Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề cương môn học kinh tế chính trị cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.4 KB, 33 trang )

Theo Anh (Chị) vấn đề kinh tế chính trị nhức nhối ở Việt Nam hiện nay là gì?
Nguyên nhân và giải pháp khắc phục?
Có thể chọn vấn đề ở cả cấp độ Vi mô và Vĩ mô, miễn sao là nói cho thuyết phục
theo cách thức:
+ Bắt bệnh
+ Khám lâm sàng
+ Chỉ rõ tác hại
+ Điều trị
Vấn đề 1: Tham nhũng - nguyên nhân và biện pháp ngăn ngừa
Ở nước ta hiện nay, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và qt sạch
những kẻ thối hóa, biến chất làm biến dạng quyền hạn và công vụ được nhân
dân giao phó thì rất dễ nảy nịi một tầng lớp “tham quan ô lại mới” - một
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và nhân dân ta đang quyết tâm xây dựng.
Tham nhũng
Một nhận thức chung về tham nhũng được đa số thừa nhận, đó là một hiện tượng
xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở
tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, phát triển hay
đang phát triển hoặc kém phát triển. Tham nhũng nảy sinh, tồn tại và hồnh hành
do sự hư hỏng, biến chất khơng chỉ của những người có chức quyền mà cịn của cả
những người được giao thực hiện những cơng vụ bình thường đã làm biến dạng
quyền hạn và cơng vụ được giao phó. Nói cách khác, quyền hạn hay cơng vụ trao
cho họ đáng lý ra phải được thực hiện vì lợi ích chung của cả xã hội thì lại bị lạm
dụng vào mục đích trục lợi cho riêng cá nhân.
Thơng thường, những kẻ tham nhũng được coi là những kẻ tham ô và ngược lại,
bởi giữa hai hành vi tham nhũng và tham ơ đều có điểm giống nhau ở chủ thể thực
hiện hành vi và mục đích của hành vi. Nghĩa là cả hai hành vi này đều do những kẻ
có quyền, hay lợi dụng công vụ để trục lợi bất chính. Theo Từ điển tiếng Việt (của
Viện Ngơn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2002), tham nhũng là
“Lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”, tham ô là “Lợi dụng quyền
hạn và chức trách để ăn cắp của công”(1). Trên thực tế, nếu so sánh với hành vi


tham ơ, thì thủ đoạn, cách thức tham nhũng lại kín kẽ hơn, tinh vi hơn, xảo trá hơn,
và, phạm vi, quy mô tham nhũng cũng có mức độ rộng hơn, gây hậu quả trầm


trọng hơn rất nhiều. Tham nhũng hiện không chỉ dừng lại ở hành vi của một cá
nhân có chức quyền, mà đâu đó cịn là hành vi của cả một tập thể ban lãnh đạo cơ
quan, đơn vị - những người có quyền hạn và có cả “ơ dù” che chắn từ cấp cao hơn.
Có những hành vi tham nhũng không chỉ ngấm ngầm trong nội bộ một cơ quan,
đơn vị mà cịn là sự cấu kết một cách có tổ chức, có liên kết với một vài cơ quan,
đơn vị khác. Hành vi tham nhũng khơng chỉ thường hồnh hành ở lĩnh vực kinh tế,
như trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước,... mà điều đáng quan ngại là nó
cịn len lỏi cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, ở cả trong các lĩnh vực vốn được
coi trọng về đạo lý, như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, nhân đạo, từ
thiện,… Nếu chỉ nói riêng những thiệt hại to lớn về kinh tế cho nền kinh tế quốc
dân (ấy là cịn chưa nói tới những hậu quả khơn lường về chính trị, xã hội và tư
tưởng trong đời sống xã hội) do những kẻ tham nhũng gây ra thì cũng đã là căn cứ
đầy đủ để nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, chính thức ghi tội
danh tham nhũng vào Bộ luật Hình sự của mình.
Nguyên nhân
Tại các cuộc đàm phán về Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc trước
đây, người ta đều khẳng định là nơi nào hệ thống pháp luật cịn lỏng lẻo, các quy
trình ra quyết định và hoạch định chính sách cịn thiếu minh bạch, thủ tục hành
chính cịn rườm rà, lương cơng chức cịn thấp,… thì ở đó tình trạng tham nhũng có
xu hướng gia tăng cả về tính chất và mức độ, đồng thời số vụ có tính chất xun
quốc gia cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), Việt Nam thuộc nhóm nước
tham nhũng nghiêm trọng. Năm 2011, tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng Việt
Nam vẫn là những nước có điểm số thấp và vẫn đứng ở phía cuối bảng xếp hạng,
thứ 112, được 2,9 điểm, trên tổng số 183 quốc gia và lãnh thổ tham gia xếp hạng.

(Năm 2010, Việt Nam ở hạng thứ 116 với 2,7 điểm trong tổng số 178 quốc gia và
lãnh thổ tham gia xếp hạng. Trước đó, năm 2009, trong số 180 quốc gia và lãnh
thổ, Việt Nam đứng thứ 120 và điểm cũng là 2,7). Với số điểm đạt thấp như vậy,
Theo TI, tình hình tham nhũng ở Việt Nam nghiêm trọng hơn so với một số nước ở
châu Á, như Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Trung Quốc, Thái Lan, In-đơ-nê-xi-a,...
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “…tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu…chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
…”(2).


Vì sao tình trạng tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà cịn tiếp tục diễn
biến phức tạp? Có rất nhiều ngun nhân lý giải về tình trạng đó. Có nguyên nhân
chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có nguyên nhân do sự sơ hở của tổ chức bộ
máy, do sự thiếu đồng bộ và đầy đủ, thậm chí cịn nhiều “kẽ hở” của hệ thống
chính sách, pháp luật. Có ngun nhân thuộc về cơng tác kiểm tra, giám sát cịn
thiếu chặt chẽ, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Có nguyên nhân do đấu tranh và xử lý
những hành vi tham nhũng chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa nghiêm, cịn
tình trạng nể nang, né tránh, sợ “đứt dây động rừng”,… Ngồi những ngun nhân
này, theo chúng tơi, nhất định phải chỉ ra một vài nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên có chức có quyền.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng vạch rõ: “Tình trạng suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng”(3).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” cũng chỉ rõ một trong những vấn đề cấp bách nếu không được giải
quyết sẽ trở thành thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của
chế độ ta. Đó là tình trạng “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội thực dụng, chạy theo danh
lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, …”(4).
Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cơ hội thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng,…dễ dàng đưa khơng ít người từ chỗ là những cán bộ
tốt, những “công bộc” của nhân dân đến chỗ sa ngã, biến chất, trở thành những
“sâu mọt” đục khoét, trục lợi bất chính cho cá nhân. Bác Hồ đã từng gọi những kẻ
biến chất đó là thứ “giặc nội xâm” bởi hậu quả do họ gây ra thật sự nguy hiểm,
không lường hết được. Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên có chức có
quyền đó cho thấy, một mặt, do bản thân họ không tự thường xuyên rèn luyện, tu
dưỡng phẩm cách của người đảng viên; mặt khác, công tác giáo dục phẩm chất đạo
đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên đã không được quan tâm đúng mức hoặc
triển khai thực hiện chưa nghiêm túc, chưa hiệu quả, thậm chí ở nơi này nơi khác
cơng tác đó cịn bị xao nhãng, lãng quên.


Thứ hai, cịn thiếu những chế độ, chính sách, quy định chặt chẽ để từng bước ngăn
chặn tham nhũng, hay nói cụ thể hơn, để hạn chế và loại bỏ trên thực tế những điều
kiện dung dưỡng cho sự nảy nở của tệ nạn này.
Chẳng hạn, chế độ tiền lương đối với đại đa số cán bộ, viên chức ở nước ta hiện
nay, tuy đã nhiều lần được điều chỉnh theo hướng tăng lương cơ bản, những vẫn
chưa đáp ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu, bởi trên thực tế, trong cuộc
sống hằng ngày, ln diễn ra tình trạng “lương tăng nhưng khơng theo kịp giá
tăng”. Điều đó cộng với sự tác động của những mặt tiêu cực trong cơ chế thị
trường đã dễ làm nảy sinh ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức, nhất là ở
những người có chức quyền hay những người được giao thực thi những công vụ
“kiếm ra tiền” tư tưởng xoay xở trục lợi. Thực tế cho thấy đã có khơng ít cán bộ,
đảng viên bị mua chuộc q dễ, họ sẵn sàng nhận hối lộ, dễ sa vào những hành vi
trục lợi dù bản thân quá hiểu như thế là tham nhũng.

Hoặc như, chúng ta luôn yêu cầu việc cần thiết phải kê khai hằng năm tình hình thu
nhập và toàn bộ tài sản của cán bộ, viên chức, nhất là của những cán bộ có chức
quyền và của những người làm việc trong những lĩnh vực rất dễ xảy ra tiêu cực,
như đất đai, nhà ở, hợp tác đầu tư, tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, hải quan,
y tế, giáo dục đào tạo,…Thế nhưng, trên thực tế quy định này xem ra còn chưa
được thực hiện nghiêm túc, chưa thường xuyên và chưa có sự kiểm tra, kết luận về
tính trung thực của những bản kê khai đó. Trong khi đó đa số các nước đều có quy
định công chức phải kê khai tài sản, nhất là đối với số công chức giữ các cương vị
lãnh đạo, quản lý. Tại Trung Quốc, mỗi năm 2 lần công chức phải kê khai tài sản.
Cán bộ lãnh đạo phải kê khai rõ các khoản, như tiền tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu,
đồ dùng có giá trị trên 10.000 NDT, nếu khơng giải thích rõ ràng nguồn gốc thì tài
sản đó bị coi là phi pháp. Thái Lan cịn u cầu công chức sau khi thôi chức cũng
phải kê khai tài sản. Công chức nào không chứng minh được nguồn gốc tài sản thì
sẽ bị xử lý và bị đưa tin công khai trên các phương tiện truyền thông. Tại Ma-laixi-a, cơ quan đăng ký tài sản cơng chức có quyền sa thải cơng chức nếu cơng chức
khơng giải thích được nguồn gốc tài sản của mình. Luật Chống tham nhũng năm
1989 của Xin-ga-po cho phép toà án tịch thu bất cứ tài sản nào của công chức nếu
họ không giải thích được nguồn gốc tài sản đó.
Thứ ba, tính tích cực của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng chưa được
phát động thường xuyên.
Người dân còn chưa thực sự được hướng vào hoạt động này một cách có tổ chức
và có sự chỉ đạo chặt chẽ của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, bản thân đa số người
dân, do thiếu thơng tin, trình độ dân trí cịn hạn chế, chưa nhận thức thật đầy đủ vai


trị của mình trong việc xử lý các mối quan hệ xã hội với tư cách vừa là người chủ,
vừa là công dân.
Cũng phải thừa nhận một thực tế là cơ chế, chính sách, thậm chí cả luật pháp
khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng vẫn cịn nhiều hạn chế.
Điều đó cắt nghĩa cho việc giải thích tại sao tư tưởng “đấu tranh - tránh đâu” vẫn
cịn là điều khơng dễ vượt qua.

Thứ tư, vai trị của các cơ quan bảo vệ pháp luật, như công an, viện kiểm sát, tòa án
chưa được phát huy đầy đủ nhất.
Trên thực tế, những tiêu cực, hành vi tham nhũng lại hiện diện ở cả chính những cơ
quan này mà chưa được tích cực ngăn chặn, đẩy lùi càng làm hạn chế hiệu quả của
cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Những trường hợp thanh tra viên, điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán tòa án nhận hối lộ đã xuất hiện ở nhiều nơi. Khơng ít cán
bộ, cơng chức và người dân coi việc hối lộ cho công chức và việc công chức nhận
hối lộ khi giải quyết công việc là chuyện bình thường. Tình trạng tham nhũng
“vặt” và tham nhũng “nhỏ, lẻ”, mà nhiều người gọi là “chi phí khơng chính thức”
tuy thiệt hại khơng lớn, nhưng diễn ra một cách tràn lan ở nhiều nơi, khiến người
dân rất bức xúc.
Biện pháp ngăn ngừa
Qua phân tích một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng, đồng thời nếu
xét về đối tượng, thủ đoạn của hành vi tham nhũng, rõ ràng là nếu chống tham
nhũng bằng các biện pháp đơn lẻ thì ắt hẳn sẽ khơng hiệu quả.
Nó địi hỏi phải có sự kết hợp thống nhất, thực hiện đồng bộ giữa những biện pháp
mang tính cấp bách với những giải pháp mang tính chiến lược; giữa những biện
pháp mang tính trừng trị với những biện pháp mang tính ngăn ngừa trong sự huy
động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng. Một số
biện pháp đề xuất dưới đây không phải là quan trọng hơn những biện pháp khác,
nhưng theo chúng tôi, là cần thiết và phải được chú trọng thực hiện đồng thời cùng
những biện pháp hữu hiệu khác trong đấu tranh chống tham nhũng.
Một là, thực sự coi trọng biện pháp giáo dục đạo đức cách mạng.
Thực tế cho thấy, nhiều nước coi việc giáo dục đạo đức cho công chức và xây
dựng đội ngũ công chức trong sạch, liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để
hạn chế tham nhũng, làm cho công chức tự nhận thức rằng "không nên tham nhũng
". Một số nước ban hành luật về đạo đức của công chức (Thụy Điển, Đức, Hàn


Quốc, Ma-lai-xi-a,...). Trung Quốc đã ban hành các văn bản quy định về giáo dục

đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Chính phủ Xin-ga-po giáo dục đạo đức "tự răn mình" cho cơng chức ban hành
cuốn
Sổ
tay
hướng
dẫn
cơng
chức
của
Chính
phủ
...
Ở nước ta, để tiến tới mục tiêu xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh” thì phẩm chất đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư” càng phải được đặt lên hàng đầu trong hệ tiêu chuẩn chọn lựa và bố trí cán
bộ, nhất là đối với những cán bộ được bố trí vào những vị trí lãnh đạo chủ chốt.
Nếu người cán bộ lãnh đạo, quản lý nào đó cho rằng trong thời kỳ đổi mới hiện
nay chỉ cần tài năng, chuyên môn nghiệp vụ là đủ, còn vấn đề phẩm chất đạo đức
chỉ là “thứ yếu” thì người cán bộ đó hẳn đã qn lời dạy của Bác Hồ: “đạo đức là
cái gốc của người cách mạng”. Không giữ được sự trung thực, trong sạch, trách
nhiệm với cơng việc là điều hồn tồn xa lạ với tư cách của người đảng viên cộng
sản chân chính. Những cán bộ, đảng viên được nhân dân tín nhiệm trao cho nắm
giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy chính quyền, tuyệt đối khơng được biến
mình thành kẻ mê say quyền lực, giàu sang phú quý một cách bất chính. Lời Bác
dạy phải được coi là lời tuyên thệ mẫu mực của những người đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc; gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm về

những quyết định của mình.
Hai là, xét xử nghiêm minh, kịp thời và công khai với những mức hình phạt thích
đáng đối với các hành vi tham nhũng.
Các nước trên thế giới đều coi tham nhũng là tội phạm hình sự và quy định chế tài
nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm này nhằm làm cho công chức "không dám
tham nhũng". Trong bộ luật hình sự của hầu hết các nước đều có một chương riêng
quy định về tội tham nhũng, về những hành vi tham nhũng và mức hình phạt tương
xứng với những hành vi ấy. Một số nước có văn bản pháp luật riêng về chống tham
nhũng nhưng không phải là một đạo luật độc lập mà nó tồn tại song song bên cạnh
bộ luật hình sự. Theo Cơng ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc, tất cả tài
sản do tham nhũng đều bị tịch thu và xử lý như sau: trả về nước đã bị mất tài sản
để nước đó trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp hoặc sung cơng quỹ; dành một phần
chi cho các nỗ lực phịng, chống tham nhũng chung; chi một phần cho việc phát
hiện, thu giữ tài sản đó. Một số nước có Luật Sung công tài sản của người bị nghi
là tham nhũng nếu họ không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của tài sản đó,



Đương nhiên, nếu hành vi tham nhũng có mức độ vơ cùng nghiêm trọng thì khơng
chỉ xử bằng mức hình phạt kinh tế mà thậm chí phải xét xử với mức hình phạt cao
nhất. Nhìn lại lịch sử phong kiến Việt Nam, trong Bộ luật Hồng Đức được thực thi
cách đây hơn 5 thế kỷ dưới thời vua Lê Thánh Tơng có 26 điều (trong tổng số 722
điều của Bộ luật này) quy định khung hình phạt cụ thể đối với từng tội danh liên
quan đến hành vi tham ô, nhũng nhiễu. Chẳng hạn trong Điều 138 có ghi rằng,
quan tri làm sai phép ăn hối lộ từ 1 tới 9 quan thì phải tội biếm hay bãi; từ 10 tới 19
quan thì phải tội đồ hay lưu; từ 20 quan trở lên thì phải tội chém;… Hay trong
Điều 163 cũng ghi rõ rằng, quan tướng mà sách nhiễu tiền tài của dân thì bị biếm
ba bậc và bồi gấp đôi số tiền trả lại cho dân. Ngôn từ của những điều luật này tuy
cũ, song nội dung của nó, thiết nghĩ đến ngày nay vẫn có giá trị và cũng đáng để
chúng ta suy ngẫm về tính nghiêm minh của nó khi triển khai việc nghiên cứu bổ

sung, chỉnh sửa những văn bản pháp luật, như Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ
luật Hình sự,… sao cho thống nhất, đồng bộ.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng đã đưa ra những
nghị quyết về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, như gần đây nhất là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21-82006), Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng,
chống tham nhũng, lãng phí. Nhà nước đã ban hành Luật Phịng, chống tham
nhũng có hiệu lực thi hành từ ngày 1-6-2006. Chính phủ đã thơng qua Chiến lược
quốc gia về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đến năm 2020…
Ba là, cần thành lập một tòa án đặc biệt chống tham nhũng.
Tòa án này gồm những người thực sự trung thực, trong sạch, có bản lĩnh chính trị,
có kiến thức và kinh nghiệm chun mơn để xử lý nghiêm minh đối với các tội
phạm tham nhũng. Có một thực tế là, việc phát hiện ra kẻ tham nhũng lại chẳng
khó bằng việc xét xử nó. Bởi trên thực tế vẫn còn những nhận thức lệch lạc, những
lực cản trong việc xử lý, vẫn cịn có sự ‘can thiệp”, sự che chắn từ bên trên, bên
ngoài và ngay cả trong các cơ quan chức năng… Điều cơ bản để chấm dứt tình
trạng này là: Ai và ở đâu tham nhũng thì kẻ đó và nơi ấy phải bị xử lý theo pháp
luật. Thậm chí, người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tình trạng tham nhũng
của cấp dưới cũng phải chịu hình thức kỷ luật thích đáng.
Bốn là, phát huy vai trị tích cực của nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng.


Để phát huy vai trị tích cực của nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng, rất
nhiều nước quy định rõ trách nhiệm của mỗi người dân, của các tổ chức xã hội và
các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phòng, chống tham nhũng. Một số
nước thiết lập các đường dây nóng để thu nhận tin tức về tội phạm nói chung và
tham nhũng nói riêng (Cơ-lơm-bi-a, Bra-xin, Xin-ga-po...). Thái Lan, Xin-ga-po
yêu cầu các cơ quan chức năng phải xem xét tất cả đơn thư tố giác của người dân
về tham nhũng, dù có ký tên hay khơng ký tên …

Bác Hồ đã từng dạy rằng, làm việc gì cũng phải có quần chúng nhân dân tham gia.
Trong đấu tranh chống tham nhũng, nếu không dựa vào sự phát hiện của nhân dân
thì khó có thể “vạch mặt, chỉ tên” chính xác và kịp thời những “tham quan ô lại”
mới. Thật vậy, thực tế những năm qua cho thấy, đa số các vụ tham nhũng bị đưa ra
trước “vành móng ngựa” đều do người dân phát hiện ra. Nhân dân là người làm ra
mọi của cải xã hội, nhưng cuộc sống hiện tại cịn đang gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn. Trong khi đó, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên lại dùng chức quyền
và công vụ được giao phó, lợi dụng những sơ hở trong cơ chế, chính sách để đục
khoét tài sản của Nhà nước, làm xói mịn bản chất của Đảng, làm hoen ố bầu
khơng khí trong đời sống xã hội. Sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân chính là sức
mạnh và nhân tố quan trọng để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Để khơi dậy và
phát huy tính tích cực của nhân dân trong đấu tranh phịng, chống tham nhũng,
ngồi việc cần phải thực thi luật pháp nghiêm minh, phải kiên quyết trừng trị
những hành vi phạm pháp chống lại nhân dân, ngoài việc bản thân những cán bộ
lãnh đạo, quản lý, nhất là những cán bộ giữ những trọng trách cao trong bộ máy
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phải là những tấm gương mẫu mực trong đạo đức,
lối sống thì việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa dân chủ trong nhân dân phải
được coi trọng, được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc, nghĩa là “phải làm
sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm…”(5),
như Bác Hồ từng dạy chúng ta./.


Vấn đề 2: Đầu tư công kém hiệu quả
Nâng cao hiệu quả đầu tư công từ ngân sách nhà nước
Thực trạng phân cấp quản lý đầu tư cơng cịn nhiều bất cập, nên các dự án
đầu tư công do các địa phương quyết định thường thiếu cân đối với nguồn vốn
và bị dàn trải; khơng ít dự án chậm đưa vào sử dụng, chất lượng thấp, ảnh
hưởng đến hiệu quả đầu tư. Để khắc phục tình trạng trên, bài viết đưa ra một
số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước.
Phân cấp và quản lý đầu tư công từ ngân sách nhà nước

Đầu tư công từ ngân sách nhà nước (NSNN) là một trong 4 nguồn ở Việt Nam và
ln chiếm vai trị quan trọng, nhất là trong phát triển cơ sở hạ tầng, cả cấp quốc
gia và địa phương... Từ năm 2006, hầu hết dự án đầu tư công từ NSNN đã phân
cấp về địa phương quản lý, nên hiệu quả đầu tư công mang lại phụ thuộc rất lớn
vào
năng
lực

quyết
định
đầu

của
địa
phương.
Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, hiện nay, nếu tính cả khoản chi cho các chương trình
mục tiêu quốc gia, thì địa phương đang được hưởng khoảng 73% NSNN cho đầu
tư phát triển năm 2013, trong khi Trung ương chỉ giữ khoảng 27%. Vì vậy, việc
quyết định chi tiêu tại địa phương của HĐND các cấp là đặc biệt quan trọng, nhằm
tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế và ngân
sách cịn nhiều khó khăn.
Thực tế cho thấy, do nhu cầu và lợi ích cục bộ của địa phương, nên các dự án đầu
tư công do các địa phương quyết định thường thiếu cân đối với nguồn vốn và bị
dàn trải; thiếu kết nối với hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia, thông qua hệ thống giao
thơng cao tốc với chi phí cạnh tranh. Khơng ít dự án chậm đưa vào sử dụng, chất
lượng thấp, hạn chế hiệu quả của đầu tư công. Tình trạng tham nhũng, thất thốt và
lãng phí dưới mọi hình thức trong mọi dạng đầu tư cơng có nguy cơ khó kiểm sốt.
Các nhà thầu nước ngồi chiếm phần lớn các dự án đầu tư công, đẩy các nhà thầu
Việt Nam, dù có năng lực cũng thành nhà thầu phụ. Hiệu quả đầu tư công thấp,
thúc đẩy lạm phát cao, thâm hụt ngân sách lớn, nợ công tăng cao.

Đặc biệt, đầu tư công cho các dự án cơ sở hạ tầng giao thông chiếm tỷ trọng áp đảo
và lấn át các nguồn đầu tư khác. Các dự án BOT có tỷ lệ vay nợ cao và nhiều dự án
được Nhà nước bảo lãnh khiến các dự án này thực chất vẫn là đầu tư công (nhưng
chủ đầu tư sẽ quan tâm hưởng lợi ngay trong quá trình xây dựng, chứ không phải
là thu hồi vốn sau này và gánh nặng nợ vay khi gặp rủi ro thua lỗ thì Nhà nước vẫn


phải gánh chịu). Các quy định phân cấp hiện hành chưa phù hợp với thực tiễn của
mỗi khu vực, vùng lãnh thổ, chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa quản lý nhà nước
đối với đô thị và nông thôn. Các cơ quan chức năng còn lúng túng và chưa xác
định rõ trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân trong quy trình và thực tế
triển khai những nhiệm vụ đã được phân cấp, hoặc chỉ dừng lại ở việc phân cấp
nhiệm vụ; chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của
mỗi cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, tổ chức
cung cấp dịch vụ công, đại diện chủ sở hữu đối với các tổ chức kinh tế nhà nước và
tài sản nhà nước.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công từ ngân sách nhà nước
Để nâng cao hiệu quả đầu tư công trong thời gian tới, cần có sự phối hợp đồng bộ
từ tất cả các cấp, ngành thông qua các giải pháp sau:
Đổi mới định hướng đầu tư công
Theo “Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 2020, tổng đầu tư của nền kinh tế sẽ được duy trì ở tỷ lệ 30-35% GDP, Nhà nước
huy động vốn đầu tư với tỷ trọng 35 - 40% tổng đầu tư và 20 - 25% tổng chi ngân
sách được dành cho đầu tư phát triển.
Trong khi đó, theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, kế hoạch đầu tư từ NSNN 3 năm 2013
– 2015 phải được xây dựng trên cơ sở cân đối giữa các mục tiêu, nhu cầu đầu tư
với khả năng cân đối vốn đầu tư phát triển trong kế hoạch thu chi NSNN giai đoạn
2013 – 2015; khả năng cân đối các nguồn vốn khác của Nhà nước.
Trong điều kiện nguồn NSNN còn hạn hẹp, cân đối thu chi cịn nhiều khó khăn,
đầu tư NSNN chỉ tập trung đầu tư cho các cơng trình, dự án đã được bố trí vốn

NSNN, vốn trái phiếu chính phủ (cịn thiếu vốn), đang triển khai trong các kế
hoạch hàng năm để bảo đảm hoàn thành dứt điểm, đưa vào sử dụng phát huy hiệu
quả.
Đối với các dự án khởi công mới, chỉ bố trí vốn khởi cơng mới các dự án thật sự
cấp bách, cấp thiết khi xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp
ngân sách. Khơng bố trí vốn đầu tư từ NSNN cho các dự án không thuộc nhiệm vụ
chi đầu tư theo quy định của Luật NSNN. Thời gian tới, cần tập trung ưu tiên các
nguồn lực và ưu đãi thuế, tín dụng cho phát triển khu vực nông nghiệp, nông dân,


nông thôn, mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, nhà ở
xã hội, ký túc xá… phát triển sản phẩm cơng nghiệp có lợi thế cạnh tranh…
Rà sốt và hồn thiện cơ sở luật pháp về đầu tư công
Theo quy định, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cấp
ngành nào thì do cấp ngành đó quyết định. Cụ thể, Chính phủ lập, trình Quốc hội
quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; UBND cấp tỉnh lập,
trình HĐND cùng cấp quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn;
Khơng lệ thuộc vào nhóm A, B hoặc C, không áp dụng cơ chế ủy quyền của cấp
trên
cho
cấp
dưới.
Như vậy, chính quyền cấp tỉnh được quyền quyết định các dự án đầu tư từ ngân
sách địa phương và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng quản lý của địa phương; Chính phủ
điều hành đầu tư từ ngân sách trung ương do Quốc hội phê chuẩn. UBND cấp tỉnh
lập dự toán, điều chỉnh, phân bổ, quyết toán các dự án đầu tư từ ngân sách địa
phương trình HĐND cùng cấp phê duyệt. Căn cứ Nghị quyết của HĐND, UBND
cấp tỉnh quyết định một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu đầu tư ngân sách
trong trường hợp không trái quy định của pháp luật; quyết định một số loại, mức lệ

phí và các khoản đóng góp của chủ đầu tư và nhân dân phù hợp với đặc điểm, điều
kiện cụ thể của địa phương.
Cần rà sốt và bổ sung, hồn thiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch cơ sở hạ tầng theo hướng hình thành các tuyến và vùng phát triển liên hồn,
có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối với các chùm đơ thị, các khu cơng
nghiệp liên hồn, các trường đại học, các trung tâm thương mại...
Đẩy mạnh phối hợp phân cấp đầu tư với phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng:
Chính phủ thống nhất quản lý cơng tác quy hoạch trên phạm vi cả nước, bao gồm:
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch các cơng trình kết cấu hạ tầng quan trọng
có ý nghĩa chiến lược; quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng kinh tế; quy
hoạch chung xây dựng các đô thị (từ loại II trở lên); quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp, khu công nghệ cao. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả nước, của
ngành, của vùng kinh tế, chủ tịch UBND cấp tỉnh xây dựng các quy hoạch cấp địa


phương, bao gồm: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của các tiểu vùng
lãnh thổ thuộc tỉnh và của các đơn vị hành chính trực thuộc; quy hoạch cụ thể phát
triển ngành trên địa bàn; quy hoạch xây dựng các đô thị (từ loại III trở xuống),
nơng thơn của tỉnh trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, trước khi quyết định.
Để tăng vốn đầu tư cho địa phương, tiếp tục điều chỉnh lại các nguồn thu và tăng tỷ
lệ để lại cho địa phương theo hướng để các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đạt mức phát triển trung bình của cả nước tự cân đối được chi thường xuyên theo
định mức của Chính phủ.
Chính phủ thống nhất quản lý chiến lược, quy hoạch, thể chế, chính sách và thanh
tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; chỉ đạo các bộ, ngành tổ chức
cung ứng các dịch vụ công thiết yếu nhất, quan trọng trên phạm vi cả nước và
những dịch vụ công mà chính quyền địa phương khơng có khả năng, điều kiện thực
hiện.

Chính quyền cấp tỉnh quyết định: Quy hoạch mạng lưới tổ chức, quyết định thành
lập và quản lý các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công trên địa bàn như: giáo dục, y tế,
khoa học cơng nghệ, văn hố, thể dục thể thao, dịch vụ cơng ích vệ sinh, mơi
trường, nước sạch... và các dịch vụ phục vụ sản xuất (khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, khuyến công...); Các chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích
phát triển và đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công ở các lĩnh
vực giáo dục đào tạo, y tế, khoa học cơng nghệ, văn hóa, thể dục thể thao... để
phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân địa phương. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị sự nghiệp, dịch vụ cơng về kế hoạch, tài
chính, nhân lực, tổ chức, cán bộ.
Đặc biệt, cần sớm hoàn thiện và thực hiện Luật Đầu tư công, Luật Đô thị, Luật Bảo
vệ lợi ích và an ninh quốc gia, Bộ Tiêu chuẩn hóa quy trình tuyển chọn các chức
danh cán bộ quản lý nhà nước và một số luật định khác có liên quan tạo cơ sở pháp
lý đồng bộ và phù hợp cho quá trình tăng cường và thực hiện phân cấp đầu tư nói
riêng, phân cấp quản lý nhà nước nói chung…
Hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả và giám sát đầu tư cơng
Trước mắt, cần áp dụng phân tích đa tiêu chuẩn trong đánh giá hiệu quả đầu tư
công để xây dựng các bộ tiêu chí phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và
thơng qua các dự án đầu tư công. Cụ thể như, căn cứ theo lĩnh vực và yêu cầu, mục
tiêu kinh tê - xã hội, mơi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương,


ngành, đồng thời cần phân biệt rõ 2 loại mục tiêu và 2 loại tiêu chí đánh giá hiệu
quả đầu tư cơng - đầu tư vì lợi nhuận và đầu tư phi lợi nhuận.
Về dài hạn, cần chủ động giảm dần đầu tư cơng, tăng đầu tư ngồi NSNN trong
tổng đầu tư xã hội; Tái cơ cấu đầu tư công, tăng đầu tư phát triển các dịch vụ phục
vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản; khoa học và công nghệ, đào tạo và y
tế; tiết giảm việc cấp vốn ngân sách cho nhu cầu đầu tư của khối các tổng cơng ty;
Tập đồn nhà nước và chuyển trọng tâm đầu tư cơng ra ngồi lĩnh vực kinh tế, để
tập trung vào phát triển các lĩnh vực hạ tầng và xã hội. Đồng thời, mạnh tay cắt

những dự án đầu tư nếu khơng đạt các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội và chưa
bảo đảm các yêu cầu về thủ tục, tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hồn thành
trong hạn định và có hiệu quả cao; cắt giảm các cơng trình đầu tư cơng bằng nguồn
ngân sách có quy mơ q lớn, chưa thật cấp bách, có thời gian đầu tư dài. Khuyến
khích các chủ đầu tư huy động vốn ngoài ngân sách để đầu tư theo phương thức
chìa khóa trao tay, có đặt cọc bảo hành - bảo đảm chất lượng công trình.
Về dài hạn, cần giảm đầu tư cơng trong tổng đầu tư xã hội; cần khuyến khích các
chủ đầu tư huy động vốn ngoài ngân sách để đầu tư theo phương thức chìa khóa
trao tay, có đặt cọc bảo hành - bảo đảm chất lượng cơng trình.
Nâng cao trách nhiệm giải trình trong đầu tư cơng. Đồng thời, cơng khai các thơng
tin, quy trình, thủ tục, danh mục dự án vận động đầu tư, nâng cao hiệu quả cơ chế
một cửa, quy định rõ về chính sách và các ràng buộc, chế tài nếu nhà đầu tư không
thực hiện đúng cam kết. Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm
tốn các dự án đầu tư cơng. Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra
tài chính cần tăng cường cơng tác chun mơn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu,
so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết
xuất tốn các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng
tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất,
kể cả trách nhiệm đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận thanh tốn
khối lượng thiếu trung thực, khơng đúng quy định. Việc thanh toán vốn đầu tư phải
được tiến hành theo đúng quy trình và phương thức thanh tốn theo tiến độ thực
hiện. Làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân và thực hiện chế độ trách
nhiệm đối với thủ trưởng đơn vị trong quản lý đầu tư công.
Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng của dự án,
chấm dứt tình trạng giao cho người không đủ điều kiện năng lực và chuyên môn
nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án; phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và đề
xuất các biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh những sai phạm trong việc sử dụng


NSNN cho đầu tư cơng. Phải kiên quyết đình hỗn những dự án khơng hiệu quả,

khơng bố trí vốn những dự án không đủ thủ tục đầu tư, không phê duyệt dự án nếu
không xác định được nguồn vốn thực hiện cho việc đầu tư mới…


Vấn đề 3: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp yếu kém
Năng lực cạnh tranh là khả năng dành chiến thắng trong sự ganh đua giữa
các chủ thể trong cùng một môi trường và khi cùng quan tâm tới một đối tượng.
Trên giác độ kinh tế, năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau
như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm
2 - Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.1 Về vốn của doanh nghiệp
Đa phần các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng khơng đủ vốn
cần thiết, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như
năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Việc tiếp cận nguồn vốn
hạn chế gây ra tình trạng phổ biến là các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau,
làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp. Nói một cách khác nguồn lực tài
chính của các doanh nghiệp Việt nam nhỏ, yếu và bị động.
2.2 Về trình độ cơng nghệ
Sự lạc hậu về cơng nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp,
không ổn định và giá thành sản phẩm cao đã hạn chế khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Trong những năm qua, mặc dù nhiều doanh nghiệp đã đổi mới máy
móc thiết bị và cơng nghệ từ các nước công nghiệp phát triển nhưng tốc độ đổi mới
công nghệ, trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng
phát triển rõ rệt.
2.3 Về nhân lực trong các doanh nghiệp
Lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, tuy
nhiên, năng suất lao động chỉ ở mức thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong
lao động công nghiệp còn kém. Vấn đề được đặt ra là cần sớm khắc phục tình trạng
này để lao động Việt Nam được đào tạo lành nghề, có năng suất cao để lao động

thực sự trở thành một lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
2.4 Về năng lực quản lý và điều hành của doanh nghiệp


Đối với các doanh nghiệp Nhà nước việc phân cấp trên dưới, ngang dọc
chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cùng
quản lý, công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp
hoạt động. Cơ chế "bộ chủ quản", "cấp chủ quản" đang gây rất nhiều khó khăn cho
doanh nghiệp. Trong mỗi doanh nghiệp Nhà nước tổ chức quản lý cịn q cồng
kềnh so với doanh nghiệp ngồi Nhà nước, nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính
rườm rà chưa được sửa đổi đã làm cho doanh nghiệp không thể năng động, linh
hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn
chế trong tiếp cận với những kiến thức, phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt kinh
nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu tiếp cận với thị trường thế giới của
cán bộ còn thấp. Thiếu đội ngũ lao động có trình độ chun mơn cao. Biên chế bộ
máy quản lý cũng như số lượng lao động của doanh nghiệp Nhà nước cao hơn so
với doanh nghiệp ngoài Nhà nước cùng ngành nghề và quy mô.
2.5 Về hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
Công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế, nhiều thị trường tiềm năng
chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường
do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Chi phí thăm quan, khảo sát thị trường
nước ngồi rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn kém, hiệu quả khơng cao.
Thêm nữa khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thơng tin của cán bộ cịn yếu.
Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một
cách khoa học, còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng cơng nghệ thơng tin, cơng cụ
tốn học, thống kê trong nghiên cứu thị trường. Các thông tin sơ cấp về thị trường
khơng có đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh
doanh thụ động chủ yếu dưa vào kinh nghiệm của nhà quản lý.
2.6 Về chiến lược sản phẩm
Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đã

quan tâm đến chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp
Việt Nam có hàm lượng tri thức và công nghệ thấp, chủ yếu dựa vào lợi thế lao
động (như gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên. Ngồi một số ít sản phẩm mang
đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa như hàng thủ cơng mỹ nghệ, phần lớn các sản
phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có tính độc đáo, ln đi sau các nước


khác về kiểu dáng, tính năng, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản
phẩm thấp, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới. Việc xây dựng kế hoạch kinh doanh cũng như kế hoạch giá
thành của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động giá cả
nguyên liệu nhập khẩu, tỷ giá hối đoái... do nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ
trọng cao trong giá thành sản phẩm.
2.7 Về chiến lược phân phối.
Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mơ vừa và nhỏ là chủ yếu, hệ thống
kênh phân phối chưa được quan tâm đúng mức nên chưa thiết lập được hệ thống
kênh phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng, phần lớn vẫn
áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại do đó chưa
kiểm sốt được q trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm, chưa nắm bắt trực tiếp
những thông tin phản ánh tình hình thị trường từ khách hàng.
Về chiến lược quảng cáo: Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc in ấn
và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Chi phí dành cho quảng cáo
còn quá thấp, chỉ khoảng 1% doanh thu là quá nhỏ so với doanh nghiệp nước ngoài
như Coca Cola là 20% và Sony là l0%. Chất lượng quảng cáo còn kém do thiếu
chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn chủ
yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu.
Việc quảng cáo thông qua các Công ty quảng cáo ở nước ngồi hầu như
khơng được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng do chưa đủ khả năng tài chính.
2.8 Về đầu tư chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới

Đối với các doanh nghiệp tại các nước phát triển hiện nay, chi phí nghiên
cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm
đầu tư nghiên cứu các cơng nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất
lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại... Tuy nhiên, thực tế là
nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh, chưa chú ý đến công
tác nghiên cứu và phát triển nên chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên
cứu phát triển sản phẩm mới.


3 - Một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam
Căn cứ vào cơ sở lý thuyết và tình hình thực tế hiện nay về năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt nam, có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam theo thứ tự sắp xếp sau:
3.1 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện của nền kinh
tế. Phải tích cực liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp
nước ngoài, thậm chí sát nhập để trở thành các tập đồn kinh tế lớn nhằm hội tụ
được các lợi thế mà từng doanh nghiệp đã tích lũy được theo những con đường
khác nhau
3.2 Nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp và đào tạo đội ngũ doanh nhân. Đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực phải là nhiệm vụ cấp bách và nhiệm vụ chung của
cả doanh nghiệp và toàn xã hội. Ba khối kiến thức và kỹ năng cần qua tâm đào tạo
các nhà quản trị doanh nghiệp và doanh nhân Việt nam là: (i) kiến thức, kỹ năng
quản trị hiện đại và chuyên nghiệp; (ii) Ngoại ngữ, mà trước hết và trọng yếu là
tiếng Anh; (iii) tin học ứng dụng trong giao tiếp, thương mại và quản lý hệ thống
thông tin doanh nghiệp.
3.3 Xây dựng chiến lược cạnh tranh trên cơ sở lợi thế cạnh tranh xét ở trên giác
độ ngoại thương. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai cách; (i) Đẩy mạnh
chun mơn hóa sản phẩm mà các doanh nghiệp Việt nam có nhiều thế mạnh; (ii)
Liên doanh, liên kết nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngồi vào tất cả các lĩnh vực

Việt Nam có lợi thế cạnh tranh
3.4 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các nguồn lực hữu hình của doanh nghiệp.
Trong đó cần chú trọng trước hết đến hai nguồn lực chủ yếu sau: (i) Các doanh
nghiệp phải năng động, phải tăng chi phí đầu tư để có thơng tin thị trường và thơng
tin về đối thủ để có quyết sách đầu tư đúng đắn, qua đó mới có sức mạnh về sản
phẩm, về giá cả và quy mô để thắng thế trong cạnh tranh; (ii) Phải biết sử dụng
tiềm năng con người và xã hội Việt Nam. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh
nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho công nhân,
đồng thời giảm chi phí lương trong sản phẩm. Đặc biệt, cần có chiến lược thu hút
và sử dụng nhân tài làm việc trong công ty.
3.5 Tăng cường công tác thông tin. Các cơ quan chức năng của Chính phủ cần tăng
cường các hoạt động nghiên cứu, dự báo và phổ biến kịp thời, công khai các thông


tin kinh tế đến các DN và hiệp hội DN làm cơ sở để DN có thể nâng cao chất
lượng xây dựng và điều hành chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình. DN cần chủ
động trong việc điều chỉnh chiến lược và kế hoạch kinh doanh, đưa ra những biện
pháp tháo gỡ khó khăn cho chính mình như rà sốt lại và điều chỉnh đầu tư, đa
dạng hóa sản phẩm, phát huy tối đa công suất, tiết kiệm chi phí, đổi mới thiết bị,
tăng năng suất, áp dụng các biện pháp quản lý tiên tiến, đa dạng hóa các kênh huy
động vốn, đa dạng thị trường xuất khẩu, sử dụng các công cụ chống rủi ro, thương
lượng với đối tác để điều chỉnh tăng giá bán đối với các hợp đồng đã ký và hợp
đồng mới, tìm nguồn cung cấp mới, nguyên liệu thay thế rẻ hơn, chấp nhận giảm
lợi nhuận để giữ chân khách hàng...
3.6 Mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho DN
Các doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa cơ cấu vốn để khơng phụ thuộc
quá nhiều vào vốn vay ngân hàng. Mặt khác, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong
việc tăng cường nguồn lực cho các ngân hàng và cải thiện khả năng tiếp cận tín
dụng cho doanh nghiệp thơng qua việc hỗ trợ doanh nghiệp về lãi suất, bảo lãnh tín
dụng và năng lực xây dựng phương án kinh doanh....



Vấn đề 4: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả
Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng ta xác định, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế; thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế; cung
cấp sản phẩm dịch vụ trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và các sản phẩm
dịch vụ thiết yếu cho xã hội mà thị trường không bảo đảm cung ứng; đầu tư
vào những ngành mang tính chất mở đường mà các thành phần kinh tế khác
không làm được, hoặc làm không hiệu quả; đầu tư vào những địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa...
Chủ trương đổi mới DNNN của Đảng được đề ra từ Hội nghị Trung ương 3 khóa
VI và liên tục được nhấn mạnh tại các kỳ đại hội. Nhằm tập trung cổ phần hóa để
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, Hội nghị Trung ương 3 khóa IX đã ra
Nghị quyết số 05 - NQ/TW, ngày 24- 9- 2001 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Hội nghị Trung ương 9 khóa
IX chủ trương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh
tranh của khu vực DNNN. Hội nghị nhấn mạnh: “Kiên quyết đẩy nhanh tiến độ cổ
phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa kể cả
những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả…” (1).
Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg, ngày 21-4-1998 về đẩy mạnh sắp xếp
và đổi mới doanh nghiệp nhà nước; Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, thay thế Nghị định 44/1998/NĐCP; ra Quyết định số 50/2002/QĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại
doanh nghiệp nhà nước... Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước,việc cổ phần
hóa DNNN được đẩy mạnh trên phạm vi cả nước, bước đầu đạt được những kết



quả tích cực. DNNN nói chung giảm dần về số lượng, đa dạng hóa hình thức và
mơ hình quản lý.
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương:
Năm 1990, cả nước có hơn 12 nghìn DNNN, đến năm 2011 cịn 1.309 DNNN, với
số vốn chủ sở hữu (tính đến cuối năm 2010) khoảng 700 nghìn tỷ đồng. Tỷ trọng
DNNN địa phương quản lý trong tổng số doanh nghiệp hiện có của địa phương đã
giảm nhanh từ 1,62%/năm 2008 xuống còn 0,71%/năm 2011. Số lao động của các
DNNN do địa phương quản lý giảm từ 20%/năm 2009 xuống còn 12% năm
2011(2). Ở khu vực DNNN do Trung ương quản lý cũng giảm với tốc độ tương ứng
do q trình cổ phần hóa và sắp xếp lại các DNNN. Tuy số lượng DNNN giảm dần
nhưng đóng góp của khu vực này trong nền kinh tế Việt Nam vẫn rất lớn.
Cổ phần hóa đã góp phần thu hút một lượng vốn tương đối lớn từ các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ,
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đã giúp DNNN xác định rõ hơn địa vị pháp lý,
mở rộng quyền tự chủ, tăng quyền hạn và trách nhiệm của bộ máy quản lý, điều
hành. Quyền tự chủ của DNNN đã thay đổi đáng kể so với trước. Chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý, điều hành đã mở rộng, bao gồm toàn
bộ quyền điều hành kinh doanh và hầu hết quyền quản lý kinh doanh, định hướng
chiến lược, kế hoạch dài hạn, trung hạn, hàng năm... và một phần quyền của sở hữu
nhà nước.
Việc chuyển DNNN sang hoạt động theo hình thức cơng ty mẹ - cơng ty con và
hình thành tập đoàn kinh tế đã tạo ra bước phát triển quan trọng cho nền kinh tế.
Tính đến cuối năm 2010, cả nước có tới 120 DNNN hoạt động theo mơ hình cơng
ty mẹ - cơng ty con, bao gồm cả 12 tập đồn kinh tế. Đây là những doanh nghiệp
có quy mô lớn và vừa, phát huy lợi thế kinh tế nhờ quy mơ và có điều kiện thuận
lợi để đổi mới công nghệ. Đồng thời, cũng tạo ra mối liên kết hợp tác kinh doanh
giữa các doanh nghiệp thành viên với nhau và với công ty mẹ - công ty con trên
quan hệ bình đẳng, vừa chịu trách nhiệm vừa chia sẻ thành quả hoạt động, tạo nên
hiệu quả kinh doanh cao hơn.

Về cơ bản, vốn nhà nước đầu tư vào các DNNN được bảo toàn và phát triển; tỷ lệ
nợ phải trả/vốn chủ sở hữu tại đại đa số tập đồn, tổng cơng ty vẫn nằm trong giới
hạn cho phép. Quy mô của các DNNN về vốn, lao động, tài sản cố định, cơ sở vật
chất kỹ thuật... đều cao hơn khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Hiệu quả hoạt
động, năng lực cạnh tranh của DNNN được nâng lên; cơ bản đáp ứng được nhu


cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh; DNNN là một trong những công cụ quan
trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mơ.
Có được những kết quả trên, trước hết là do sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của
Chính phủ, sự phối hợp chỉ đạo, quản lý của các bộ, ngành địa phương và chính
quyền các cấp, sự nỗ lực của bản thân các DNNN và sự đầu tư nguồn lực của Nhà
nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong q trình phát triển, DNNN cịn bộc lộ
nhiều yếu kém:
Tốc độ cổ phần hóa chậm và lượng vốn Nhà nước nắm giữ trong các DNNN còn
khá cao, từ năm 2006 - 2010, kế hoạch cổ phần hóa chỉ thực hiện được 20% 25%(3).
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp để xác định loại doanh nghiệp nào cần giữ lại
100% vốn nhà nước, chủ yếu chỉ dựa trên các ngành sản xuất kinh doanh, trong khi
các doanh nghiệp lại kinh doanh đa ngành nên rất khó xác định rõ ràng. Điều đó đã
làm chậm q trình cổ phần hóa DNNN.
Mặc dù được hưởng nhiều ưu đãi về cơ chế, chính sách, đặc biệt là vốn; được
hưởng sự độc quyền trên một số lĩnh vực, nhưng đóng góp của khu vực DNNN
cho nền kinh tế cịn hạn chế. Đóng góp vào tăng trưởng GDP từ mức 33% trong
giai đoạn 2001-2005 đã giảm chỉ còn 19% trong giai đoạn 2006-2010, trong khi đó
đóng góp của khu vực doanh nghiệp dân doanh tăng từ 45% lên 54% trong cùng
thời kỳ. Tỷ lệ đóng góp của khu vực DNNN cho ngân sách quốc gia (ngồi dầu
mỏ) trung bình chưa tới 20% và ngày càng giảm.
Tỷ lệ tạo việc làm mới cũng giảm từ -4% trong giai đoạn 2006 - 2009 xuống -13%
năm 2011. Như vậy, DNNN không những không tạo ra việc làm mới mà cịn cắt

giảm lao động, nhất là trong q trình cổ phần hóa DNNN hiện nay, việc cắt giảm
lao động là khó tránh khