Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Phân tích nội dung quy luật lượng và chất? Ý nghĩa phương pháp luận. Vận dụng vào quá trình đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.23 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Tầm quan trọng của đề tài với môn học và bản thân thực tiễn
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Chúng tác
động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại, nếu
không có tính quy định về chất và ngược lại, mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa
lượng và chất, sự thay đổi dần dần về luongjwtrong khuôn khổ của độ tới điểm nút
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác
động trở lại đến sự thay đổi của lượng mới. quá trình tác động đó diễn ra liên tục,
làm cho sự vật không ngừng phát triển biến đổi, vận dụng quy luật này vào thực tế
khá phong phú, chẳng hạn khi chúng ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò nung
có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới hàn nghìn độ , song thỏi thép vẫn ở
trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang được trạng thái lỏng, chúng ta biết sự vận
động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về
lượng đến một giớ hạn nhất định nào đó, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất .
Do đó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến chúng ta phải biết từng
bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất. Trong hoạt động của mình ông cha
ta cũng đã rót ra những tư tưởng sâu sắc như “ có công mài sắt, có ngày nên kim”
…. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đén sự thay đổi về chất
ngược lại là một tỏng những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật
này được áp dụng phỏ biến trong thực tế cuộc sống


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT
I.

Một số khái niệm cơ bản
1. Chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó


là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng.
Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
2. Lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc
tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự
vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý
chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay
ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
nhịp điệu nhanh hay chậm…
3.

Độ
Độ là giớ hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. sự vật vẫn là nó mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một
độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn thì độ sự vật không
còn là nó
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại
lẫn nhau làm cho sự vật vận động . Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh
đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng
nào cũng dẫn đến những thay đổi về chất. chỉ trong trường hợp khi sự
thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay
đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác


II.




Điểm nút: Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ
sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất
yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.



Bước nhảy: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sựn vật do sự thay đổi về lượng của sự vật đó gây nên, là sự kết thúc một
giai đoạn phát triển của một sự vật là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát
triển mới. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất thông qua bước nhảy.
Phân tích nội dung quy luật lượng - chất
1. Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ
Đối với nhiều nhà triết học hy lạp, vật chất thường đồng nhất với sự vật.
từ đó họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương
diện chất . trái lại những người thuộc trường phái pitago lại xem đặc trưng
về lượng của thế giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại. ho xem
những mối quan hệ số lượng là quy luật cấu thành mọi sự vật của thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với
tư cách là những phạm trù trong triết học của aixtot . Ông xem chất là tất cả
những cái gì làm cho sự vật la nó. Còn lượng là tất cả những cái gì có thể
phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại : số
lượng và đại lượng. ông cũng là người đầu tiên trên thế giớ giải quyết một
vấn đề quan trọng của quy luât : vấn đề tính nhiều chất của sự vật , từ đó ông
phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật- cái sẽ xuất
hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi cảu bản than sự vật , ông
cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ
là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng.
Sau này, quan điểm phiếm diện tuyệt đối hóa đặc trưng về lượng đã

được khắc phục trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Heeghen
đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong
quá trình vận động và phát triển không ngừng. vói quan điểm biện chứng,
Hêghen đã xem xét từ “ chất thuần túy” đến “ chất được xác định”, chất phát
triển đến tột độ thì ra đời lượng, lượng cũng không ngừng tiến hóa, “ số
lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa .
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về
chất, Heeghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư
tưởng của Heeghen, Leenin đã tạo ra một kết luận quan trọng là : việc thừa
nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan
điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển .


Tất nhiên với tư cách là nhà triết học duy tâm, Heeghen đã xem các
phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần,
của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải là những nấc thang nhận thức của
con người đối với thế giớ bên ngoài.
Về sau sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn
phát triển căn bản trong quan niệm về chất, lượng, mối quan hệ qua lại giữa
sự thay đổi về chất lượng và sự thay đổi về chất nói chung.
2. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng
a. Quan niệm biện chứng duy vật về chất
Trong thế giớ quanh ta tồn tại vô vàn sự vật, hiện tượng. vì sao
chúng ta biết phân biệt đây là sự việc này , đây là sự việc kia? Điều
đó là đơn giản vì các sự vật khác nhau, có những đặc trưng có
những thuộc tính quy định khác nhau. Như kim loại không có khả
năng hòa tan một số chất giống nước. mọi động vật và thực vật đều
được đặc trưng bởi đồng hóa, dị hóa nhưng chúng lại khác nhau…
sở dĩ ta phân biệt được những sự vật hiện tượng khách quan đó là

vì chúng có sự khác nhau về chất. chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất
hữu cơ của những thuộc tính là cho sự vật là nó chứ không phải cái
khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự
vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác, là những tính chất,
những trạng thái, những yếu tố cấu thành nên sự vật,… đó là
những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển cảu nó. Tuy nhiên
những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra
qua sự tác động qua lại với các sự vật hiện tượng khác.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức
của con người đối với vật chất cảu sự vật. để nhận thức được
những thuộc tính, chúng ta cần phải nhận thức nó trong mối quan
hệ giữa các sự vật. trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một
thuộc tính của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách
là sự tổng hợp cảu tất cả các thuộc tính vốn có của sự vật đó,
chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hòa các mối quan hệ có
thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại
có một tổng hơp đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi
thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự
vật có vô vàn chất,


Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các
mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo
thành những thuộc tính cơ bản và không cơ bản, những thuộc tính
của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sụ vật
khác , bởi vậy sự phân chia thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ

mang tính chất tương đối, tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo
thành chất cơ bản của sự vật. ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản,
đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật tỏng quá
trình tồn tại của sự vật, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của
bản thân sự vật.
Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu
tố cấu thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu
thành sự vật đó. Nghĩa là bởi kết cấu cảu sự vật.
Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy không ít sự vật ,
mà xét riêng về các yếu tố cấu thành , chúng hoàn toàn đồng nhất
nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất.
Ví dụ như kim cương và than chì là những vật đều do cacbon tạo
thành, nhưng kim cương là vât cứng nhất trong các loại vật, có giá
trị kinh tế cao, còn than chì thì không có được những đặc trưng
tương tự như vậy, sự khá nhau đó được uyết định bởi phương thức
liên kết khác nhau của các nguyên tử cacbon, chất của sự vật
không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi của các yếu tố cấu thành mà
nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các
yếu tố đó. Do vậy để làm biến đổi chất của sự vật, chúng ta có thể
cải tạo các yếu tố cấu thành, hoặc biến đổi các phương thức liên
kêts giữa các yếu tố đó.
b. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng.
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
về mặt số lượng quy mô, trình đọ nhịp điệu của sự vận động và
phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, ssos lượng
nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu
nhanh hay chậm,.. trong thực tế lượng của sự vật thường được xác
định bởi những đơn vị đo lường cụ thể. Bên cạnh đó có những
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như

trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức học tập cao hay
thấp của một sinh viên,… Trong những trường hợp đó chúng ta chỉ
có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng
và khái quát hóa . có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu


bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa
học, ssos lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội), có những
lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật ( chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối, có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song
trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
Chẳng han số lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên
chất lượng học tập của lớp đó. Điều này có nghĩa là dù lượng cụ
thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính
quy định về chất của sự vật.
Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật.
trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật
không đứng im, cúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau
mà luôn có quan hệ qua lại theo một quy luật nhất định.
3. Mối quan hệ biện chứng giũa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về

chất
Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
lượng . Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận
động và phát triển của sự vật. nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ
với nhau chứ không tách rời nhau, sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh

hưởng sự thay đổi về chất của sự vật và ngược lại, sự thay đổi về chất của
sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng
có thể làm thay đổi ngay lập tức về chất của sự vật. Mặt khác có thể trong
một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi , nhưng chất của sự
vật chưa thay đổi cơ bản. khi lượng của sự vật được tích lũy quá giới hạn
nhất định gọi là độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ.
Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích lũy được.
Khi sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của
nó ra đời. lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên
độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong
sự vật và vì thế sự vật luôn phát triển chừng nào nó tồn tại.
Ví dụ như khi bạn chăm chỉ học tập có nghĩa là bạn đang thay đổi
lương kiến thức của bạn. khi bạn học tập nhiều hơn có nghĩa là lượng
thơi gian đanh cho việc học tập nhiều hơn, dần dần mức độ lượng kiến
thức càng ngày càng được tích lũy nhiều lên cho đến lúc lượng kiến thức


của bạn vượt quá điểm nút nó sẽ thực hiện bước nhảy và dẫn đến sự biến
đổi về chất. nếu nhu trước đó bạn đạt mức trung bình thì sau đó bạn sẽ
đạt mức khá và đó là thành quả của việc vận dụng thành công quy luật
của sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra
gọi là bước nhảy. bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự
chuyển hóa chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó
gây nên. Nói là sự gián đoạn trong quá trình vận động va phát triển liên
tục của sự vật. có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián
đoạn la tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kết hợp của hàng loạt
sự gián đoạn.
Như vậy sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích
lũy về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy

về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không có định mà có thể có
những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan
quy định. Chẳng hạn thời gian để hoàn thành công nghiệp hóa ở mỗi
nước là khác nhau. Có những nước chỉ mất 50 năm nhưng có những nước
lại mất đến 150 năm.
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng
của nó đạt tới điểm nút. Chất mới của sự vật sẽ tác động ngược trở lại
lượng đã thay đổi của sự vật. chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ , nhịp điệu của sự vận độngvà phát triển của sự vật.
Ví dụ như khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận
tốc của các phân tử nước tăng lên. Thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ
lớn hơn thể tích của nước ở trạng thái lỏng cùng với một khối lượng tính
chất hòa tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi,..v..v..
Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hóa
về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất
khác nhau. Những hình thức bước nhảy khác nhau được quyết định bởi
bản thân của sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện
bước nhảy. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật
có thể phân chia thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần :
 Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời
gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự
vật
 Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước
bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những


nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Chẳng hạn quá trình chuyển
hóa từ vượn tành người diễn ra rất lâu dài hàng vạn năm. Quá trình
thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá trình phức tạp,
trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ

phận của sự vật ấy.
Song cần lưu ý rằng bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần
dần về lượng của sự vật. bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ
chất này sang chất khác, còn sự thay đổi dần dần về lượng la tích lũy liên
tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hóa vè chất.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy
toàn bộ và bước nhảy cục bộ .
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các
mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt
những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong hiện thực các sự vật có thuộc tính đa dạng , phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua bước nhảy cục bộ. sự
qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục
bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện bước
nhảy cục bộ ở các lĩnh vực kinh tế, chính trị , xã hội, tinh thần xã hội để
đi lên bước nhảy toàn b, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta. Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân
chia sự thay đổi đó thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có
tính chất tiến hóa. Cách mạng là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến
đổi căn bản, không phụ thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hóa là
sự thay đổi về lượng với những biến đổi nhất định về chất không cơ bản
của sự vật. song cần lưu ý rằng, chỉ có sự thay đổi căn bản về chất, mang
tính tiến bộ đi lên mới là cách mạng. Nếu thực thay đổi cơ bản về chất
lam cho xã hội thụt lùi thì lại là phản cách mạng.
Từ những sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật chuyển
hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại như sau: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự
thay đổi dần dần vè lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dần
dần đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra

đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn
ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi .


CHƯƠNG 2 :
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN – SỰ VẬN DỤNG
VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG ĐẤT
I.

NƯỚC HIỆN NAY
Ý nghĩa phương pháp luận


Nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và
sự thay đổi về chất sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan



trọng cho hoạt động thực tiễn.
Để có tri thức đúng về sự vật, thì phải nhận thức đúng về sự vật ,thì
phải nhận thức về cả mặt lượng và mặt chất của nó,và đặc biệt về sự



thống nhất về lượng và chất của sự vật đó.
Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất có mối quan hệ với nhau,
do vậy trong hoạt động thực tiễn phải hiểu đúng vị trí ,vai trò và ý
nghĩa của mỗi loại thay đổi về lượng và chất ,đặc biệt trong sự phát
triển cuả xã hội: phải kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng về sự
thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi

mang tính cách mạng trong quan hệ biện chứng là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách
lược cách mạng . hiểu đúng mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ
nghĩa cải lương , chủ nghĩa hữu khuynh , cũng như chủ nghĩa "tả"



khuynh.
Chất còn phụ thuộc vào trật sắp xếp, phương thức liên kết các yếu tố
của sự việc sự việc. trong hoạt động thực tiễn phải biết vận dụng để
tạo sự phát triển đa dạng về chất của quá trình tự nhiên. trong hoạt
động xã hội cũng phải tạo ra sự phát triển đa dạng về chất của tổ chức
kinh tế , tổ chức xã hội.




Việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về chất có ý
nghĩa nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhận thức cũng như



hoạt động thực tiễn
Trong hoạt động thực tiễn nhất là trong hoạt động cách mạng phải biết



chớp thời cơ và tận dụng thời cơ nhằm tạo nên sự phát triển.
Chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cơ hội tả khuynh phủ nhận hình
thức phát triển mang tính liên tục chỉ thừa nhận những bước nhảy có

tính cách mạng mang tính phiêu lưu . quan điểm chủ quan nôn nóng



cũng là biểu hiện của nó.
Nắm vững quy luật này có ý nghĩa to lớn trong việc xem xét và giải
quyết những vấn đề của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay . Việc
thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của
đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nước ta
nói chung.

Sự vận dụng vào quá trình đổi mới, xây dựng đất nước

II.

hiện nay
Đất nước ta hiện nay trong quá trình đổi mới , xây dựng đã vận dụng bằng cách
chống chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn được thể hiện là đảng đã phân kì đúng
đắn các bước đi của thời kì quá độ từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp,... chú
ý tích lũy đủ về lượng đồng thời nhảy vọt về chất ...đó là những mục tiêu và thành
quả đạt được trong các kế hoạch 5 năm từ 1986-2020
1.

Giai đoạn 1986 1990:
 Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được
những yếu kém và có những bước phát triển.





Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 4%/năm; công nghiệp
tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13
14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực
hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng



trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,…
Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của
công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng
nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ
chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh
tế xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động

2.

lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991-1996

Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái; đạt mức tăng
trưởng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt mức hầu hết các
chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 8,2% (kế
hoạch là 5,5 - 6,5%)
Công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13,3% (kế hoạch là 7,5% - 8,5%).

Một số ngành có mức tăng cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên
liệu (kể cả dầu, khí) gấp 3,2 lần, điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần,
chế biến thực phẩm gấp 1,9 lần...
Nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,5% (mức đề ra 3,7 - 4,5%).
Sản lượng lương thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo điều kiện
cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản tăng khá
nhanh; kim ngạch xuất khẩu thuỷ, hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Tỉ lệ đất
có rừng che phủ bắt đầu tăng nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng,
hạn chế khai thác gỗ.


Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990 (bình quân
hàng năm tăng 12%). Giao thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa
tăng 62%; viễn thông phát triển nhanh, doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch
đều gấp 10 lần; thị trường hàng hoá trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội về số lượng, chất lượng, chủng loại.
Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá; hình thành nền kinh tế nhiều thành phần:
Cơ cấu ngành:
Trong GDP, nông, lâm, ngư nghiệp tăng khá về số tuyệt đối, nhưng tỉ trọng
giảm từ 38,7% năm 1990 xuống 29% năm 1995; công nghiệp và xây dựng từ
22,6% tăng lên 29,1%; dịch vụ từ 38,6% tăng lên 41,9%. Cơ cấu sản xuất của
nông nghiệp, công nghiệp cũng có những thay đổi theo hướng hiệu quả hơn; các
ngành dịch vụ phát triển đa dạng.
Cơ cấu vùng kinh tế:
Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế - xã hội của
các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng
điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng. Một số địa bàn
kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh

đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển
nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh, gắn
với thị trường.
Cơ cấu thành phần kinh tế:


Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm
nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công
nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước
đã tiếp cận thị trường, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoạt động có



hiệu quả hơn trước.
Các hợp tác xã trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua
bán, tín dụng trong thời kỳ đầu chuyển sang cơ chế mới, do nhiều nguyên
nhân, bị suy giảm mạnh. Đến nay một số ít đã đổi mới tổ chức, quy mô và


phương thức hoạt động, khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh. Đã


xuất hiện các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới, tuy chưa phổ biến.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp phần quan trọng vào cá



thành tựu kinh tế - xã hội.
Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước đầu phát triển, tập trung phần

lớn vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư
vào sản xuất còn ít. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu,



có một số doanh nghiệp quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế
nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài đang
phát triển. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đóng
góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, tạo nhiều



việc làm trực tiếp và gián tiếp.
. Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; thị trường xuất, nhập khẩu
được củng cố và mở rộng; nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.

Trong 5 năm (1991 - 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ USD (kế
hoạch là 12 - 15 tỉ USD), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá đáp
ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán
thương mại. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu đã có thêm một số mặt hàng chế biến
và tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải
sản, may mặc...
Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ USD, kể cả phần nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp
ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước và
tiếp cận nhiều thị trường mới.
Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu...
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng nhanh, đến cuối năm 1995, các dự

án được cấp giấy phép đạt trên 19 tỉ USD vốn đăng ký. Tỉ trọng đầu tư vào công
nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu khí thì chiếm trên 60%),
trong đó hơn 60% là đầu tư chiều sâu. Địa bàn đầu tư phân bố rộng trên hơn các


vùng lãnh thổ. Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh, chiến trên 65%
tổng số vốn; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp tác
kinh doanh chiếm gần 17%. Nhà nước đã bổ sung, hoàn thiện từng bước khuôn
khổ pháp lý cho đầu tư nước ngoài.
Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và mở rộng với
nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế; cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển
song phương và đa phương đã được thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển chính thức
(ODA) tăng dần lên trong những năm gần đây và được tập trung chủ yếu cho
việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.


Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới.

Đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Về khoa học tự nhiên và công nghệ, đã chú trọng hơn
việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như
vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng dụng các kết
quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được
đẩy mạnh hơn trước.


Lĩnh vực văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được
cải thiện một bước.


Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, sau một số năm giảm sút. Tỉ
lệ người biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi học trong độ
tuổi phổ cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ lưu ban;
bỏ học giảm. Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đều khắp các xã, phường; cơ
sở vật chất được cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho
con em người dân tộc. Hình thức trường chuyên, lớp chọn phát triển ở nhiều địa
phương. Nhiều trường bán công và dân lập ra đời, hoạt động có hiệu quả.
Các trường, lớp dậy nghề phát triển dưới nhiều hình thức. Hệ thống giáo dục đại
học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và
loại hình đào tạo. Các trường đại học và cao đẳng đang được sắp xếp lại; các
trung tâm đại học quốc gia ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và ba trung tâm đại
học khu vực đang hình thành.
Công tác thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phát triển phong
phú cả về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin và
hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực trong công tác


tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là giáo dục truyền thống cách mạng, đấu tranh
chống những hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi ảnh hưởng văn hoá độc hại. Diện phủ
sóng truyền thanh, truyền hình được mở rộng, chất lượng thu phát tốt hơn.
Trong lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ, đã có những cố gắng và tiến bộ về vệ sinh phòng
bệnh, thực hiện có kết quả các chương trình chăm sóc và bảo vệ trẻ em, chương
trình phòng chống sốt rét, bưới cổ, phòng chống suy dinh dưỡng; tăng tỉ lệ số dân
được dùng nước sạch, đựơc cung cấp dịch vụ y tế tại xã, phường. Một số trung
tâm y tế được đầu tư nâng cấp và trang bị lại. Chế độ bảo hiểm y tế được mở
rộng. Thể dục thể thao có bước phát triển. Công tác bảo vệ môi trường, môi sinh
được triển khai.
Giải quyết việc làm mỗi năm từ 1 đến 1,2 triệu người.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình phát triển sâu rộng, đạt được một số kết
quả rõ nét. Tỉ lệ sinh mấy năm nay giảm mỗi năm gần 1 phần nghìn.

Các cuộc vận động xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động từ
thiện, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ngày càng được đông đảo
nhân dân hưởng ứng.
Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện
với mức độ khác nhau; số hộ nghèo giảm đi. Nhiều địa phương đã thanh toán
được nạn đói.
3.

Giai đoạn 1996-2000

Đất nước ta bước vào 5 năm cuối cùng của thế kỷ này với những khả năng và cơ
hội lớn hơn nhiều so với 5 năm trước, đồng thời cũng đứng trước những thử
thách hết sức gay gắt.
Kế hoạch 5 năm 1996-2000 được xây dựng trên cơ sở quán triệt những tư tưởng
chỉ đạo sau đây :




Một là, thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: đẩy mạnh công nghiệp
hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững
chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau
năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
Hai là, tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời









hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ba là, kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, tập trung
giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ về thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục
vụ quốc phòng, an ninh.
Năm là, kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác,
tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển; phát huy lợi thế của mỗi vùng,
trách chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.

Trong 5 năm tới, chúng ta tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng
GDP bình quân hằng năm 9 - 10%; đến năm 2000 GDP bình quân đầu người gấp
đôi năm 1990. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 14-15%/năm, nông
nghiệp 4,5 - 5%, dịch vụ 12 - 13% và trong chỉ đạo thực hiện phải tranh thủ mọi
khả năng mới, phấn đấu đạt cao hơn.
Việc xác định các mục tiêu trên xuất phát từ khả năng thực tế và yêu cầu bức bách
của cuộc sống, của thời đại nhằm nâng cao mọi mặt đời sống các tầng lớp dân cư,
thay đổi bộ mặt đất nước, tạo thế vững vàng cho nước ta tham gia cạnh tranh và
hợp tác trong tiến trình hội nhập cộng đồng quốc tế.
Phương hướng và giải pháp lớn nhằm thực hiện các mục tiêu trên được thể hiện
trong 11 chương trình và lĩnh vực phát triển của kế hoạch 5 năm tới mà nội dung
chủ yếu có thể tóm tắt như sau :



Nhóm các chương trình và lĩnh vực phát triển về nông nghiệp, kinh
tế nông thôn, vùng lãnh thổ, vùng miền núi và dân tộc thiểu số tập
trung vào các mục tiêu và phương hương chính là : phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông-lâmthủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm an toàn lương thực
quốc gia trong mọi tình huống. Tạo điều kiện cho các vùng đều phát
triển trên cơ sở phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, liên
kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có chuyển biến rõ rệt, giảm
sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng. Trước
hết là ưu tiên giúp đỡ những địa bàn xung yếu, những khu căn cứ
cách mạng, các vùng miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn




nhiều khó khăn, tạo điều kiện ban đầu để các vùng đó từng bước tự
vươn lên. Khai thác tối da tiềm năng và lợi thế của vùng biển, ven
biển để phát triển kinh tế, kết hợp với quốc phòng an ninh, bảo vệ và
làm chủ vùng biển của Tổ quốc.
Nhóm các chương trình và lĩnh vực phát triển về công nghiệp, xây
dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ tập trung vào các mục tiêu và phương
hướng chính là : phát triển nhanh một số ngành công nghiệp có lợi
thế, có sức cạnh tranh trên thị trường, hướng mạnh về xuất khẩu,
hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn trong các lĩnh vực
như chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, khai
thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin,
cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu. Nâng cấp và cải tạo các cơ sở công
nghiệp hiện có, hình thành các khu công nghiệp tập trung, tạo địa bàn
thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới, phát triển
mạnh công nghiệp ở nông thôn và ven đô thị. Phát triển giao thông

đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Bảo đảm giao
lưu thông thoát trong mọi thời tiết trên các tuyến giao thông huyết
mạch, tuyến xương sống và các tuyến nhánh đến các vùng, các trung
tâm miền núi. Chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở
miền núi, nông thôn, đặc biệt là đường, điện, trường học, trạm y tế,
nước sạch, thông tin liên lạc …

Các ngành dịch vụ, thương mại vươn lên bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt
trong cả nước, chú trọng vùng nông thôn, vùng sâu, miền núi; mở rộng thương
mại quốc tế. Củng cố và phát triển thương nghiệp nhà nước trong những ngành
hàng thiết yếu, những địa bàn còn bỏ trống, nắm bán buôn, chi phối bán lẻ. Từng
bước tổ chức hợp tác xã mua bán và mạng lưới đại lý để cùng thương nghiệp nhà
nước đủ sức ngăn ngừa những biến động bất thường, góp phần ổn định thị trường,
giá cả. Phát triển du lịch và các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm,
thông tin, tư vấn về công nghệ, pháp luật …


Chương trình kinh tế đối ngoại nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả các
hoạt động về ngoại thương về thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài và các
dịch vụ hoạt động vụ thu ngoại tệ khác, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu; tăng tỉ trọng
xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến, tạo thêm những nhóm hàng, mặt
hàng có khối lượng và giá trị lớn. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân


hằng năm khoảng 28%; kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 24%; thay thế
nhập khẩu một số mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tận dụng thời cơ tăng nhanh khả năng tiếp
nhận, thu hút và sử dụng có hiệu quả vồn đầu tư và công nghệ tiên tiến, hiện đại
của nước ngoài; đồng thời nâng dần tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong các cơ

sở liên doanh.


Nhóm các chương trình về khoa học và công nghệ, giáo cục và đào tạo tập
trung vào các mục tiêu và hướng chính là :

Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nắm bắt các thành tựu khoa học và công
nghệ thế giới, lựa chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao vào Việt Nam. Bước
đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật
liệu mới và tự động hóa. Nâng tỷ lệ đổi mới thiết bị tình hình các ngành sản xuất
mỗi năm từ 10% trở lên. Tranh thủ tối đa công nghệ tiến bộ, từng bước đưa công
nghệ nước ta đạt tới trình độ trung bình của khu vực. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu
cầu bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Nâng cao mặt bằng dân trí. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng tỉ lệ người lao động được đào
tạo trong tổng số lao động lên 22 –25% vào năm 2000.
Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh. Phát hiện, bồi
dưỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu
cầu trước mắt và chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.


Nhóm các chương trình về phát triển văn hóa - xã hội tập trung vào những
mục tiêu và phương hướng sau :

Giải quyết việc làm. Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều kiện cho
mọi người tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm, giảm tỉ lệ người chưa có
việc làm ở thành thị xuống còn 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở
nông thôn lên 75% vào năm 2000.
Xóa đói, giảm tỷ lệ nghèo từ 20 –25% hiện nay xuống khoảng 10% tổng số hộ cả

nước vào năm 2000.


Mở rộng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đảm bảo
cho người có công và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình
của xã, phường nơi cư trú.
Thực hiện phương châm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thông tin,
thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình và các mặt xã hội khác,
hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của nhân
dân. Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức
xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.
Phấn đấu thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng; đặc biệt
quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ở những vùng còn nhiều khó khăn,
vùng sâu, vùng xa… nhất là về y tế, giáo dục, phát thành, truyền hình, văn hóa
văn nghệ …
4.

Giai đoạn 2000-2010
Về quan hệ hợp tác song phương: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu
hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên
90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp
tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ,các nước trong nhóm
G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga,
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh,

Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng
lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn
thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.




Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ
tích cực với các tổ chức tàichính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát
triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một
tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu
vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa
phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại
tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột
phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Tiếp đó,năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp
tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm
đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay có một số điểm nổi bật sau:
a.

Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên

trong các tổ chức kinh tế quốc tế.

Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN,
APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích
cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như
sau:
* Trong khuôn khổ WTO:


Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính



sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách
này thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như
các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở



cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng
bộ nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn
ta hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm



phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt
Namcó liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu
trí tuệ, trợ cấp thủy sản và chương trình hỗ trợ thương mại của

WTO…..
Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương



mại lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian
đầu năm 2013.
* Trong khuôn khổ ASEAN


Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN,
1995-2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN
ngày càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống
kinh tế, xã hội và chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với
Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất
(riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt Nam, sau



Hoa Kỳ).
Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện
môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh


và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề
giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa
phương khác.
Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN




vào năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các
chương trình hợp tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm
2015. Cho tới nay, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện
cao các biện pháp và sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây
dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
* Trong khuôn khổ APEC


Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng.
APEC là khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65%
tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị
nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu
hết các đối tác chiến lược quan trọng và các đối tác kinh tế - thương



mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành viên của APEC.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm
1998, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của
APEC như Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm,
thực hiện Chương trình Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về
thuận lợi hoá thương mại, đầu tư... Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch
và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng như Nhóm Công tác Y
tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình trạng
khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử… Việt Nam đã triển
khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến
trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật,

y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được đánh


giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng
góp tích cực cho Diễn đàn APEC.
* Trong khuôn khổ ASEM


Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50%
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối
cho quan hệ đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới
mục tiêu đem lại những đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và



phát triển trên thế giới.
Trong hai năm qua (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển
khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức
thành công nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường
hình ảnh ASEM thông qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM
về vượt qua khủng hoảng- định hình sự phát triển bền vững", "Diễn
đàn ASEM về an ninh lương thực", "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí
hậu", "Diễn đàn ASEM về lưới an toàn xã hội", Diễn đàn Á – Âu
(ASEM) về tăng trưởng xanh với chủ đề: “Cùng hành động hướng tới
các nền kinh tế xanh tăng”…

b. Việt Nam đang tích cực tham gia vào đàm phán, ký kết các Hiệp định
thương mại tự do
Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia
tăng nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các

Khu vực thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế
của thế giới và khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt
Nam đã được khởi động và triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ


chức quốc tế và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với
15 nước trong khuôn khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm:


Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp
định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang
lĩnh vực đầu tư bởi Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) từ năm
1998 sau đó được thay thế bằng Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN



(ACIA).
Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập bởi
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN – Trung Quốc
(ACFTA) năm 2002 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN –
Trung Quốc (ACTIG) năm 2004, thực hiện từ 1/7/2005; riêng Việt
Nam còn được điều chỉnh bởi Biên bản ghi nhớ Việt Nam – Trung



Quốc (tháng 7/2005).
Khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc được thiết lập bởi
Hiệp định hàng hoá ASEAN-Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8 năm
2006, thực hiện từ 1/6/2007. Khu vực thương mại tự do ASEAN –
Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện

ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ năm
1998, riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Hiệp định đối tác kinh



tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008; thực hiện từ 1/1/2009.
Khu vực thương mại tự do ASEAN – Úc và Niu Dilân được thiết lập
bởi Hiệp định thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn
diện ASEAN – Úc và Niu Dilân (AANZCERFTA), ký kết từ tháng



2/2009, thực hiện từ 1/1/2010.
Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn độ bước đầu hình thành và
thiết lập bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN Ấn độ (AICECA) ký năm 2003 và Hiệp định thương mại hàng hoá


ASEAN - Ấn độ (AITIG) ký kết năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm
2010.
Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư
cách là thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà
Việt Nam ký kết với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam – Chi Lê (11/11/2011). Hiện Việt Nam đang nghiên cứu tiền khả thi và
triển khai đàm phán FTA với một số đối tác như EFTA (bao gồm 4 nước là
Thuỵ Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai-xơ-len), Liên minh Hải quan (bao gồm
3 nước là Nga, Belarus và Kazakhstan), EU, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ... Việt
Nam cũng đã chính thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010.
c. Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế

với mức độ tự do hoá sâu rộng
* Các cam kết trong khuôn khổ WTO:
Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO được thể hiện
trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam:


Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện



hành gồm 10.600 dòng thuế.
Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với
mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ



17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.
Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng
3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế);

* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực


Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO
của Việt Nam. Trong đó, khoảng 90% số dòng thuế (tính theo dòng


×