quan hệ xã hội thì quan hệ vật chất - quan hệ kinh tế giữa người
với người là cơ sở, là nền tảng quyết định những mối quan hệ khác. Trong nền sản
xuất xã hội, có các dạng sản xuất: sản xuất của cải vật chất, sản xuất tinh thần, “sản
xuất” ra chính con người. Sản xuất vật chất tạo ra hỗn hợp thông thường, sản xuất
trí tuệ tạo ra hỗn hợp đặc biệt, còn “sản xuất” con người tạo ra hỗn hợp sức lao
động.
Trong các quan hệ xã hội C.Mác đặc biệt chú ý tới quan hệ vật chất, coi đó
là quan hệ cơ bản và quyết định nhất, đó chính là quan hệ lợi ích, đặc biệt là lợi

ích kinh tế và vấn đề sở hữu. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của một phương
thức sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung bên trong của phương thức sản
xuất. Nội dung của phương thức sản xuất là cái khách quan thứ yếu, do vậy hình
thức biểu hiện của nó là quan hệ sản xuất thuộc quan hệ xã hội cũng mang tính
khách quan tất yếu. Do vậy, xã hội với tư cáhc là sản phẩm của sự tác động lẫn
nhau giữa người với người cũng được hình thành, vận động, phát triển một cách
khách quan tất yếu.
Quy luật xã hội
Xã hội hình thành, vận động biến đổi theo quy luật nội tại vốn có, đó chính
là quy luật xã hội. Quy luật xã hội khác với quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên
được hình thành và phát huy tác dụng do những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác
động lẫn nhau, là cái tất nhiên được biểu hiện thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Là
quy luật mà thuần tuý những lực lượng tự nhiên tác động lẫn nhau theo quy luật
5


Th.s Trần Thị Hà Giang
chính bản thân nó, không theo sự sắp xếp, chỉ đạo của con người. Quy luật tự nhiên
mang tính tự phát, tự nó, tự động của chính tự nhiên. Nó có thể được nhận biết qua
các phương tiện máy móc có độ chính xác cao. Còn quy luật xã hội chỉ là những
quy luật hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình, là quy luật
lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế thông qua lăng kính giai cấp. Là loại quy luật nhận
thức, C.Mác cho rằng, bất cứ một cương lĩnh nào, tuyên ngôn chính trị nào, bất cứ
một hứa hẹn của vĩ nhân chính trị nào đằng sau đó là lợi ích. Kinh tế là nội dung
vật chất của chính trị. Mọi cái chính trị sẽ tự làm nhục mình nếu cái chính trị đó
thoát ly lợi ích. Trong quy luật xã hội, cái chủ thể tiến dần tới cái khách thể do nhận
thức được quy luật.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quy luật xã hội
Đặc điểm chung
Cũng giống như quy luật tự nhiên, quy luật xã hội mang tính khách quan,

tính xu hướng, tính tất yếu và phổ biến.
Tính khách quan: Quy luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của
con người nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức của con người, không phụ thuộc
vào ý chí cá nhân hay một lực lượng xã hội nào. Bởi vì, bằng hoạt động thực tiễn
con người tạo ra xã hội, làm nên lịch; song, những hoạt động của con người được
thực hiện trong những điều kiên sinh hoạt vật chất nhất định, trong những mối quan
hệ nhất định giữa con người với tự nhiên, mà những điều kiện và những mối quan
hệ đó là khách quan đối với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ, mỗi con người
khi họ theo đuổi mục đích của bản thân mình.
Quy luật xã hội được biểu hiện ra như là xu hướng, mang tính xu hướng. Xu
hướng xã hội là xu hướng của số đông, là tổng hợ lực của các lực lượng lẫn nhau.
Những mối liaan hệ và sự tác động lẫn nhau vô cùng phức tạp giữa người và người
đã tạo ra những hoạt động khác nhau trong xã hội. Tổng hợp những lực lượng khác
6


Th.s Trần Thị Hà Giang
nhau đó tạo thành xu hướng vận động của lịch sử, trong đó, lực hoạt động của khối
đông người chiếm ưu thế. Điều đó có nghĩa là, mặc dù hoạt động của con người
trong xã hội biểu thị cho rất nhiều ý muốn, nhiều mục đích của nhiều con người
khác nhau, và những ý muốn và mục đích đó luôn chồng chéo nhau, thậm chí đối
lập nhau, mâu thuẫn nhau, nhưng quy luật xã hội chỉ phản ánh những ý muốn,
những mục đích của khối đông người, phù hợp với xu hướng vận động và phát
triển của lịch sử. Xu hướng này là khách quan, không có một thế lực nào điều khiển
được.
Tính tất yếu và tính phổ biến: Những mối quan hệ của con người trong xã
hội được hình thành một cách tất yếu nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội. Có nhiều loại quy luật. Có quy luật xã hội tồn tại phổ biến ở mọi hình
thái kinh tế xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, tồn tại xã hội phù hợp với ý thức xã hội. Có loại quy luật chỉ tồn tại

trong một số giai đoạn phát triển xã hội như: Có loại quy luật chỉ tồn tại trong một
giai đoạn phát triển xã hội như: quy luật giai cấp và đấu tranh giai cấp. Có loại quy
luật chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử xã hội, có loại quy luật chỉ tồn tại trong
một lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức…
Quy luật xã hội có đặc điểm riêng
Nó tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định, khi điều kiện tồn tại
xã hội không còn thì quy luật xã hội ấy cũng không còn. Thí dụ như quy luật giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Để nhận thức được quy luật xã hội cần phải có phương
pháp khái quát hoá và trừu tượng hoá. Quy luật xã hội và quy luật tự nhiên gắn bó
chặt chẽ với nhau. Khi con người nhận thức được quy luật tự nhiên trong “thế giới
vật tự nó” khi con người có tự do. Con người có thể nhận thức được quy luật xã hội
và vận dụng nó vào hoạt động có mục đích của mình. Nhận thức được quy luật, vận

7


Th.s Trần Thị Hà Giang
dụng nó tức là nhận thức được cái tất yếu. Tự do là nhận thức cái tất yếu và làm
theo cái tất yếu nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sự tác động của quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người.
Động lực cơ bản thúc đẩy con người hoạt động trong mọi thời đại, mọi xã hội là lợi
ích của chủ thể hoạt động. Do vậy, lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ
chế hoạt động của quy luật xã hội và trong sự nhận thức của con người về nó. Điều
này không làm mất đi tính khách quan vốn có của quy luật xã hội, bởi vì, tuy hoạt
động của con người bao giờ cũng nhằm theo đuổi những lợi ihcs và mục đích khác
nhau, nhưng kết quả tác động của quy luật xã hội lại không phụ thuộc vào ý muốn
của từng cá nhân mà hướng đến ý muốn ưu trội của khối đông người đó. Do đó, lợi
ích ở đây không thể nào là lợi ích cá nhân, àm phải là lợi ích của cộng đồng, của
giai cấp.
Một đặc điểm nữa của quy luật xã hội là để nhận thức được nó cần phải có

phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa rất cao. Bởi vì, sự biểu hiện và tác
động của quy luật xã hội thường diễn ra trong một thời gian rất lâu, có khi là trong
suốt quá trình lịch sử, do đó không thể dùng thực nghiệm để kiểm tra như những
quy luật của tự nhiên, cũng không thể dùng lối suy diễn logic một cách đơn thuần.
Để nhận thức các quy luật xã hội cần phải nghiên cứu những nguyên nhân
thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Quy luật xã hội là quy luật hoạt động
của con người. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động của con người là một chuỗi nhân
quả xã hội. Nhu cầu và lợi ích là nguồn gốc, là động cơ trực tiếp thúc đẩy con
người hoạt động và do đó, cũng là nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển
của xã hội.
Quy luật xã hội và quy luật tự nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau trong hoạt
động của con người. Để đạt được sự phát triển lâu bền của xã hội, một mặt, con
người phải tôn trọng và tuân theo những quy luật xã hội, mặt khác, cũng phải tuân
8


Th.s Trần Thị Hà Giang
theo những quy luật của tự nhiên, có như vậy mới đảm bảo được những cơ sở tự
nhiên cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
1.2. Biện chứng của sự phát triển xã hội bắt nguồn từ mâu thuẫn và đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn
1.2.1. Mâu thuẫn và mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn:
Triết học thời cổ đại mà điển hình là 3 nền triết học lớn đó là Trung Quốc, ấn
Độ và Hy Lạp. Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thiên niên kỷ thứ
II trước công nguyên. Tuy nhiên phải đến cuối đời Xuân Thu - Chiến quốc, các hệ
thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện. Những quan điểm biện chứng về
mâu thuẫn thời kỳ này đã xuất hiện tuy còn sơ khai. Ví dụ như trường phái Âm Dương, Phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất
tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại
tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập được gọi là sự thống nhất của Âm

- Dương. Âm - Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa
cái nguyên lý ấy còn được giải thích theo nguyên tắc của luật phi bài trung. Quy
luật này thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt đối lập
kia - ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng sinh thành.
Sang đến phái Đạo Gia mà người sáng lập là Lão Tử, ông cũng có những tư
tưởng biện chứng độc đáo về sự thống nhất biện chứng của mặt đối lập này bao
hàm khả năng của mặt đối lập. Ông nói “Có và không tương sinh lẫn nhau, dễ và
khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau
theo nhau”. Tất cả trong đó, mỗi mặt đều trong quan hệ với mặt đối lập, không có
mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng cũng chỉ là tương đối “ai cũng
cho cái đẹp là đẹp do đó sinh ra quan niệm về cái xấu, ai cũng cho điều thiện là
thiện mà sinh ra quan niệm về cái ác.
9


Th.s Trần Thị Hà Giang
Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù “vô ngã” “vô thường” (của trường phái
Phật Quốc). Một tồn tại nào đó chẳng phải là nó mà là tổng hợp hội họp của những
cái không phải là nó mà nhờ hội đủ nhân - duyên. Trong cái Một đã bao hàm cái
Đa, cái nhiều. Không có tồn tại nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác. Tất cả
đều duy nhiếp nhau, và hoà đồng với nhau. Nhưng đã như vậy thì tất yếu phải đi tới
một khẳng định về lẽ vô thường. Vô thường là chẳng thường hằng. Thường hằng là
bất biến; Chẳng bất biến tức là biến, biến tức là biến động. Sinh - biến, biến - sinh;
có có - không không, nay có - mai không... tất cẩ đều trong quy luật nhất định. Có
thể nói cùng với sự phát triển của các hình thức kinh tế - xã hội các tư tưởng Triết
học về mâu thuẫn cũng ngày càng ró nét.
Heraclit - nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó thì
phỏng đoán rằng mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của Thế giới. Theo ông, các
mặt đối lập gắn bó, quy định, ràng buộc với nhau: cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh
đi, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn... Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể

thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng
đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động: “Sống là chết, chết là sống, chúng
sống là nhờ cái chết và chúng chết là cho cái sống”. Vì thế đấu tranh là “cha đẻ
của tất cả, là ông hoàng của tất cả”. Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ,
nền triết học thời kỳ này chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và
cái riêng.
Sang đến triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành
tựu về khoa học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và duy vật cũng
diễn ra hết sức gay gắt. Nhưng các quan điểm của thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào
siêu hình máy móc. Sang đến triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư
tưởng triết học tiến bộ, cách mạng và khoa học.

10


Th.s Trần Thị Hà Giang
Triết học cổ điển Đức đã đạt tới trình độ khái quát và tư duy trìu tượng rất
cao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ ao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ,
thể hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực quan siêu hình của
nền triết học Anh - Pháp ở thế kỷ XVII - XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về
mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể. Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển
Đức là Heghen. Mặc dù là nhà triết học duy tâm nhưng học thuyết về bản chất và
tư tưởng của Heghen về mâu thuẫn lại hết sức biện chứng. Đây là một trong những
học thuyết giá trị nhất của ông. Ông coi mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động, là
nguyên lý của sự phát triển. Theo ông, lúc đầu bản chất là sự đồng nhất giữa những
“tính quy định” rồi trong sụ đồng nhất ấy bộc lộ ra những khác biệt, rồi khác biệt
lại chuyển thành những mặt đối lập và cuối cùng xuất hiện mâu thuẫn. Song theo
ông mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải của thế
giới vật chất. Hêghen cũng đưa ra tư tưởng cho rằng hiện tượng và bản chất thống
nhất với nhau, bản chất thể hiện ra trong hiện tượng và hiện tượng là thể hiện của

bản chất. Hêghen cùng phân tích một cách biện chứng khái niệm hiện thực, coi
hiện thực là thống nhất giữa bản chất với tồn tại. ông phê phán quan điểm siêu hình
về tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực... Song song với những quan
điểm biện chứng về mâu thuẫn, trong lịch sử triết học cũng xuất hiện sự đấu tranh
gay gắt giữa các quan điểm này với các quan điểm siêu hình của những nhà siêu
hình học, họ phủ nhận mâu thuẫn bên trong của các sự vật và hiện tượng. Theo họ
sự vật là một cái gì đồng nhất, thuần tuý, không có mâu thuẫn trong bản thân nó.
Tư duy của người ta về sự vật có thể còn mâu thuẫn, song như vậy thì tư duy đó sai
lầm, không đáng tin cậy. Những người theo quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận có
những sự đối kháng, sự xung đột giữa các sự vật và hiện tượng với nhau, nhưng
không cho đó là quy luật.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn:
11


Th.s Trần Thị Hà Giang
Triết học cổ điển Đức đã tạo tiêu đề cơ sở lý luận trực tiếp cho sự ra đời của
triết học Mác. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Nó là sự kết tinh những giá trị
cao quý của tư duy triết học, văn hoá, lịch sử nhân loại. Sự ra đời của triết học Mác
là một tất yếu lịch sử, phù hợp với những tiền đề kinh tế - xã hội cũng như các tiền
đề về lý luận và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Phương pháp tư duy siêu hình từng
thống trị trong khoa học và trong triết học duy vật đã bị những phát minh mới nhất
nửa đầu thế kỷ thứ XIX, giáng một đòn mạnh mẽ. Nhận thức duy vật biện chứng về
mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác là nhận thức đúng đắn nhất nó đã phát triển thành
một quy luật - Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - là một trong
những hạt nhân của phép biện chứng. Lênin viết “Có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải
thích và một sự phát triển thêm”3 Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự
vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật và

hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh
hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ rằng buộc
nhau tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan
mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật
hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người. Chằng
những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật, hiện tượng mà còn tồn tại phổ biến
trong suốt quá trình phát triển của chúng. Không có sự vật nào, hiện tượng nào lại
không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật,
hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, thì mâu thuẫn khác lại
hình thành. Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn. Ăngghen
chỉ ra rằng, ngay hình thức vận động đơn giản nhất của vật chất - vận động cơ học,
3

V.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr.240.
12


Th.s Trần Thị Hà Giang
đã là một mâu thuẫn. Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể
thực hiện được chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này lại vừa ở nơi
khác, vừa là ở trong cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự
tồn tại của vật chất ở những hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu
thuẫn.
Và chính bản thân sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các
sự vật và các quá trình, tự đề ra và tự giải quyết không ngừng, và khi mâu thuẫn đã
hết thì sự sống cũng không còn nữa vì cái chết đã xảy đến. Cũng như chúng ta đã
thấy rằng trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn;
chẳng hạn như mỗi mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thực vô tận ở bên trong của
con người với sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn
chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu

thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối
với chúng ta, thực tế cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô
tận.
Mâu thuẫn biện chứng:
Khi nói tới nhân tố cấu thành mâu thuẫn biện chứng, “đối lập”, “mặt đối lập”
là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng không nên nhầm lẫn mặt đối lập với
mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kỳ mặt
đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một
chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành
mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó mặt đối lập vừa thống nhất với
nhau vừa đấu tranh với nhau. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ

13


Th.s Trần Thị Hà Giang
thống nhất với nhau. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua
lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng được hình thành từ hai mặt đối lập biện chứng (hai
mặt có các thuộc tính, khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau). Sự cùng tồn tại từ
hai mặt đối lập biện chứng trong không gian và thời gian liên hệ với nhau tạo
thành một chỉnh thể thống nhất. Các mặt đó tác động qua lại, đấu tranh với nhau,
đồng thời thống nhất với nhau. Sự đấu tranh là tuyệt đối, sự thống nhất là tương
đối. Mâu thuẫn biện chứng có tính khách quan, tính phổ biến và tất yếu. Là xung
lực nội tại của mọi sự vận động và phát triển.
1.2.2. Mâu thuẫn xã hội và tiến bộ xã hội
Mâu thuẫn xã hội là một loại mâu thuẫn đặc thù. Nó bao hàm mối quan hệ
giữa khách thể và chủ thể. Sự đối lập về lợi ích là nhân tố nội tại làm nảy sinh và

tồn tại của những mâu thuẫn xã hội. Mâu thuẫn xã hội là hình thức và kết quả hoạt
động của con người, nảy sinh trong đời sống, được giải quyết nhờ những hoạt động
của con người. Không phải là mọi mâu thuẫn xã hội đều do nguyên nhân khách
quan. Có mâu thuẫn xã hội do ý thức chủ quan của con người. Mâu thuẫn chủ quan
không phải là mâu thuẫn biện chứng, không phải là động lực phát triển của xã hội.
Mâu thuẫn xã hội là mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội có lợi ích đối lập nhau.
Biện chứng của các quá trình xã hội chính là sự tác động, chuyển hoá lẫn
nhau giữa cái khách quan và cái chủ quan. Tính đặc thù của xã hội biểu hiện ở
chỗ, mọi sự vận động và phát triển xã hội được thực hiện bởi con người. Quy luật
khách quan của xã hội tác động thông qua hoạt động của con người với tính cách là
một hoạt động có ý thức. Thông qua hoạt động của con người, cái khách quan và
cái chủ quan luôn chuyển hoá lẫn nhau. Cái khách quan được chuyển hoá thành
mục đích và phương pháp hành động của con người. Con người (cái chủ quan) lại
được chuyển hoá thành cái khách quan trong kết quả hoạt động của con người.
14


Th.s Trần Thị Hà Giang
Trong sự vận động và phát triển của xã hội trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là kết quả năng lực thực tiễn của thế hệ trước chuyển hoá thành cái khách
quan. Các quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan, nhưng lại được
thực hiện thông qua cái chủ quan. Trong sự phát triển xã hội, nhân tố chủ quan
ngày càng giữ vị trí quan trọng. Những tư tưởng tiến bộ, cách mạng trong quá trình
chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế x hình thái khác, vì
thế có vai trò to lớn. Vai trò nhân tố chủ quan được thể hiện rõ rệt trong sự phát
triển khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ phát triển là động lực cho sự phát
triển của xã hội.
Biện chứng của sự phát triển xã hội bao hàm cả khái niệm tiến bộ xã hội .
Có nhiều quan niệm về tiến bộ xã hội. Có quan niệm đồng nhất tiến bộ xã hội với
phát triển. Có quan niệm phân biệt tiến bộ với phát triển. Thực ra, phát triển là vận

động theo hướng đi lên, song phát triển bao giờ cũng là quá trình phức tạp. Trong
phát triển có tiến bộ và thoái bộ. Tiến bộ xã hội là sự tiến lên của xã hội về kết cấu,
tổ chức, chức năng của xã hội. Sự thay thế của HTKTXH là sự biểu hiện rõ nhất
của tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội diễn ra như là một quá trình tự nhiên, tuân theo
quy luật khách quan của xã hội. Các HTKTXH là các nấc thang, những giai đoạn
cơ bản trong sự tiến bộ xã hội. Nguyên nhân, nguồn gốc, động lực của tiến bộ xã
hội nằm trong bản thân xã hội. Đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội là động lực
của tiến bộ xã hội trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Tiêế bộ xã hội vận động
theo hướng đi lên. Xã hội cộng sản chủ nghĩa như là đỉnh cao của tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản là kiểu tiến bộ xã hội mới về chất trong lịch sử xã hội.
Những đặc điểm của tiến bộ xã hội:
- Tiến bộ xã hội là quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn giữa tiến bộ và thoái
bộ, thắng lợi và thất bại, văn minh và tàn bạo, hoà bình và chiến tranh, hạnh phúc
và đau khổ. Tiến bộ xã hội, vì thế diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn.
15


Th.s Trần Thị Hà Giang
Con đường tiến bộ xã hội tuy khó khăn, phức tạp nhưng xuyên suốt là sự vận động
tiến lên từ thấp đến cao, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử xã hội.
- Tiến bộ xã hội được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của con người,
được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của con người, được thực hiện trong sự
thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội, trong sự phát triển của các phương thức
sản xuất.
- Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cũng thể hiện sự tiến bộ xã hội. Giai
đoạn đầu của mỗi hình thái thể hiện sự tiến bộ, giai đoạn sau thể hiện ra như sự
thoái bộ.
- Sự tiến bộ xã hội diễn ra không đều. Xã hội bao giờ cũng tồn tại với tư cách
là một chỉnh thể, trong đó gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận. Bản thân mỗi yếu tố,
mỗi bộ phận lại có tính tương đối, vận động độc lập và tuân theo những quy luật

riêng. Theo C.Mác, giữa cơ ở sản xuất và nghệ thuật không phải lúc nào cũng
tương ứng. Ph.Ăngghen cho rằng, từ xã hội nguyên thuỷ lên xã hội nô lệ là một
bước tiến về xã hội nhưng lại là một bước lùi về đạo đức, hoặc từ xã hội nô lệ lên
xã hội phong kiến là một bước lùi về triết học. Như vậy tiến bộ trong mối quan hệ
này nhưng lại thoái bộ trong mối quan hệ khác.
Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội căn cứ vào sự phát triển của lực lượng sản
xuất, vào sự phát triển của khoa học – công nghệ, vào sự phát triển con người (tiêu
chuẩn HDI).
1.2.3. Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện
nay
Quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó

16


Th.s Trần Thị Hà Giang
trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì có hai
con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là con đường quá
độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ
cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ
nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình
thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam
là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ
thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và làm
phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước
ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi
phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến
mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp
kém của nước ta.
Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta

17


Th.s Trần Thị Hà Giang
Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH hiện nay ở nước ta mâu thuẫn giữa sản
xuất và tiêu dùng được biểu hiện cụ thể giữa một bên là yêu cầu thỏa mãn các nhu
cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của nhân dân và bên kia là nền sản xuất
thấp kém, đang còn ở trình độ của nền sản xuất hàng hóa giản đơn và mang nhiều
tính tự túc, tự cấp.
Theo logic phát triển khách quan của sự vật, sau khi phá vỡ kết cấu kinh tế
xã hội cổ truyền theo kiểu phương đông thì nền kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ và
tự nó sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, từ đó sẽ tạo ra một trạng thái
xã hội phát triển cao hơn cả về lượng lẫn và chất so với xã hội tiền tư bản, đáp ứng
đầy đủ hơn về các nhu cầu vật chất của con người. Nhưng đồng thời nó cũng kéo
theo những hậu quả tiêu cực gắn liền với tình trạng người bóc lột người. Chính vì
những tiêu cực đó mà chúng ta muốn tìm ra con đường đi khác làm cho con người

bình đẳng hơn. Ngoài hai mâu thuẫn cơ bản trên, trong quá trình đi lên chủ nghĩa
xxa hội ở nước ta còn sự tác động của mâu thuẫn thứ ba, mâu thuẫn mà sự vận
động của nó quyết định toàn bộ sự phát triển của xã hội, đó là mâu thuẫn giữa một
bên là sự phát triển của các lực lượng, các khuynh hướng đi lên TBCN và bên
kia là sự can thiệp tự giác (và do đó có yếu tố chủ quan) của chúng ta vào quá trình
phát triển tự giác ấy của sự vật, hướng nó đi theo con đường phát triển để cho xã
hội vừa giàu mạnh vừa thoát khỏi tình trạng người bóc lột người. Toàn bộ sự
nghiệp xây dựng CNXH của chúng ta thành công hay thất bại đều tùy thuộc ở kết
quả giải quyết mâu thuẫn này.
Trước đây, khi xem xét kết quả của một hình thái kinh tế xã hội nhất định,
chúng ta ta chỉ tìm nó trong lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Nhưng
chúng ta đã biết, xã hội không chỉ gồm lĩnh vực đời sống vật chất cho dù đó là lĩnh
vực đời sống quan trọng đi nữa, mà còn bao gồm lĩnh vực đời sống chính trị - tinh
thần đặc biệt là sự tác động qua lại giữa chúng. Ngoài hoàn cảnh kinh tế là cơ sở ra
18


Th.s Trần Thị Hà Giang
còn có các yếu tố khách quan khác nhau của kiến trúc thượng tầng, kể cả các hình
thái ý thức xã hội như các lý luận chính trị, pháp lý, triết học và sự tác động qua lại
giữa chúng đều tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thậm chí đôi khi còn là tác
động quyết định.
Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình diễn ra với sự can thiệp
một cách chủ quan của con người nhằm đưa xã hội nhanh chóng vượt qua mọi áp
bức bóc lột để tạo ra một xã hội có trình độ phát triển vừa cao hơn vừa đẹp hơn
TBCN, vừa giàu có hơn, vừa không có tình trạng người bóc lột người. Sự can thiệp
này có thể làm cho sự phát triển của sản xuất diễn ra mạnh mẽ như chúng ta mong
muốn và cũng có thể kìm hãm sự phát triển ấy. Vì vậy, cũng có thể nói toàn bộ sự
nghiệp xây dựng CNXH của chúng ta thành công hay thất bại tùy thuộc vào kết quả
của sự can thiệp đang được đề cập tới, tức là tuỳ thuộc ở kết quả giải quyết mâu

thuẫn. Trước đây, chúng ta quan niệm phát triển theo con đường CNXH là sự phát
triển theo hướng trong đó sở hữu tư nhân được thay thế bằng sở hữu công cộng,
làm ăn cá thể được thay thế bằng làm ăn tập thể, kinh tế tư nhân được thay thế bằng
kinh tế quốc doanh hoặc hợp doanh, kinh tế hàng hóa được thay thế bằng kinh tế
phát triển tương đối và có kế hoạch, quan hệ bóc lột được thay thế bằng quan hệ có
làm có hưởng, không làm không hưởng, quan hệ hàng hóa được thay thế bằng quan
hệ phân phối hiện vật, cạnh tranh được thay thế bằng một xã hội có trật tự, … Tất
cả những biến đổi trên đây theo những nước đạt đến trình độ phát triển cao của tư
bản chủ nghĩa là sẽ diễn ra một cách tất yếu và tự phát. Thay thế quá trình phát
triển ấy chúng ta sẽ dùng ý chí của mình để thực hiện các biến đổi đó, buộc sự vật
phải diễn ra nhanh chóng theo ý chúng ta mong muốn. Nếu nhìn thẳng vào sự vật
ấy thì phải thấy đây không phải là mâu thuẫn giữa hai con đường phát triển khách
quan, mà thực chất là mâu thuẫn giữa một bên là con đường phát triển tất yếu
khách quan theo hướng TBCN với bên kia là sự can thiệp chủ quan của con người
19


Th.s Trần Thị Hà Giang
nhằm buộc xã hội đi theo con đường chúng ta mong muốn hướng tới một xã hội
mới – XNCN. Trong thực tiễn xây dựng CNXH hơn 70 năm qua cho thấy những
nỗ lực chủ quan của chúng ta đã không thành công. Những nỗ lực ấy tuy đã tạo ra
được một xã hội trong chừng mực nhất định có những nét đẹp hơn TBCN trong
việc chăm lo đến con người, trong mối quan hệ giữa người với người, nhưng đồng
thời nó cũng triệt tiêu mất những động lực của sự phát triển xã hội làm cho xã hội
của chúng ta phát triển chậm hơn so với các nước tư bản về nhiều phương diện.
Thực tiễn đó đã buộc chúng ta phải đi giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ
quá độ lên CNXH theo cách khác.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập
của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển,

tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm (1).
Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực hiện phát triển
đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động trong
nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt
các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác
động không lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế
giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt
hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của
kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng
bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực
20


Th.s Trần Thị Hà Giang
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được những giải
pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những
mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề
xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất
bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư
tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng
ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã
hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều
hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng hơn… Chúng ta chưa tìm được những
phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.
Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận

xã hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất
yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu
kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch nhằm thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với nước ta bằng nhiều con đường, nhiều biện
pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính
trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ,
Đảng viên và nhân dân phân tâm… Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh
trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống
thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân
dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện
21


Th.s Trần Thị Hà Giang
đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của bản
thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để
khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự
thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn
nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp
hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng ta chưa có
những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn thấp. Bộ máy của hệ
thống chính trị còn quá cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng

lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị còn xuất
hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không
nghiêm. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công
chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể còn
trong tình trạng viên chức hoá… Sự yếu kém đó, nếu không được khắc phục có
hiệu quả, thì một số phương diện của hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối
với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ
về lý luận và thực tiễn cho quá trình đó.
Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới.
Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tất nhất để xác lập vững chắc quan
điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền,
không đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc
phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp
22


Th.s Trần Thị Hà Giang
với truyền thống văn hoá chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hoá chung của
nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh
trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước,
nhưng kết quả đạt được trên thực tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính tiến
hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực
Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của
nhân dân đối với chính quyền và cán bộ, Đảng viên còn mờ nhạt.
Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả
năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động
tiêu cực của hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển,
nhưng chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối

quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữa
độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa
dạng hơn… với việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2.4. Biện chứng khách quan của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội làm bộc lộ biện chứng khách quan
của sự phát triển xã hội; đường lối đổi mới là kết quả của sự vận dụng tổng hợp
những quan điểm phương pháp luận cơ bản của triết học mác xít, của phép biện
chứng xã hội vào giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt; bản thân quá trình
đổi mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn, có tính quy luật. Đó là biện chứng
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
xây dựng xã hội dân sự; giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa tăng cường đại đòan kết toàn dân tộc với
23


Th.s Trần Thị Hà Giang
sự đa dạng hóa ngày một tăng lên về cơ cấu xã hội; giữa việc giữ vững độc lập
tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh
vực
Trước hết, về nội dung kinh tế-xã hội: Trong TKQĐ lên CNXH, kết cấu kinh
tế-xã hội TBCN và kết cấu kinh tế-xã hội XHCN cùng chung sống, tác động qua
lại, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, thống nhất đa dạng trong nền kinh tế do nhà nước
tổ chức, quản lý. Nhà nước này là nhà nước pháp quyền XHCN, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Ngày nay, ở nước ta,
đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế này tồn tại và phát
triển lâu dài trong TKQĐ lên CNXH, nhất là trong điều kiện bỏ qua chế độ TBCN.
Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua chế độ
TBCN, nên phải từng bước xây dựng LLSX hiện đại, đồng thời phải xây dựng

QHSX phù hợp. Cho nên, mặc dù chúng ta có lợi thế của nước đi sau, có thể đi tắt,
đón đầu về khoa học-công nghệ; song TKQĐ lên CNXH của nước ta chắc chắn rất
lâu dài, gian khổ và phức tạp. Chỉ khi nào, xã hội mà chúng ta đang xây dựng, tạo
ra được năng suất lao động cao hơn CNTB, thì con đường bỏ qua chế độ TBCN đi
lên CNXH mới giành được thắng lợi; CNXH mới có cơ sở vững chắc để tồn tại,
phát triển, góp phần tích cực thúc đẩy thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới.
Về nội dung chính trị: Vấn đề quan trọng hàng đầu là xây dựng một nhà
nước kiểu mới, gắn liền với xây dựng một nền dân chủ mới. Đây là kiểu nhà nước
chưa từng có trong lịch sử nhân loại, là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Để xây dựng được nhà nước đó, thay thế cho kiểu
nhà nước của các giai cấp thống trị, là quá trình phức tạp, phải tìm tòi, thử nghiệm.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã dạy chúng ta: cuộc sống sẽ chỉ ra
cái gì có thể đứng vững được; do đó, chúng ta phải tìm tòi, tổ chức một nhà nước
24


Th.s Trần Thị Hà Giang
và cơ chế hoạt động như thế nào để thể hiện, đảm bảo và thực sự phát huy vai trò,
hiệu lực làm chủ của nhân dân. Chẳng hạn như: xây dựng và tổ chức hoạt động của
quốc hội như thế nào, để khi họp, bàn bạc, biểu quyết và đi đến quyết định phải thể
hiện được sự thống nhất ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân,...; nhất là, tổ
chức bầu cử quốc hội như thế nào để đảm bảo dân chủ thực sự, thống nhất lòng dân
và sự lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo xây dựng pháp luật nhưng các tổ chức
đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật;
Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, xét xử, nhưng phải đảm bảo quyền độc lập của cơ
quan xét xử;... Đây là những vấn đề phức tạp, chưa có tiền lệ mà thực tiễn cuộc
sống đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có hiệu quả.
Tổ chức nhà nước kiểu mới, gắn mật thiết với xây dựng nền dân chủ mới. Đó
là nền dân chủ của đa số người dân, trước hết là của nhân dân lao động. Nền dân

chủ mà nhân dân ta đang xây dựng là nền dân chủ XHCN, ở đó quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, mọi hoạt động của công dân đều phải tuân thủ pháp luật, theo
quyết định của đa số. Tuy nhiên, ý kiến của thiểu số sẽ được bảo lưu, nếu thực tiễn
kiểm nghiệm đúng thì sẽ được vận dụng vào thực tế; nhưng để tổ chức nhân dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì vẫn phải theo quyết định của đa số. Tổ chức một
nền dân chủ như thế phải rất tỉ mỉ, cụ thể. Từ trình độ nước kém phát triển, nhân
dân ta chưa trải qua nền dân chủ tư sản mà bước thẳng lên nền dân chủ XHCN, thì
không khỏi lúng túng, bỡ ngỡ, khó khăn. Vì vậy, việc xây dựng nền dân chủ
XHCN của nước ta cần thời gian không ngắn, cần trải nghiệm nhiều hình thức,
nhiều bước đi để chọn lọc những yếu tố hợp lý, trình độ dân chủ được mở rộng,
thấm sâu, dần dần, trên cơ sở phát triển kinh tế và văn hóa của nhân dân. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất được lịch sử, nhân dân và dân tộc giao phó sứ
mệnh lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, thì tổ chức nền dân chủ mới ấy càng là

25


×