Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn rèn kỹ năng viết đúng phong cách chức năng tiếng việt cho học sinh THPT hà trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.77 KB, 25 trang )

I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
Dạy học Tiếng Việt theo một quan điểm giao tiếp là một xu hướng hiện đại
trong việc dạy tiếng mẹ đẻ mà nhiều nước đang phấn đấu thực hiện. Có thể khẳng
định dạy học tiếng theo quan điểm giao tiếp là dạy học coi trọng rèn luyện các kỹ
năng ngôn ngữ và giao tiếp xã hội cho học sinh. Trong những năm gần đây, yêu cầu
dạy học theo giao tiếp được đặt ra một cách nghiêm túc và được cụ thể hóa bằng
việc đổi mới mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học…Để đạt
được điều đó, viết đúng phong cách là một kỹ năng cần tập trung rèn luyện cho học
sinh phổ thông.
Dạy học trong nhà trường phổ thông, môn Tiếng Việt được coi là bộ môn
công cụ giao tiếp. Dạy Tiếng Việt làm cho học sinh tiếp thu tốt Tiếng Việt với tư
cách là công cụ tư duy, nhận thức và giao tiếp xã hội.
Ở nhà trường THPT, dạy phong cách học nói chung, phong cách chức năng
nói riêng là cung cấp cho học sinh những tri thức về phong cách học, đảm bảo cho
các em có cơ sở lí thuyết cần thiết để rèn luyện kỹ năng lĩnh hội văn bản, kỹ năng
sản sinh văn bản thích hợp với điều kiện giao tiếp. Học sinh vận dụng những kiến
thức đã được học vào việc xây dựng văn bản của mình, tự sửa chữa những sai sót,
và hình thành năng lực nói, viết một cách có phong cách, có nghệ thuật. Tuy nhiên,
việc áp dụng đúng một phong cách chức năng của học sinh Phổ Thông Hà Trung
còn gặp không ít khó khăn. Một phần do tài liệu dạy học còn thiên về lý thuyết như
khái niệm, đặc điểm diễn đạt từng phong cách chức năng; một phần do phần luyện
tập chưa được chú trọng, rèn luyện cụ thể, thiết thực nên việc vận dụng từ phía học sinh
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, vấn đề chính là cần rèn luyện cho học sinh viết đúng phong
cách nhiều hơn nữa mới giúp các em nói đúng và nói hay, viết hay được.
Xuất phát từ thực trạng trên, Tôi chọn đề tài: “Rèn kỹ năng viết đúng phong
cách chức năng Tiếng Việt cho học sinh THPT Hà Trung”. Với đề tài này, Tôi
mạnh dạn đưa ra một số cách thức, hình thức tổ chức và xây dựng bài tập rèn kỹ
năng viết đúng phong cách chức năng cho học sinh THPT Hà Trung.

1




2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết và khảo sát đánh giá thực trạng dạy học, xác
định năng lực sử dụng phong cách chức năng của học sinh từ đó đề xuất những biện
pháp hợp lý góp phần nâng cao chất lượng viết đúng phong cách cho học sinh
THPT Hà Trung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ đi vào nghiên cứu vấn đề xây dựng các bài tập phong cách ngôn
ngữ theo những biện pháp cụ thể nhằm góp phẩn rèn kỹ năng viết đúng phong cách
chức năng Tiếng Việt cho học sinh THPT Hà Trung.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được dùng để hệ thống hóa các vấn đề lý
luận, thực tiễn thu nhận được và rút ra những kết luận cần thiết cho việc đề xuất
biện pháp, xây dựng các thiết kế thực nghiệm.
- Phương pháp quan sát, điều tra: được sử dụng để thu thập thông tin về các
vấn đề trọng tâm của đề tài.
- Phương pháp thống kê: để xử lý số liệu điều tra.

2


II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lí luận
Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu nguyên tắc,
quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ
nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những phong cách
chức năng ngôn ngữ nhất định. Hay nói cách khác, đó là khoa học nghiên cứu về
cách sử dụng ngôn ngữ và bồi dưỡng cho người nói nhiều kỹ năng về việc thể hiện
tình cảm và tư tưởng.

Nhìn chung, mỗi văn bản phải có một phong cách nhất định. Nghĩa là, khi
nói, viết phải lựa lời, tức là phải lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ sao cho phù
hợp để vừa tạo được lời nói đúng ngữ pháp, đúng từ ngữ nhưng mặt khác phải đảm
bảo sự phù hợp với người nghe, người đọc để việc giao tiếp đạt hiệu quả cao hơn.
Việc lựa chọn ngôn ngữ lại chịu sự chi phối của các nhân tố ngoài ngôn ngữ đã quy
định cách lựa chọn ngôn ngữ trong văn bản, tạo thành sự khác nhau trong phong
cách ngôn ngữ văn bản. Sự khác nhau này thường thể hiện ra các mặt: Cách thức sử
dụng ngữ âm, chữ viết, từ ngữ, các kiểu câu, các biện pháp tu từ và kết cấu văn bản.
Phong cách học văn bản là một bộ môn trong ngành ngôn ngữ học nghiên
cứu những nguyên tắc lựa chọn, sử dụng những phương tiện dồi dào của ngôn ngữ
đạt hiệu quả cao nhất trong mọi lĩnh vực của mọi hoạt động giao tiếp xã hội. Đối
tượng của phong cách học là các đơn vị ngôn ngữ - giao tiếp, từ từ cho đến văn bản.
Văn bản là đơn vị giao tiếp lớn nhất của quá trình hoạt động lời nói, vừa là kết quả,
vừa là công cụ được sử dụng trong quá trình hoạt động lời nói làm phương tiện hoạt
động cơ bản để đạt mục đích dụng học nhất định thì văn bản được xây dựng theo
mô hình nhất định, có tính chất tối ưu trong một hoàn cảnh cụ thể. Phong cách bao
giờ cũng gắn với khái niệm văn bản. Khi tạo lập văn bản, những tri thức về phong
cách học có vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ trong văn bản phải phù hợp với nội
dung, đối tượng phản ánh thì hiệu quả giao tiếp sẽ cao. Mỗi cá nhân khi nhận tin
hay phát tin phải biết lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ như thế nào là
hợp lí nhất. Mỗi khi nói hay viết, ta cần đáp ứng được các câu hỏi: Nói viết thế nào?
Nói, viết như thế là có ý gì? Cho nên phong cách học có mối quan hệ mật thiết với

3


vấn đề trau dồi ngôn ngữ, vốn hiểu biết phong phú về từ ngữ, về cấu trúc ngữ pháp,
về biện pháp tu từ. Trong việc xây dựng các lớp văn bản, sự lựa chọn và sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ sẽ tạo ra những văn bản khác nhau thuộc những phong
cách ngôn ngữ khác nhau.

Từ những vấn đề về phân loại văn bản và phong cách học văn bản, người
tiếp nhận và người tạo lập đều phải có tri thức về phong cách. Đó là, một trong
những yếu tố quan trọng trong việc nói, viết đúng phong cách chức năng Tiếng
Việt.
Văn bản chương trình giáo dục cấp THPT đã trình bày mục tiêu cấp học theo
luật giáo dục quy định: Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu
biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát
triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Căn cứ vào mục tiêu chung được luật định “đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện”, mục tiêu cấp THPT được xây dựng, học sinh THPT phải đạt
được các mặt giáo dục: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; học vấn kiến thức phổ thông,
hiểu biết kỹ thuật và hướng nghiệp; kỹ năng học tập và vận dụng kiến thức; thể chất
và xúc cảm thẩm mĩ. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc giáo dục học sinh cần phải đổi
mới cả về nội dung và phương pháp dạy học. Môn Ngữ văn cũng đi vào quỹ đạo đổi
mới chung đó, cũng như các phân môn Văn học, Làm văn, Tiếng Việt đang dần
thực hiện những mục tiêu mà luật giáo dục đề ra.
2. Thực trạng
Dạy học phần Tiếng Việt ở bậc THPT trên cơ sở đã có những kiến thức ở
THCS, nâng cao dần về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, nâng cao kỹ năng sử
dụng Tiếng Việt khi nói, khi viết, và năng lực phân tích, lĩnh hội văn bản, sản sinh
văn bản. Từ đó, bồi dưỡng tình cảm yêu quý Tiếng Việt, thái độ tôn trọng và ý thức
giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Vì vậy, bản thân tôi nhận thấy việc Rèn luyện kỹ năng nói hay viết đúng
phong cách chức năng Tiếng Việt cho học sinh THPT Hà Trung là việc làm thiết
thực, chi phối cả quá trình dạy và học nên giáo viên cần lựa chọn nội dung dạy cũng

4



như phương pháp giảng dạy sao cho mang lại hiệu quả giao tiếp tốt nhất đối với học
sinh. Bản thân tôi đã thực hiện cuộc khảo sát để thấy được những điểm tích cực và
hạn chế, yếu kém đang tồn tại và tìm ra nguyên nhân của nó thông qua phiếu điều
tra GV và HS, sử dụng nhiều câu hỏi, ứng với mỗi câu hỏi có nhiều câu trả lời với
các mức độ khác nhau.
Thông qua khảo sát, phỏng vấn, điều tra và kết quả thu được từ khảo sát, bản
thân tôi rút ra những đặc điểm cơ bản về phía HS và GV như sau:
2.1. Về phía giáo viên
bản thân tôi nhận thấy tất cả các giáo viên trong tổ Ngữ văn trường THCS
và THPT Hà Trung đều nhìn thấy được sự phân bố của phân môn Tiếng Việt rất hài
hòa về lý thuyết và thực hành, có đáp ứng nhu cầu mục tiêu rèn luyện giáo dục cho
học sinh phát triển toàn diện các kỹ năng cơ bản, ý thức được tầm quan trọng của
việc rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt, có quan tâm
đến tinh thần học tập của học sinh, đến phương pháp dạy học… song còn gặp một
số trở ngại, khó khăn không ít về chất lượng, hiệu quả mà mục tiêu giáo dục đề ra
từng thời gian, năng lực học tập, tính thụ động của học sinh. Với những khó khăn
đó, bản thân tôi có chú ý rèn luyện cho học sinh nhưng rèn luyện chưa sát với quy
trình và nhận định về khả năng viết đúng phong cách văn bản của học sinh cũng
chưa linh động trong khi thực tế, học sinh chưa chủ động về khả năng ứng dụng,
thực hiện một văn bản.
2.2. Về phía học sinh
Qua khảo sát thực tế, nhận thấy một số học sinh thích học phân môn Tiếng
Việt, có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống, có nhu cầu học
tập, rèn luyện cho bộ môn Ngữ văn, phân môn Tiếng Việt… Nhưng bên cạnh đó,
vẫn còn một số các em học sinh thờ ơ với việc học môn Văn, rèn kỹ năng về Tiếng
Việt, thậm chí không quan tâm, tham gia học với thái độ mệt mỏi, bắt buộc, còn gặp
khó khăn trong việc phân định và tiếp cận phong cách ngôn ngữ…
Có thể lí giải những tồn tại trên bởi một số nguyên do: Một số học sinh ngại
tiếp xúc với thực hành bài tập hay luyện tập thêm bài tập ở nhà, do phương pháp

dạy của giáo viên chưa thu hút, sinh đông, năng lực học tập của học sinh chưa đồng

5


đều, chưa tích cực trong việc xây dựng bài, nhút nhát, thụ động, phụ thuộc vào sách
học tốt, vào bạn bè, giáo viên…
Qua thực tế trên ở đơn vị cơ sở, bản thân tôi nhận thấy việc Rèn luyện kỹ năng
viết đúng phong cách chức năng cho học sinh THPT Hà Trung là hướng đi đúng, thực
sự đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông.
3. Các giải pháp đã tiến hành
3.1. Rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt qua
các giờ dạy phong cách ngôn ngữ.
Việc Rèn kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt cho học
sinh THPT Hà Trung phải được thực hiện qua các bài dạy phong cách ngôn ngữ ở
SGK. Mỗi đơn vị bài học phong cách ngôn ngữ đã đặt ra mục tiêu cần đạt rất cụ thể
về kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh. Khi dạy lý thuyết, GV cung cấp cho
học sinh những khái niệm, các phương tiện diễn đạt, đặc trưng của từng phong cách
chức năng ngôn ngữ. Từ đó, giúp học sinh cảm thụ, nắm bắt các kiểu diễn đạt,
hướng tới sự nhận diện, đánh giá nét đặc trưng của mỗi loại văn bản thuộc phong
cách chức năng.
Các bài dạy về phong cách ngôn ngữ thuộc loại bài hình thành kiến thức và
kỹ năng mới. Các kiến thức này được hình thành thông qua sự phân tích các ngữ
liệu trong thực tế giao tiếp ngôn ngữ. Giáo viên thực hiện đúng quy trình hoạt động
trong một bài Tiếng Việt.
Ví dụ: Bài Phong cách ngôn ngữ chính luận (tiết 1), kết quả cần đạt được là
giúp cho học sinh hiểu được khái niệm ngôn ngữ chính luận, các loại văn bản chính
luận, các biểu hiện của phong cách ngôn ngữ chính luận. GV kết hợp cách trình bày
vừa diễn giảng vừa đàm thoại và hướng dẫn HS:
- Tìm hiểu văn bản chính luận.

+ HS lần lượt đọc 3 đoạn trích ở SGK/ Tr.96 - 97.
+ GV hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu để xác định thể loại, mục đích,
thái độ, quan điểm của người viết đối với vấn đề trong mỗi văn bản.
Xét ngữ liệu:
a. Đoạn trích Tuyên ngôn độc lập.

6


Thuật ngữ chính trị: nhân quyền, dân quyền, quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do…
Câu văn mạch lạc với những kết cấu cụm từ: trong những quyền ấy, suy rộng
ra… Câu chuyển ý mạnh mẽ, dứt khoát, có tính khẳng định: Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được.
- Nhận xét: Qua các văn bản tìm hiểu trên và các bài nghị luận trong trường
học, em hiểu thế nào về văn bản chính luận và văn bản nghị luận?
- HS trả lời: Nghị luận là các thao tác tư duy. Thao tác nghị luận được sự
dụng ở nhiều lĩnh vực như: khoa học, văn học, lịch sử, chính trị… Còn chính luận là
một phong cách ngôn ngữ độc lập dùng trong phạm vi trình bày quan điểm chính trị
đối với một vấn đề chính trị, xã hội nào đó.
Như vậy, việc rèn luyện cho HS viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt được
thực hiện trong dạng lý thuyết từ việc phân tích ngữ liệu đến hình thành khái niệm.
Để củng cố lý thuyết vừa học và hình thành cho học sinh kỹ năng cần có, sau
mỗi bài học đều có phần luyện tập. Luyện tập thực hành để củng cố, mở rộng kiến
thức và kỹ năng, bài tập thường sử dụng những ngữ liệu khác, đa dạng hơn ngữ liệu
ban đầu, hoặc đặt ra những yêu cầu luyện tập phong phú hơn. Một số bài tập có thể
tiến hành ở nhà. Giáo viên dựa vào hệ thống bài tập đó mà tổ chức cho học sinh
luyện tập, giáo viên gợi ý, hướng dẫn cho học sinh thực hiện theo các yêu cầu trong
bài tập.
Ví dụ: “Bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt”, có bài tập như sau:

Đọc đoạn nhật ký dưới đây và trả lời câu hỏi
8-3-69
Đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya. Trở về phòng, nằm thao thức không
ngủ đươc. Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng
lá rụng hoặc một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. Nghĩ gì đấy Th. ơi? Nghĩ gì
mà đôi mắt đăm đăm, nhìn qua bóng đêm. Qua ánh trăng mờ Th. thấy biết bao là
viễn cảnh tươi đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những ngày sống giữa tình
thương trên mảnh đất Đức Phổ này. Rồi cảnh chia li, cảnh đau buồn cũng đến
nữa… Đáng trách quá Th. ơi! Th. Có nghe tiếng người thương binh khẽ rên và tiếng
súng vẫn nổ nơi xa. Chiến trường vẫn đang mùa chiến thắng.

