Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Quản lý nguồn vốn và các giải pháp tạo lập vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh xuân hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 57 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời kỳ đẩy
mạnh CNH – HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội
lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài
giữ vai trò quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
đang diễn ra hết sức sôi động. Điều đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã, đang và sẽ
diễn ra ngày càng khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng. Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối với hoạt động huy động vốn
của các NHTM nói chung được đặt ra rất bức thiết. Các Ngân hàng hiện nay hoạt
động đòi hỏi phải có hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm
“từ đâu?” mà phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách gì?” để có hiệu quả
cao nhất, đáp ứng nhu cầu cho vay của Ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi phí thấp
nhất.
Bên cạnh đó, với nền kinh tế thị trường đang phát triển tại Việt Nam, việc gia
nhập các tổ chức kinh tế quốc tế làm tăng nhu cầu về các khoản tín dụng. Các
doanh nghiệp phát triển nhanh chóng cả về số lượng và quy mô, nhu cầu tín dụng cá
nhân ngày càng tăng, nếu như không nắm bắt được nhu cầu khách hàng, Ngân hàng
sẽ mất đi những cơ hội tốt trong kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của
mình. Tuy nhiên không phải khách hàng nào đến với Ngân hàng cũng đáp ứng được
các yêu cầu mà ngân hàng đưa ra. Vấn đề này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của ngân hàng. Do đó đòi hỏi ngân hàng đánh giá cũng như có những giải pháp để
giải quyết mối quan hệ giữa quy mô và chất lượng tín dụng để có hiệu quả cao trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của côn tác huy động vốn trong hoạt động của
Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam chi nhánh xuân hòa, em xin chọn đề tài “ Quản lý nguồn vốn và

2



các giải pháp tạo lập vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi
nhánh Xuân Hòa”. Hy vọng rằng những giải pháp mà em đưa ra sẽ mang lại hiệu
quả thiết thực, đáp ứng được yêu cầu phát triển, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế
thế giới của hệ thống ngân hàng thương mại, Ngân hàng Công Thương nói chung và
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh xuân hòa Phúc Yên – Vĩnh
Phúc nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng đến đưa ra các giải pháp đề nâng cao hiệu quả của hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh xuân hòa Phúc Yên –
Vĩnh Phúc.
Trên cở sở những giải pháp đưa ra trong chuyên đề hy vọng rằng Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh xuân hòa Phúc Yên - Vĩnh Phúc khi áp
dụng sẽ nâng cao được hiệu quả trong hoạt động cho vay.
Trên cở sở áp dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh
xuân hòa Phúc Yên - Vĩnh Phúc từ đó có thể triển khai áp dụng rộng rãi cho hệ
thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam với những điều chỉnh cụ thể cho phù hợp
chính sách, sách lược của từng ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này giới hạn trong việc nghiên cứu: Chính sách tín dụng của Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói chung và của Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Xuân Hòa - Vĩnh Phúc nói riêng. Đồng thời nghiên cứu
các hoạt động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Xuân hòa
- Vĩnh Phúc giai đoạn năm 2012 - 2013 từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam– Chi
nhánh Xuân Hòa - Vĩnh Phúc.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về lý thuyết huy động vốn tại ngân hàng
thương mại, đồng thời kết hợp nghiên cứu thực tế về hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Xuân Hòa - Vĩnh Phúc.


3


4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp sau: Nghiên cứu dữ liệu thứ cấp thông qua thu thập
và xử lý thông tin nội bộ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh
Xuân Hòa Vĩnh Phúc và các thông tin ngoại vi như sách báo, phương tiện thông tin
đại chúng, các thông tin khác trong và ngoài ngành ngân hàng. Kết hợp với các
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích… đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn.
5. Kết cấu các chương
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được
trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam – chi nhánh Xuân Hòa - Vĩnh Phúc

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Xuân Hòa - Vĩnh Phúc

4


Chương 1: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP
1.1. NHTM và hoạt động của NHTMCP trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước trên
thế giới. Còn ở Việt Nam, ngân hàng thương mại được quy định rõ trong luật ngân
hàng và các tổ chức tín dụng: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách

nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm
trung gian trao đổi hàng hóa. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hóa được tiến hành
một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều. Chính vì thế đã kích thích sản xuất, đưa xã
hội loài người ngày càng phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát huy.
Thương mại phát triển, một tầng lớp thương nhân giầu có ra đời và họ cần có những
nơi an toàn để gửi tiền. Những người nhận tiền gửi chủ yếu là chủ tiệm vàng, họ
nhận thấy: luôn có một lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi do tiền và vàng người ta gửi
vào luôn nhiều hơn rút ra. Mặt khác lại luôn tồn tại nhu cầu vay mượn để chi tiêu,
đầu tư kinh doanh. Và những người giữ hộ tài sản nghĩ đến việc sử dụng số tiền
nhàn rỗi đó để cho vay kiếm lời. Và thay vì thu phí giữ hộ người ta trả một khoản
lãi cho người có tài sản đem gửi. Bên cạnh đó người giữ hộ tiền cũng cho vay để
thanh toán cho một người nào đó bằng cách ghi nợ cho người vay tiền và ghi tăng
tài sản cho người được thanh toán. Và lúc các nghiệp vụ trên hình thành cũng là lúc
ngân hàng xuất hiện.
Khoảng đầu thế kỉ thứ XV (1401) có một tổ chức trên thế giới được coi là một
ngân hàng thực sự theo quan niệm ngày nay đó là BAN – CA – DI Barcelona (Tây
Ban Nha), đây là ngân hàng đầu tiên trên thế giới. Đến năm 1409 ngân hàng thứ hai

5


là BAN – CO – DI Valencia (Tây Ban Nha) và cả hai ngân hàng này đã thực hiện
hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng như ngày nay: nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán,
….
Từ thế kỉ XVII, song song với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật kinh tế và
thương mại đã có những tiến bộ lớn, đồng thời ngân hàng cũng phát triển mạnh, đầu

tiên là ở Châu Âu, sau đó là ở Châu Mỹ rồi đến Châu Á và được phát triển trên
phạm vi toàn thế giới.
Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ XX khi
mà các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình.
Các sản phẩm mới của ngân hàng ra đời đáp ứng mội nhu cầu của khách hàng.
Ngân hàng trở thành nơi cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng và phong phú nhất
cho nền kinh tế.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại cổ phần
Từ khái niệm về NHTMCP nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có
hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng
CNH – HĐH rất cần đến NHTMCP với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình
CNH – HĐH của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ
sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
kinh tế năm thì vai trò của các NHTMCP càng được Đảng và Nhà nước coi trọng.
1.1.3.1. NHTMCP là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu
nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa
với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển cúa các
ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm được lại cần có vốn. Vốn được coi như
nguồn “thức ăn” chính thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp, khi “thức ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc

6


không tiến hành kịp thời quá trình tái sản xuất. NHTM chính là người đứng ra tiến
hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh
tế,…Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh

nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới qui trình
công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là
đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh
mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở
thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
1.1.3.2. NHTMCP là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu
ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào,
doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện thành công
chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (giao tiếp, khuyếch
trương), Place (địa điểm) và People (con người). Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị
trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận. Qui trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp
trang bị được đầy đủ vốn cần thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ
khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ. Nguồn
vốn tín dụng của NHTMCP sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn
đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường
trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, chất lượng, thời gian, địa điểm,…
NHTMCP sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không
gian và thời gian.
1.1.3.3. NHTMCP là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc
tế
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này ngày
càng thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở
cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài
chính. Nhưng làm thế nào để có thể hòa nhập nền tài chính của một quốc gia với
phần còn lại của thế giới? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM

7



vì hệ thống này có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho
việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế,
nghiệp vụ hối đoái, cho vay ủy thác đầu tư…giúp cho luồng vốn ra, vào một cách
hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một
trong những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên
thế giới.
1.1.3.4. NHTMCP là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế vì
hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua
con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự
trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua
các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng
thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ
đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những
tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên
tục, góp phần điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế
lạm phát.
1.1.4. Chức năng của Ngân hàng thương mại cổ phần
1.1.4.1. Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTMCP, NHTMCP nhận tiền gửi và
cho vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các
công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ
thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không
đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm
kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải có
sự trùng khớp về nhu cầu giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời
hạn…chính vì thế NHTMCP với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận
tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tê với số lượng và thời hạn phong


8


phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay
vốn.
1.1.4.2. Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTMCP. Chức năng
này được thể hiện trong quá trình NHTMCP cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt
động đầu tư của NHTMCP, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình
thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị
đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ thống NHTM sẽ
được tăng lên gấp bội khi NHTMCP cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền
tệ qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức:
D=m.MB
Trong đó: D: Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: Khối lượng tiền cơ sở
M=1/rd: Hệ số nhân tiền

rd: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTƯ có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền
tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM, từ đó ảnh
hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế, do đó đạt được hiệu quả mà mục
tiêu chính sách tiền tệ đặt ra.
1.1.4.3. Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTMCP làm tăng lượng tiền
trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính
lỏng cao hơn và có rủi ro thấp hơn, do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ
những chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp, công ty phát hành.
Các NHTMCP còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa
dạng và phong phú: Sec chuyển tiền, Sec chuyển khoản, thẻ tín dụng,…sự xuất hiện

của các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng
giao dịch thương mại, mua bán hàng hóa an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.

9


1.1.4.4. NHTMCP cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTMCP ngày nay
còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán,
dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm,…
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng
phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, chưa bao giờ các dịch vụ tài
chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu phí dịch vụ ở các ngân hàng
hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời việc phát
triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn
trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được
chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng, việc
đưa ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh
tranh. Chính vì vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở
vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình.
Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy
tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy động
vốn.
1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần
1.2.1. Khái niệm về nguồn vốn
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng
cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để thực
hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi
nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn hoạt động nhất

định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTMCP như sau:
“Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.

10


1.2.2. vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTMCP
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh
doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với NHTMCP vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng
tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTMCP không thể thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Vì thế những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong
kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của
NHTMCP.
1.2.2.2. Vốn quyết định quy mô của hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của NHTMCP
Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh, vốn
còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động
khác của NHTMCP.
Vốn tự có của ngân hàng ngoài việc sử dụng để mua sắm TSCĐ, trang thiết
bị, góp vốn liên doanh…Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt
động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho
vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTƯ thể hiện vai trò quản lý, điều tiết
thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Những quy định về mức cho vay, mức huy động trên Vốn tự có như:

- Mức cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có
- Mức vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có
- Mua cổ phần hoặc góp vốn liên doanh không được vượt quá 50% vốn tự

Qua những quy định của NHTƯ đối với NHTMCP ta thấy vốn tự có quyết
định đến khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTMCP vì thế những
NHTMCP có vốn tự có lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không
những vốn tự có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng ảnh

11


hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng và hoạt động khác. Vốn tự có rất quan trọng
nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ
trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh
doanh, do đó ngân hàng nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín
dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng.
1.2.2.3. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường
Một NHTMCP có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường. Uy
tín của ngân hàng trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng
khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận với
khối lượng vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có vốn lớn năng lực thanh toán của ngân
hàng được nâng cao, do đó uy tín của ngân hàng được nâng cao, từ đó sẽ thu hút
được nhiều khách hàng và nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường.
1.2.2.4. Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh
của ngân hàng
Với mỗi ngân hàng quy mô, trình độ công nghệ hiện đại là tiền đề để thu hút
vốn. Đồng thời khả năng về vốn lớn là cơ sở để ngân hàng mở rộng khối lượng tín

dụng và có thể quyết định cả mức lãi suất cho vay. Do đó có tiềm lực về vốn lớn
ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay, từ đó tạo cho ngân hàng ưu thế trong
cạnh tranh, và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các hình thức liên
doanh, liên kết, cho thuê, mua bán nợ, kinh doanh chứng khoán,…
KL: Vốn có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Do đó ngân hàng phải luôn chú trọng đến việc phát triển nguồn vốn một cách ổn
định cả về vốn huy động và vốn tự có.
1.2.3. Kết cấu vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn tự có.
- Vốn huy động.

12


- Vốn đi vay.
- Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của
NHTMCP.
1.2.3.1. Vốn tự có
Vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và một số tài sản
nợ khác của ngân hàng theo quy định của NHNN. Vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ
nhưng có vai trò quan trọng đối với hoạt động của NHTMCP.
Vốn tự có gồm:
- Vốn điều lệ: là số vốn do pháp luật quy định khi ngân hàng mới thành lập
và đi vào hoạt động.
- Quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 5%
lợi nhuận sau thuế và không được vượt quá vốn điều lệ.
- Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 10% lợi

nhuận sau thuế nhưng không được vượt quá 25% vốn điều lệ.
- Tài sản nợ khác:
+ Lợi nhuận chưa phân phối
+ Thu nhập lớn hơn chi phí
+ Hao mòn TSCĐ….
1.2.3.2. Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ hai
nguồn chủ yếu là:
- Tiền gửi của cá nhân và hộ gia đình
- Tiền gửi của tổ chức kinh tế và doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của ngân
hàng, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTMCP.
Để đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao, ngân hàng phải huy động đủ vốn đáp
ứng cho nhu cầu sử dụng vốn làm sao để huy động được nguồn vốn phù hợp với chi

13


phí thấp nhất, tỷ trọng các nguồn vốn phải hợp lý, từ đó nâng cao được sức cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
1.2.3.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay là nguồn vốn được hình thành do ngân hàng đi vay các tổ chức tín
dụng khác hoặc NHTƯ:
a. Vay các TCTD khác: Trong trường hợp vốn huy động không đủ đáp ứng
nhu cầu thanh khoản NHTMCP có thể đi vay các TCTD khác để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản. Đây là nguồn vốn có tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, NHTMCP
chỉ sử dụng nguồn vốn này khi thực sự cần thiết vì nó có chi phí cao hơn vốn huy
động rất nhiều.
b. Vay NHTƯ: NHTƯ cho NHTMCP vay dưới hình thức tái cấp vốn, vay
thanh toán, vay ngắn hạn bổ xung,… NHTƯ có cho NHTMCP vay hay không phụ

thuộc vào:
- Chính sách tiền tệ mà NHTƯ đang theo đuổi: Nếu NHTƯ muốn mở rộng
mức cung tiền để thúc đẩy kinh tế phát triển thì NHTƯ sẽ đáp ứng nhu cầu vay của
NHTM một cách dễ dàng và ngược lại.
- Hạn mức tín dụng của NHTM được NHTƯ cấp đã được sử dụng hết
chưa? Thông thường NHTƯ cấp cho mỗi ngân hàng một hạn mức tín dụng và
NHTMCP được phép vay trong hạn mức này.
Đây là nguồn vốn có chi phí rất cao do đó NHTMCP chỉ sử dụng khi thực sự
cần thiết.
1.2.3.4. Vốn khác
Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên, NHTMCP còn có các nguồn vốn khác
cũng không kém phần quan trọng như: vốn trong thanh toán, nguồn vốn ủy thác đầu
tư,…NHTMCP có thể sử dụng các nguồn vốn này để kinh doanh trong khoảng thời
gian và điều kiện nhất định.
1.3. Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần
1.3.1. Các hình thức huy động vốn của NHTMCP
1.3.1.1. Tiền gửi

14


Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương
mại. Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại đang đẩy mạnh huy động vốn
thông qua các chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả.
a. Đối với tiền gửi thanh toán
Với mục đích giao dịch, trên cơ sở phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi của

khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khi khách hàng có yêu cầu hoặc có sự ủy
quyền. Các khoản thu nhập của khách hàng đều có thể dễ dàng được ngân hàng
nhập vào tài khoản. Hiện nay do yêu cầu của cạnh tranh, các ngân hàng đều quan
tâm tới việc rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng cho nên thủ tục mở tài
khoản rất đơn giản, gọn nhẹ và thuận tiện. Để thu hút khách hàng một số ngân hàng
còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với cho vay (hay còn gọi là cho vay thấu
chi), một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản tiền gửi
thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi tương ứng này nhằm cạnh tranh với các Tổ
chức tín dụng, các ngân hàng thươg mại khác.
b. Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội
nghề nghiệp
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ được chi
trả trong một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho
thanh toán song mức lãi suất thường rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu và khuyến khích
người gửi tiền, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn cho mình, các ngân hàng đưa ra
các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường khoản tiền này không thuận tiện
trong thanh toán như tiền gửi thanh toán ở trên, khi cần tiền khách hàng phải đến
ngân hàng để thực hiện rút tiền ra. Tuy nhiên để thu hút khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng thường có mức lãi suất ưu đãi tương ứng với độ dài kỳ hạn gửi mà khách

15


hàng gửi tiền vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thu hút được nhiều
nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức nói trên.
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các tầng lớp dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng (các khoản
tiền tiết kiệm) trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ sẽ có
thể gửi tiền nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt
là nhu cầu bảo toàn vốn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều các khoản tiền tiết kiệm,

các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền
mặt trong nhà thay vì gửi vào ngân hàng, bằng cách mở rộng mạng lưới các Chi
nhánh, các phòng giao dịch đáp ứng nhu cầu huy động. Đưa ra hình thức huy động
đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như mức lãi suất cạnh tranh với các
khoản tiền gửi thời hạn khác nhau, lãi suất giữa tiết kiệm bằng đồng nội tệ và tiết
kiệm bằng đồng ngoại tệ, tiết kiệm bằng vàng,…). Ngân hàng có thể mở cho mỗi
người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm khác nhau cho mỗi kỳ hạn và cho mỗi
lần gửi khác nhau. Loại hình tiền gửi này không nhằm mục đích thanh toán tiền
hàng và dịch vụ song nó có thể dùng làm tài sản thế chấp để vay vốn nếu được ngân
hàng cho phép.
d. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Với mục tiêu là an toàn, thuận tiện và nhanh chóng trong thanh toán cho
khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân hàng của
mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác. Tuy nhiên thì quy
mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng.
1.3.1.2. Nguồn đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Các
nguồn mà ngân hàng thương mại có thể vay đó là:
a. Vay từ Ngân hàng Nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết công việc cấp bách trong chi trả của các
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự

16


trữ thanh toán) các ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Nhà Nước
(NHTƯ). Hình thức vay chủ yếu là tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu thương phiếu.
Các thương phiếu được chiết khấu hoặc tái chiết khấu thì trở thành tài sản của họ
(của Ngân hàng Nhà Nước). Khi cần tiền họ lại mang các thương phiếu này đến

Ngân hàng Nhà Nước để chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân
hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
Nước) tăng lên, Ngân hàng Nhà Nước điều hành vay mượn nột cách chặt chẽ, Ngân
hàng thương mại phải đáp ứng các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường Ngân hàng Nhà Nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có
chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu
của Ngân hàng Nhà Nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương
phiếu, Ngân hàng Nhà Nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng.
b. Vay từ các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại khác
Đây là nghiệp vụ ngân hàng thương mại này đi vay ngân hàng thương mại
khác và vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoặc thị trường
vốn. Các ngân hàng thương mại đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng
bất ngờ về các khoản huy động hoặc cho vay giảm sẽ sẵn sàng cho ngân hàng
thương mại khác vay để hưởng lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng thương
mại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn từ các ngân hàng khác để đảm bảo
khả năng thanh khoản như: đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế nguồn từ Ngân hàng Nhà Nước
(NHTƯ). Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp
với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà
Nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của Kho bạc.
Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi vay tăng lên.
c. Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng thương mại cũng đi vay
bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.

17


Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn. Do vậy các

khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu
cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là các khoản vay không có
bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải
thông qua ngân hàng đại lý hoặc thông qua sự bảo lãnh của ngân hàng thương mại
lớn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào tình hình phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp
vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết
định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề về
chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ,… cũng được các ngân hàng quan
tâm.
1.3.1.3. Các nguồn khác
a. Nguồn ủy thác
Đây là nghiệp vụ mà thông qua đó ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ ủy
thác như cho vay, đầu tư, ủy thác cấp phát, giải ngân, thu ngân hộ,… Các hoạt động
này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của các
mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát
triển như của các ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng màng lưới ngân hàng
như là kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Và kết quả chính là hình thành nguồn ủy thác,
làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
b. Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh
toán (Séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C,…). Những ngân hàng là
ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền của các ngân hàng thành
viên để chuyển về thực hiện cho vay.
c. Nguồn khác
Bao gồm các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả, tiền khấu hao
tài sản nhưng chưa dùng,…

18



1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của NHTMCP
1.3.2.1. Nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng thương mại,
song nó lại có tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh doanh của ngân hàng
thương mại nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng. Và như vậy, sẽ
ảnh hưởng tới chính sách huy độn vốn mà ngân hàng đang thực hiện.
a. Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế có ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người có
cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại. Bởi khi đó tiết kiệm trong
xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động của ngành ngân hàng sẽ ngày càng
được nâng lên. Một hệ quả tất yếu là làm cho các thành phần kinh tế sẽ gửi tiền vào
ngân hàng theo từng mục tiêu cụ thể. Và ngược lại nếu trong vùng kinh tế đó có
tình hình xã hội bất ổn định, tốc độ phát triển của kinh tế còn hạn chế,… Điều này
làm cho tiết kiệm trong xã hội đạt mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa dùng tiền
mặt, chưa có thái độ quan tâm thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân hàng
thương mại gặp nhiều khó khăn.
b. Hành lang Pháp lý và Chính sách vĩ mô của Nhà Nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng thương mại
trong đó có hoạt động huy động vốn đều phải chịu sự điều tiết của các chế tài của
luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà Nước, để
phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay Ngân hàng Nhà Nước đề ra.
Các ngân hàng thương mại trong trường hợp cần thiết phải tiến hành mua trái phiếu
Chính phủ do Chính phủ (mà đại diện là Kho Bạc Nhà Nước) phát hành, theo
những quy định cụ thể của Ngân hàng Nhà Nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh
tiền tệ của mỗi quốc gia mà Ngân hàng Nhà Nước có quy định mức vốn tối đa được
phép huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của ngân
hàng thương mại. Ngoài ra hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại còn chịu


19


sự tác động nhiều cơ quan, nhiều chế tài pháp luật khác, tuỳ theo mức độ của mối
quan hệ trong hoạt động kinh doanh.
c. Môi trường cạnh tranh
Hoạt động của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần trong cạnh tranh
như thủa mới ra đời. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương
mại, mà ngày nay nó còn bao gồm các Tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính, và các loại hình dịch vụ mà các tổ chức khác cung cấp. Như Bảo
hiểm, tiết kiệm Bưu điện,... Các yếu tố này phần nào làm ảnh hưởng tới chính sách
huy động vốn của ngân hàng. Nó đòi hỏi các ngân hàng phải có những điều chỉnh
sao cho phù hợp với từng thời kỳ, vừa để giữ khách hàng truyền thống, vừa có thể
tìm kiếm thêm khách hàng mới.
d. Thói quen tiêu dùng của xã hội
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển khi mà văn minh tiền tệ phát
triển thì lượng tiền mặt trong lưu thông trong nền kinh tế rất nhỏ, người dân chủ yếu
dùng các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Còn ở các quốc gia có nền kinh
tế đang phát triển thì lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế lại chiếm tỷ trọng
khá cao, người dân nơi này ít dùng các phương tiện thanh toán, dịch vụ tiện ích mà
ngân hàng cung cấp, vì vậy đã làm ảnh hưởng, và gây khó khăn trong việc thực hiện
chính sách huy động vốn của ngân hàng.
1.3.2.2. Các nhân tố chủ quan
Là nhân tố nội tại bên trong ngân hàng, thuộc khả năng kiểm soát của ngân
hàng, so với các nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới tất cả mọi
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong các hoạt động đó có hoạt động huy
động vốn và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Bao gồm:
a. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng

Chiến lược kinh doanh của ngân hàng thường phụ thuộc vào tình hình thực tế
và những mục tiêu của ngân hàng, mà ngân hàng có những chiến lược kinh doanh

20


khác nhau. Khi chiến lược thay đổi nó sẽ có tác động ngay tới chính sách huy động
vốn của ngân hàng và như vậy, nó sẽ ảnh hưởng tới quy mô vốn của ngân hàng.
b. Nội dung chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng
Như đã phân tích nội dung của chính sách huy động vốn thường xuyên được
thay đổi theo mục tiêu mà ngân hàng theo đuổi, cũng như chiến lược kinh doanh
của ngân hàng. Khi có nhu cầu về vốn lớn ngân hàng thương mại có thể đưa ra
nhiều biện pháp, công cụ, cách thức khác nhau nhằm thu hút nhiều nguồn tiền từ
nền kinh tế gửi vào ngân hàng để từ đó phục vụ cho nhu cầu về vốn của ngân hàng.
Và cũng khẳng định rằng chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại
không bao giờ được giữ nguyên mà nó thương xuyên thay đổi, nhưng cũng chỉ
nhằm mục đích mà ngân hàng thương mại đã đề ra và tạo tiền đề cho những thời kỳ
hoạt động tiếp sau.
c. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh nó có thể là vô hình hay hữu hình, song nó chính là bộ
mặt của ngân hàng. Năng lực cạnh tranh, có vai trò quan trọng trong hoạt động của
chính sách huy động vốn và đồng thời nó còn là uy tín, sức mạnh trong công cuộc
cạnh tranh, là lòng tin trong dân chúng, ...
1.3.3. Cách xác định nguồn vốn huy động
1.3.3.1. Xác định chi phí nguồn tiền
Chi phí nguồn tiền là khoản lãi phải trả cho nguồn tiền đó và chi phí được đo
lường qua lãi suất gồm:
- Lãi suất danh nghĩa: đây là mức lãi suất người gửi tiền quan tâm nhất .Ví dụ
lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng là 0.35%/1 tháng thì lãi suất danh nghĩa là 0.35%
- Lãi suất thực tế: là mức lãi suất ngân hàng phải tính toán chính xác xem chi

phí thực tế bỏ ra để có nguồn tiền đó, tránh tình trạng thua lỗ do chi phí huy động
thực tế của nguồn tiền đó quá cao ttrong khi lãi suất cho vay không bù đắp
được.Tuy nhiên chi phí thực còn phụ thuộc vào phương thức trả lãi: số lần trả lãi
trong một kỳ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc...số lần trả lãi trong một kỳ càng nhiều, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc càng cao thì chi phí thực tế càng lớn.

21


- Lãi suất bình quân: ngân hàng huy động rất nhiều nguồn tiền với các mức lãi
suất, kỳ hạn khác nhau, quy mô khác nhau mà thực tế cho vay không phân biệt rạch
ròi từ nguồn nào do đó ngân hàng phải tính toán lãi suất bình quân để làm cơ sở xác
định lãi suất cho vay để đảm bảo lợi nhuận tổng thể cho ngân hàng.
1.3.3.2. Xác định kỳ hạn nguồn tiền
- Kỳ hạn danh nghĩa: giả sử khách hàng gửi tiền kỳ hạn 6 tháng thì kỳ hạn
danh nghĩa là 6 tháng.
- Kỳ hạn ổn định của đồng tiền: kỳ hạn này xét với từng đồng tiền riêng biệt:
Thông qua biến động số dư của một loại tiền gửi nào đó qua các thời kỳ ngân hàng
có thể xác định một mức số dư ổn định tương ứng với một thời kỳ nhất định. Việc
xác định kỳ hạn ổn định là rất quan trọng vì ngân hàng sẽ xác định chính xác nhu
cầu chi trả thực tế đồng thời ngân hàng có thể sử dụng một phần dư đó để cho vay
với kỳ hạn dài hơn kỳ hạn của nguồn tiền mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán.

22


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH XUÂN HÒA - VĨNH
PHÚC
2.1. Khái quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Xuân

Hòa - Vĩnh Phúc
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(gọi tắt là BIDV) được thành lập từ ngày
26/4/1957, BIDV là một trong những ngân hàng TMCP ra đời sớm nhất và hiện tại
nằm trong Top 10 ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam. Hiện tại BIDV có vốn điều
lệ 14.599.713.000.000 tỷ đồng (năm 2013), là một trong 07 ngân hàng TMCP có
vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam, trong đó đối tác chiến lược nước ngoài Societe
Generale sở hữu 20% cổ phần.
Các chỉ tiêu tài chính khác: Đến 31/12/2013, tổng tài sản BIDV đạt 550
nghìn tỷ đồng (tương đương 27,5 tỷ đô la mỹ), tăng 12% so với cùng kỳ năm 2012
và tiếp tục là một trong những Ngân hàng TMCP có quy mô tổng tài sản dẫn đầu thị
trường. Đến 31/12/2013, nguồn vốn huy động đạt 472 nghìn tỷ đồng, trong đó huy
động vốn trên thị trường 1 đạt 417 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so năm 2012; dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế 391 nghìn tỷ đồng, tăng 16,7% so năm 2012, nợ xấu được
kiểm soát ở mức 2,3%, lợi nhuận trước thuế đạt 5.233 tỷ đồng, tăng gần 21% so với
năm 2012, đạt 110,8% kế hoạch Đại hội đồng cổ đông giao.
Bên cạnh việc tăng trưởng tổng tài sản, BIDV là ngân hàng thương mại thành công
trong kiểm soát và nâng cao chất lượng tài sản có, chất lượng tài sản cho vay và
triển khai các biện pháp kiểm soát nợ xấu luôn ở mức thấp trong giới hạn.
Năm 2013, BIDV hoàn tất việc phát hành cổ phần bổ sung cho cổ đông hiện hữu
với số lượng là 510.032.102 cổ phiếu tương đương 5.100 tỷ và phát hành 3.150 tỷ
trái phiếu dài hạn đáp ứng điều kiện để được tính vào vốn cấp 2. Hệ số CAR riêng
lẻ, hợp nhất đều đạt trên 10%.
Đây cũng là năm thứ 18 liên tiếp BIDV thực hiện kiểm toán quốc tế, là năm thứ 8
được tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s và năm thứ 4 được tổ chức định

23


hạng quốc tế Standard and Poor’s định hạng. Các kết quả cho thấy hoạt động của

BIDV công khai, minh bạch, an toàn và hướng theo thông lệ, các chỉ số tín nhiệm
được duy trì như năm 2012, trong đó nhiều chỉ tiêu như định hạng tiền gửi/nhà phát
hành cao hơn các ngân hàng khác.
Năm 2013, BIDV đã thể hiện tốt vai trò tiên phong, là công cụ đắc lực của Đảng,
của Chính phủ và NHNN trong việc thực thi các nhiệm vụ chính trị được giao, cụ
thể:
BIDV thực hiện điều hành lãi suất cho vay theo hướng chủ động, đi đầu và dẫn dắt
thị trường, bám sát chỉ đạo của NHNN.
Dòng vốn tín dụng của BIDV hướng vào các lĩnh vực ưu tiên, cho vay phát triển
nông nghiệp, nông thôn, tăng 32,6%, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 24,8%,
tài trợ xuất khẩu tăng 21%, cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng
25,5%. Đồng thời, BIDV đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng có hiệu quả, tiếp tục hỗ trợ
thị trường, tháo gỡ khó khăn trong SXKD cho khoảng 800 doanh nghiệp.
BIDV cũng tích cực triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả các chương trình tín dụng
trọng điểm với tổng nguồn vốn cam kết lên đến 40 ngàn tỷ đồng. Điển hình như
triển khai cho vay Chương trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội đến Cần Thơ; gói
sản phẩm hợp tác 4 Nhà trong lĩnh vực BĐS (Ngân hàng – Chủ đầu tư – Nhà thầu –
Nhà cung cấp VLXD) nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cũng như nguồn cung của thị
trường, triển khai từ năm 2012; Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02 của Chính
Phủ, Thông tư số 11/2013/TT-NHNN, cho vay thu mua lúa gạo, nông sản, cho vay
chăn nuôi thủy sản và đặc biệt thực hiện hỗ trợ khách hàng khắc phục hậu quả cơn
bão số 10, 11, 15.
Hình thành kênh thông tin là các báo cáo nghiên cứu độc lập, góp thêm 01 góc nhìn
tin cậy cho thị trường, là các thông tin trên cả 3 lĩnh vực: Nghiên cứu kinh tế vĩ mô,
nghiên cứu thị trường tài chính tiền tệ và nghiên cứu kinh tế ngành.
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các định chế tài chính trong nước và quốc tế, BIDV
đã ký Thỏa thuận hợp tác với Tập đoàn bảo hiểm Metlife – Tập đoàn Bảo hiểm
nhân thọ số 1 thế giới - mở đường cho việc thành lập Cty Liên doanh bảo hiểm

24



BIDV Metlife kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; Ký Thỏa thuận hợp tác với một số
ngân hàng lớn của Nhật Bản để hợp tác, khai thác cơ hội kinh doanh;
Ngoài ra, BIDV đã phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư vào Nghệ An,
duyên hải miền Trung, Tây Bắc, Tây Nguyên... để góp phần khơi dậy tiềm năng của
các địa phương. Đồng thời, BIDV là đầu mối thu xếp vốn chính kêu gọi các ngân
hàng thương mại trong và ngoài nước tài trợ cho các lĩnh vực ưu tiên của địa
phương.
Năm 2013, BIDV hỗ trợ gần 500 tỷ tập trung vào các chương trình mục tiêu
quốc gia lớn như y tế, giáo dục, xóa nhà tạm và đặc biệt hoạt động cứu trợ thiên tai
khẩn cấp đã được BIDV tiến hành khẩn trương hiệu quả đối với đồng bào trong
nước và người dân Campuchia…
Để hỗ trợ đồng bào nghèo đón xuân vui tết, BIDV tiếp tục triển khai chương
trình quà Tết năm Giáp Ngọ gần 70.000 suất quà Tết có tổng giá trị là gần 22 tỷ
đồng. Đặc biệt, BIDV đã phối hợp với Bộ GD-ĐT tổ chức các hoạt động vinh danh
thủ khoa và học sinh đoạt giải Olympic, hội thảo với sự nghiệp đổi mới giáo dục.
Tiếp tục phát huy giá trị của văn hóa doanh nghiệp, đặc biệt là ban hành hai Bộ Quy
chuẩn đạo đức nghề nghiệp và Bộ quy tắc ứng xử được ban hành từ năm 2009, phổ
biến, thực hành trong toàn hệ thống. Với tinh thần cốt lõi của chuẩn mực ứng xử
BIDV là TRUNG THỰC – THÂN THIỆN – TIÊN TIẾN, hay 6 “chữ vàng” trong
ứng xử với khách hàng là: THÂN THIỆN - TẬN TÌNH – TIẾN TIẾN, đến nay,
BIDV đã có đội ngũ nhân lực 1,8 vạn người có trình độ, kỹ năng và tính chuyên
nghiệp cao.
Chú trọng tập trung nâng cao chất lượng tài sản và nguồn nhân lực luôn được BIDV
xác định là những nhiệm vụ quan trọng, là yếu tố quyết định để phát huy giá trị nội
lực, quyết định đến chất lượng, hiệu quả bền vững trong hoạt động của BIDV.
Trước những cơ hội và thách thức năm 2014, song được tạo đà bởi những thành quả
đã đạt được trong năm 2013 và bề dày truyền thống của một Ngân hàng Thương
mại lâu đời nhất Việt Nam, bằng giá trị nội lực và các yếu tố hỗ trợ tích cực từ bên

ngoài, BIDV tin tưởng sẽ tiếp tục bứt phá thành công.

25


Tháng 4/2011, Hội sở Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam đã
quyết định mở địa điểm giao dịch tại Xuân Hòa, đó là địa điểm giao dịch đầu tiên
của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Đến ngày 15/3/2012, chi
nhánh Xuân Hòa chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Chi nhánh Xuân
Hòa (gọi tắt là BIDV Xuân Hòa) là đơn vị trực thuộc Hội sở Ngân hàng TMCP Đầu
tư và phát triển Việt Nam do Hội sở quản lý và có con dấu riêng. BIDV Xuân hòa
được phép thực hiện các hoạt động huy động, cho vay ngắn, trung và dài hạn; tiếp
nhận vốn ủy thác đầu tư; vay vốn Ngân hàng Nhà Nước, các tổ chức tín dụng khác
bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ; chiết khấu thương trái phiếu, hùn vốn liên doanh;
dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán quốc tế, hoạt động
bao thanh toán theo quy định của BIDV.
2.1.2. Cơ cấu bộ máy hoạt động
Do mới đi vào hoạt động nên cơ cấu bộ máy của chi nhánh còn khá đơn giản,
tổng số cán bộ công nhân viên chỉ khoảng hai mươi người. Cơ cấu bộ máy của chi
nhánh cơ bản được thể hiện ở sơ đồ sau:

Giám đốc

Phòng Khách
hàng cá nhân

Phòng Khách
hàng doanh
nghiệp


Phòng Quản trị và
hỗ trợ hoạt động

- Đứng đầu chi nhánh là Giám đốc, giám đốc là người chỉ đạo chung trực tiếp
phụ trách tổ chức cán bộ, thi đua, khen thưởng, kỷ luật, công tác kiểm tra, kiểm soát
nội bộ...
- Phòng Khách hàng cá nhân gồm có 9 cán bộ công nhân viên, bao gồm các
bộ phận nhỏ như: Chuyên viên quản lý và quan hệ khách hàng cá nhân; kế toán giao

26


×