7


(Nhật kí Đặng Thùy Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005)
a. Những từ ngữ, kiểu câu, kiểu diễn đạt nào thể hiện cụ thể, tính cảm xúc,
tính cá thể của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt?
b. Theo anh (chị) ghi nhật ký có lợi gì cho việc phát triển ngôn ngữ của mình?
Bài tập này có thể tiến hành như sau:
- HS đọc lại đề một lần cho cả lớp nghe và nắm bắt nội dung.
- Đề bài yêu cầu: Nhận diện đặc trưng của PCNN sinh hoạt có ở từ ngữ, kiểu
câu, kiểu diễn đạt trong đoạn nhật ký.
- GV gợi ý cho học sinh nhớ lại.
- HS quan sát, nhận diện.
- GV nhận xét, bổ sung.
Như vậy, việc luyện tập, thực hành giúp học sinh cảm thụ, rèn luyện các kỹ
năng, tiếp thu và sản sinh các kiểu diễn đạt; biết nhận diện, đánh giá được giá trị
cũng như nét đặc trưng của mỗi loại văn bản thuộc phong cách chức năng.
3.2. Rèn luyện phong cách viết đúng chức năng Tiếng Việt qua giờ dạy
đọc - hiểu văn bản.

Rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt
qua các giờ dạy Văn học là hưởng ứng theo tinh thần đổi mới của chương trình
SGK hiện hành. Cấu trúc chung của phần Tiếng Việt không căn cứ vào hệ thống
Tiếng Việt mà chú ý đến tính tích hợp với các phần văn học và làm văn. Các bài
Tiếng Việt được xen kẽ với các bài văn học và làm văn vào những vị trí tạo nên sự
tích hợp tốt nhất. Phần lớn các bài phần Tiếng Việt đều dựa trên ngữ liệu các văn
bản văn học hay đang học để tạo nên tác động hai mặt: văn bản văn học cung cấp
ngữ liệu cho phần Tiếng Việt và ngược lại phần Tiếng Việt đóng góp vào phần đọc
- hiểu văn bản văn học và viết văn cho học sinh. Chẳng hạn như bài “Phong cách
ngôn ngữ báo chí” được bố trí khi phần văn học đang dạy một số tác giả như Nam
Cao, Vũ Trọng Phụng - vừa là tác giả văn học vừa là những nhà báo. Sau bài
“Phong cách ngôn ngữ báo chí” còn có phần làm văn dạy các bài thuộc thể loại báo
chí như: “Bản tin”, “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”. Tương tự, bài “Phong cách
ngôn ngữ chính luận” cũng vậy. Trước bài PCNNCL là bài “Ba cống hiến vĩ đại
của Các Mác” (Ph. Ăng - Ghen) - một bài nghị luận chính trị vừa chặt chẽ, hùng

8


hồn vừa giàu cảm xúc của Ăng - Ghen. Hoặc bài “Về luân lý xã hội của nước ta”
(Phan Châu Trinh) cũng là một văn bản giúp học sinh hiểu được nghệ thuật viết văn
chính luận, có ý niệm về phong cách chính luận của một tác giả cụ thể. Và học sinh
sẽ còn tiếp xúc với Phong cách ngôn ngữ chính luận này ở “Tuyên ngôn độc lập”
của Hồ Chí Minh.
Trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản, GV giúp HS nhận biết, phân tích các kiểu
văn bản. HS dần dần xác định được thể loại, bố cục, nội dung, nghệ thuật của các
loại văn bản văn học nói chung.
Ví dụ: Khi dạy Về luân lý xã hội ở nước ta (Trích bài diễn thuyết đạo đức và
luân lý Đông Tây) của Phan Châu Trinh, cần chú ý tích hợp với tri thức, kỹ năng về
Tiếng Việt, Làm văn.

- Kỹ năng về làm văn: Phân tích kết cấu bài thấy rõ luận điểm, luận cứ, cách
lập luận của bài diễn thuyết.
- Kỹ năng về Tiếng Việt:
+ Nhận biết một phong cách chính luận độc đáo như lúc từ tốn, lúc mềm
mỏng, lúc kiên quyết đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết
phục.
+ Hệ thống lâp luận chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, các chứng cứ luận điểm
xác thực.
+ Sử dụng các khái niệm: “luân lý xã hội”, “xã hội chủ nghĩa”, “công đức”,
“đoàn thể của quốc dân”.
+ Sử dụng từ “thượng lưu”, “ngất ngưởng”, “lúc nhúc”.
+ Sử dụng các cụm từ: “Tuyệt nhiên không ai biết đến”, “không biết gì là gì”…
+ Sử dụng câu cám thán: “Dân khôn mà chi!”, “Thật cũng lạ thay”, “Ôi!” …
Đặc điểm của văn phong diễn thuyết Phan Bội Châu: Lập luận sáng sủa,
khúc chiết, tình cảm tràn đầy. Thường được biểu hiện bằng những lời cảm thán
thống thiết, lập trường đánh đổ chế độ quân chủ luôn được tuyên bố công khai, dứt
khoát, kế hoạch hành động được vạch ra rõ ràng, cụ thể.
3.3. Rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách Tiếng Việt qua các hình
thức khác

9


Việc rèn kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt cho học sinh
cần được rèn luyện lâu dài và có thể ở mọi hình thức trong quá trình học tập. Ngoài
các giờ học phong cách ngôn ngữ, các giờ đọc - hiểu văn bản trên, bản thân nhận
thấy giáo viên có thể rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đúng ở giờ làm văn, trả
bài viết, hoặc các giờ dạy phụ đạo, bồi dưỡng cho học sinh.
Chẳng hạn, như giờ dạy phân môn Làm văn, bài Luyện tập viết bản tin với
kết quả cần đạt là: Ôn tập, củng cố cách viết bản tin; viết được bản tin về những sự

kiện xảy ra trong đời sống, giáo viên cho học sinh làm bài tại lớp hoặc hướng dẫn
cho học sinh về nhà rèn luyện.
Bài tập: Viết bản tin phù hợp với mỗi tình huống dưới đây:
a. Về trận bóng đá giao hữu giữa đội tuyển của lớp anh (chị) với lớp bạn.
b. Về những hoạt động chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở trường anh (chị).
c. Về hoạt động quyên góp giúp đỡ đồng bào bị bão lụt của trường anh (chị).
(SGK Ngữ văn 11, tập 1, tr. 179)
Bài tập này cần tiến hành như sau:
- HS đọc bài tập.
- GV hướng dẫn học sinh đọc bài tập.
+ HS chọn một trong các tình huống đã cho.
+ Thu thập và lựa chọn tư liệu (Thời gian, địa điểm diễn ra sự kiện; diễn
biến, nội dung sự kiện; kết quả của sự kiện) để viết bản tin.
+ Đặt tên cho bản tin, viết phần mở đầu, phần triển khai của bản tin theo
hướng dẫn trong bài.
- HS giải bài tập.
- GV chốt lại đáp án cho bài tập.
Như vậy, HS sẽ tái hiện lại kiến thức đã học về phong cách ngôn ngữ báo chí
từ khái niệm, các phương tiện diễn đạt đến đặc trưng của phong cách này mà vận
dụng vào việc tạo bản tin trên.
Với một giờ trả bài viết cũng vậy, giáo viên sữa chữa từ, câu, cách sắp xếp
các luận điểm, luận cứ, bố cục trình bày hay cách diễn đạt ý văn… cũng chính là
rèn luyện cho HS kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt.
Bên cạnh đó, bản thân tôi cũng nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng viết đúng
phong cách chức năng Tiếng Việt cho học sinh trong giờ dạy phụ đạo, bồi dưỡng,

10


bởi GV tập trung rèn luyện cho HS bằng các bài tập ở bài tập Ngữ văn hoặc bổ sung

thêm những bài tập ngoài SGK và sách bài tập, phong phú, đa dạng hơn nhằm nâng
cao khả năng viết đúng của HS lên từ kĩ năng thành kỹ xảo, chẳng hạn như:
Bài tập 1: Đọc hai văn bản sau và nhận xét đúng sai. Chữa lại cho đúng
phong cách văn bản.
a.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên bản kiểm điểm
Kình gửi cô chủ nhiệm cùng ban giám hiệu nhà trường
Em tên Nguyễn Hoài An. 11.3 nay em viết đơn này và vì lí do KD1. E hứa là
K vi fạm nứa em hứa sẽ lđ đầy đủ. Mong cô chấp nhận.
Kí tên
b.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản kiểm điểm
Em tên: Đoàn Văn Lành Kính gủi ban Giám hiệu Ntrương, em viết đơn này
vì không đi lao động, em hứa sẽ thực hiện lao động đầy đủ.
Kí tên
Đoàn Văn Lành
Bài tập này tiến hành như sau:
- HS đọc kỹ bài tập.
- GV hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lại cho đúng.
- HS thực hiện bài tập.
- GV bổ sung:
Đây là dạng bài tập tổng hợp biểu hiện nhiều lỗi sai về cách dùng từ, dùng
câu, lỗi về diễn đạt, lỗi trình bày bố cục, người viết nhầm lẫn giữa các phong cách
ngôn ngữ với nhau, chưa phân biệt được ngôn ngữ dùng dạng nói hay dạng viết cho
từng phong cách học văn bản, còn vi phạm nhiều lỗi chính tả “KD1, fạm, ld,
11



Ntrương…”. Vì vậy, khi luyện tập cho HS về kỹ năng viết đúng phong cách, GV
cần lưu ý các lỗi sai mà bản thân HS thường mắc phải khi tạo lập văn bản, cụ thể
như khi thể hiện bài tập trên bảng, hoặc lỗi sai từ các bài viết làm văn, hoặc các lỗi
sai từ những văn bản hành chính quen thuộc với các em như: đơn xin phép, bản
kiểm điểm…HS sẽ tiếp nhận và khắc phục lỗi sai một cách hiệu quả hơn.
1 HS sửa lại và hoàn chỉnh bài tập.
Bài tập 2: Có bạn viết đoạn văn trong bài kiểm tra Sinh học như dưới đây. Theo
em, đoạn văn này viết có đúng phong cách không? Nếu sai, em sữa lại cho đúng.
Ánh sáng cung cấp năng lượng cho cây xanh quang hợp. Các quá trình sinh
trưởng khác của cây cũng cần những tia nắng ấm áp, trong lành như vậy. Không có
ánh sáng, cây làm sao sống nổi?
Bài tập này tiến hành như sau:
- HS đọc kỹ bài tập.
- GV hướng dẫn HS phát hiện lỗi và sửa lại cho đúng.
- HS thực hiện bài tập.
- GV bổ sung:
Đoạn văn này mắc lỗi dung nhiều từ biểu cảm (ấm áp, trong lành), kiểu câu
có tính chất cảm thán, biểu lộ cảm xúc (không có ánh sáng, cây làm sao sống nổi)
1 HS sửa lại và hoàn chỉnh bài tập.
Bài tập 3: Hãy phân tích so sánh hai đoạn văn dưới đây, rút ra điểm giống và
khác nhau về nội dung, ngôn ngữ, phong cách.
a. Thắng lợi của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có phần quan
trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc (Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IV).
b. Năm tháng sẽ trôi qua những thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ

nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có
tính chất thời đại sâu sắc. (Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV).

12


(Dẫn theo Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa, Thực hành phong
cách Tiếng Việt, NXBGD, 1993, tr. 103)
Để giải bài tập này, GV gợi ý cho học sinh:
a. Thể loại Nghị quyết, phong cách hành chính. Ngôn ngữ diễn đạt ngắn gọn,
vừa đủ, không sử dụng những phương tiện diễn cảm.
b. Thể loại báo cáo chính trị, phong cách chính luận. Ngôn ngữ diễn đạt chặt
chẽ, sinh động, sử dụng cả những phương tiện ngôn ngữ diễn cảm - cảm xúc vừa tác
động vào lí trí vừa tác động vào tình cảm của người đọc: “Năm tháng sẽ trôi qua,
được ghi vào lịch sử… như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời…, đi vào lịch sử như một chiến công vĩ đại…”. Câu văn dài vẫn có
những âm hưởng cân đối, nhịp nhàng, rất phù hợp với những hình ảnh, tràn đầy
cảm xúc phấn khởi, tự hào.
Vậy nên, việc Rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng
Việt cho HS THPT Hà Trung là việc làm lâu dài và xuyên suốt trong chương trình
dạy học và học môn Ngữ văn. Công việc này đòi hỏi HS cần nắm vững ngữ pháp
Tiếng Việt mà các em đã được học từ cấp THCS, những kiến thức mới về phong
cách ngôn ngữ đã và đang học chủ động hơn trong việc hình thành dần kiến thức và
kỹ năng, có thái độ học tập nghiêm túc, thực hiện theo đúng hướng dẫn của GV,
tích cực hưởng ứng theo hoạt động tập thể như cùng nhau thảo luận, tìm hiểu kiến
thức, thực hành bài tập thường xuyên, ngay cả khi ở lớp cũng như ở nhà. Nhờ luyện
tập mà các em phát hiện ra những lỗi mà bản thân mình còn mắc phải, còn hạn chế
để các em tự khắc phục, sửa lỗi. Bản thân giáo viên cũng phải biết được năng lực
của HS mình, luôn bồi dưỡng và cập nhật thông tin chuyên môn, đặc biệt là phương

pháp dạy học, thiết kế, tổ chức dạy học sao cho phù hợp trình độ khả năng của HS,
nắm bắt tâm lý, đặc điểm của từng đối tượng học sinh, biết động viên các em đúng
lúc, kịp thời tạo không khí học tập cho học sinh yêu thích môn văn và học tập tiến
bộ, kết quả học tập tốt đẹp hơn.
2.4. Kết quả thực hiện
Qua quá trình tiến hành thực nghiệm tại trường THCS và THPT Hà Trung,
đối tượng là học sinh khối THPT đã nhận thấy sự chuyển biến thật sự. Điều đó cho
thấy rằng việc rèn kỹ năng cho học sinh viết đúng phong cách chức năng phải bắt

13


đầu từ việc cung cấp kiến thức cần có về một phong cách ngôn ngữ cụ thể. Việc rèn
luyện không tập trung ở việc học lý thuyết mà còn phải qua quá trình luyện tập
thường xuyên, qua các kiến thức phân môn khác. Học sinh biết tự đánh giá khả
năng của mình, biết lĩnh hội văn bản, biết sữa chữa và tạo lập văn bản ở một mức độ
cần thiết.
Từ thực tiễn, tôi cũng nhận thấy vai trò của học sinh góp phần không nhỏ
vào việc thành công của một tiết dạy. Học sinh chủ động học tập sẽ tạo nên không
khí thoải mái, hiệu quả học tập tốt hơn. Lúc này, người GV giữ vai trò cố vấn, điều
khiển, bổ sung, đánh giá để tiết học đạt chất lượng thật sự.
Song, việc Rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt
cho học sinh THPT Hà Trung đang còn là một vấn đề khó và cần được rèn luyện
lâu dài, phải có sự cố gắng và nỗ lực của mỗi cá nhân từ học sinh đến giáo viên
chúng ta.
Bảng 1: So sánh kết quả xếp loại học lực của nhóm TN và ĐC

Nhóm
TN
ĐC


Số
lượng
64
64

Giỏi
SL
2
0

%
3,1
0

Khá
SL
28
12

Xếp loại
Trung

Yếu
Kém
bình
% SL % SL % SL %
43,8 26 40,6 6
9,4 2
3,1

18,8 39 60,9 8
12,5 5
7,8

14


Biểu đồ so sánh kết quả xếp loại học lực của nhóm ĐC, TN
Từ kết quả trên, bản thân nhận thấy đề tài: Rèn kỹ năng viết đúng phong
cách chức năng Tiếng Việt cho học sinh khối THPT Hà Trung là rất khả quan.
Mặc dù tỉ lệ học sinh có chiều hướng tăng chưa cao lắm nhưng bản thân thấy không
khí học tập rất sôi nổi, hào hứng, tích cực. Đó cũng chính là nhiệm vụ của một
người giáo viên là làm thế nào để tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng như khắc
phục những em học yếu kém chỉ còn là vấn đề thời gian.
Qua quá trình thực hiện bản thân rút ra một số kinh nghiêm trong quá trình tổ
chức Rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt cho học
sinh THPT Hà Trung như sau:
- Quá trình dạy học cần phải dựa vào kết quả cần đạt của các bài phong cách
ngôn ngữ trong SGK.
- Cần tuân thủ chuẩn mực phong cách
- Nên căn cứ vào quan điểm giao tiếp và chiến lược dạy học tích hợp.
- Phải đảm bảo tính hệ thống, tính vừa sức cho HS.
- Nên tuân theo một quy trình rèn luyện:
15


+ Nắm vững lý thuyết của từng phong cách chức năng như khái niệm, phạm
vi sử dụng, đặc trưng, đặc điểm diễn đạt.
+ Thực hành các bài tập ở SGK, SBT Ngữ văn, bài tập từ dễ đến khó, từ cơ
bản đến nâng cao và những bài tập mang tính sáng tạo, tạo lập văn bản.

+ Ứng dụng những văn bản trong đời sống thực tiễn. Có kỹ năng hoàn chỉnh
văn bản theo mẫu in sẵn của nhà nước hoặc có thể tự soạn thảo những văn bản
thông dụng: đơn từ, biên bản…
- Một số học sinh chưa có hứng thú học môn Ngữ văn. Vì kiến thức còn quá
nhiều so với thực lực của các em còn yếu kém, dẫn đến thái độ miễn cưỡng trong
học tập. Từ đó, bản thân đã giúp các em phát huy vai trò nhận thức, chủ động học
tập, chịu khó tìm tòi, mạnh dạn phát biểu xây dựng bài, ra sức luyện tập, ứng dụng
vào những bài tập nhanh mang tính sáng tạo, nâng cao.
- Bên cạnh đó, GV cần chú trọng nhiều đến việc luyện tập toàn diện cho
học sinh, phải nắm bắt được mức độ tình trạng hiểu biết tri thức của HS ở mức độ
nào trong khi yêu cầu của nhu cầu giao tiếp xã hội lại cao.
- Phải dành nhiều thời gian cho một tiết học vì dung lượng kiến thức lớn,
phương tiện dạy học thiếu thốn, phương pháp dạy học chưa linh hoạt, đồng bộ để
hạn chế khó tránh được việc học sinh hụt hẫng về kiến thức lẫn kỹ năng.

16


III. KẾT LUẬN
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là dạy học coi trọng rèn luyện các kỹ năng
ngôn ngữ và giao tiếp xã hội cho học sinh. Trong chương trình đổi mới Ngữ văn
bậc THPT, mục tiêu của phân môn Tiếng Việt có đề cập đến việc nâng cao kỹ năng
sử dụng Tiếng Việt khi nói và khi viết, năng lực phân tích, lĩnh hội văn bản khi
nghe, khi đọc. Việc rèn luyện này xuyên suốt từ bậc THCS nâng dần đến bậc
THPT, kỹ năng viết được yêu cầu cao hơn, không những viết đúng, dùng từ đúng,
đúng câu, đúng ngữ pháp mà còn phải đúng phong cách chức năng văn bản. Để rèn
luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng ngôn ngữ cho học sinh THPT có
hiệu quả thì giáo viên phải coi trọng thực hành, luyện tập. Trong phân môn Tiếng
Việt, các giờ dạy phong cách ngôn ngữ có vị trí đặc biệt trong việc rèn luyện viêt
đúng phong cách văn bản. Bên cạnh đó, chúng ta phải hiểu rõ đối tượng học sinh về

mặt tâm lý, lực học để định hướng cách thức tổ chức dạy học với phương pháp cụ
thể, chất lượng, đảm bảo mục tiêu giáo dục đề ra.
Vậy, để rèn luyện kỹ năng viết đúng phong cách chức năng Tiếng Việt cho
học sinh THPT có hiệu quả thì nó phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, tích
hợp trong các phân môn, cả giờ chính khóa và phụ đạo. Người học phải luôn ý thức
được việc học để hiểu biết, nắm bắt kiến thức, vận dụng kiến thức tốt nhất là phải
qua luyện tập, thực hành và ứng dụng. Và ngược lại, thực hành, luyện tập sẽ khắc
sâu thêm được kiến thức, hình thành kỹ năng, người giáo viên là người có một tâm
huyết và nghệ thuật sư phạm; có một kiến thức vững vàng, một phương pháp phù
hợp với từng nội dung giảng dạy, một nhà tâm lí gần gũi với học sinh, dẫn dắt, định
hướng, về các quy trình luyện tập và từng bước khắc sâu kiến thức, kỹ năng, tư duy,
tính cách tích cực cho học sinh.
Do hạn chế về thời gian, tuổi nghề còn trẻ và phạm vi nghiên cứu chỉ
dừng lại bước đầu trong một phạm vi hẹp. Hy vọng trong một quá trình nghiên
cứu khác, bản thân sẽ mở rộng và giải quyết sâu rộng vấn đề hơn, góp phần
nâng cao kết quả học tập và giảng dạy môn Ngữ văn. Vì vậy, tôi chân thành
mong được sự đóng góp ý kiến từ phía quý thầy cô để nội dung đề tài được

17


hoàn thiện hơn trên tinh thần trao đổi, hợp tác và cùng đạt nhiều thành tựu
trong sự nghiệp giáo dục.

18


19



PHỤ LỤC
Phiếu điều tra đối với giáo viên và học sinh
- Phiếu một dành cho 12 giáo viên:
1. Thầy (Cô) cho biết phân môn Tiếng Việt của SGK Ngữ văn THPT phân bố như
thế nào?
2. Thầy (Cô) có thường rèn kỹ năng viết đúng PCCN ngôn ngữ Tiếng Việt
cho HS ở các giờ học phụ đạo, ngoại khóa, hoặc giờ trả bài viết không?
3. Tổ chức rèn luyện kỹ năng viết đúng PCCN Tiếng Việt ở trường THPT có
cần thiết không?
4. Ở giờ dạy các bài PCNN, Thầy (Cô) thường tập trung vào các công việc?
5. Thầy (Cô) cho biết thái độ của HS khi tham gia các giờ học PCCN ngôn
ngữ?
6. Khi tổ chức cho HS làm bài trên lớp, Thầy (Cô) thường gặp trở ngại khó
khăn về:
7. Đánh giá của Thầy (Cô) về khả năng viết đúng một phong cách văn bản
của HS?
- Phiếu hai bản thân tôi dùng hình thức điều tra khảo sát bằng phiếu với
64 học sinh.
1. Em có thích học phần Tiếng Việt ở sách Ngữ văn THPT không?
2. Khi học các bài PCCN, em ngại nhất công việc gì?
3. Khó khăn em gặp phải trong một giờ học PCCN Tiếng Việt?
4. Sau khi học một giờ phong cách chức năng Tiếng Việt, em có vận dụng kiến
thức vào một văn bản trong thực tiễn đời sống không?
5. Mong muốn của em khi tham gia học các bài phong cách chức năng Tiếng
Việt?
6. Tâm lý của em khi giáo viên phụ đạo, luyện tập thêm về kỹ năng viết đúng
PCCN Tiếng Việt qua kiến thức phong cách ngôn ngữ?
7. Sau giờ rèn luyện, em có (hay) không?

20



Bảng 2.1. kết quả khảo sát GV
Câu
1

2

3

4

5

6

7

Nội dung trả lời
- Nhiều lí thuyết

Số phiếu
3

Tỉ lệ %
25,0

- Nhiều thực hành

1


8,3

- Hài hòa giữa lí thuyết và thực hành
- Có thực hiện

8
8

66,7
66,7

- Không thực hiện

0

0,0

- Có hoặc không cũng được
- Cần thiết

4
7

33,3
58,3

- Rất cần thiết

5


41,7

- Không cần thiết
- Rèn kĩ năng nhận biết, phân tích

0
4

0,0
33,3

- Rèn kĩ năng vận dụng, tạo lập văn bản

5

41,7

- Rèn kĩ năng qua việc nhận xét, chữa lỗi

2

16,7

- Tất cả a, b, c
- Tích cực chủ động

1
5


8,3
41,7

- Thụ động

6

50,0

- Nhiệt tình nhưng làm 1 cách máy móc

1

8,3

- Bình thường
- Thời gian

0
4

0,0
33,3

- Trình độ, năng lực học sinh yếu

2

16,7


- Cả a, b
- Tốt

6
1

50,0
8,3

- Khá

4

33,3

- Trung bình

5

41,7

- Yếu

2

16,7

21



Bảng 2.2. kết quả khảo sát học sinh
Câu hỏi
1

2

3

4

5

6

7

Nội dung trả lời
- Thích

Số phiếu
30

Tỉ lệ %
46,9

- Không thích

4

6,3


- Không xác định

21

32,8

- Lúc thích lúc không
- Học lý thuyết

19
12

14,0
18,8

- Thực hành bài tập

32

50,0

- Làm bài tập ở nhà

15

23,4

- Cả b và c
- Khái niệm


5
5

7,8
7,8

- Đặc trưng

25

39,1

- Thực hành

31

48,4

- Tất cả
- Có

3
27

4,7
42,2

- Không có


20

31,3

- Lúc có lúc không

15

23,4

- Không quan tâm việc vận dụng
- Tăng thời gian

2
16

3,1
25,0

- Tăng bài tập thực hành

18

28,1

- Cả a và b

22

34,4


- Bình thường, không thích tăng gì
- Thích thú

8
30

12,5
46,8

- Phải học vì bắt buộc

12

18,8

- Mệt mỏi, chán ngán

12

18,8

- Bình thường
- Luyện tập lại bài tập ở SGK

10
35

15,6
54,7


- Luyện tập thêm bài tập ở SBT

5

7,8

- Cả a và b

15

23,4

- Không luyện tập thêm

9

14,1

22


DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VẾT TẮT TRONG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Chữ viết tắt
ĐC
HS
GV
NXB
PCNN BC

PCNN CL
PCNN HC
PCNN KH
PCNN NT
PCNN SH
PCCN
SGK
SBT
THPT
TN

Viết đầy đủ
Đối chứng
Học sinh
Giáo viên
Nhà xuất bản
Phong cách ngôn ngữ báo chí
Phong cách ngôn ngữ chính luận
Phong cách ngôn ngữ hành chính
Phong cách ngôn ngữ khoa học
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Phong cách chức năng
Sách giáo khoa
Sách bài tập
Trung học phổ thông
Thực nghiệm

23



24


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỪA THIÊN HUẾ
TRƯỜNG THCS & THPT HÀ TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT ĐÚNG PHONG CÁCH
CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ TRUNG

Lĩnh vực sáng kiến kinh nghiệm: Ngữ văn
Tên tác giả: Nguyễn Thị Hồng Vân
Giáo viên môn: Ngữ văn

Huế, tháng 3 năm 2015
25


×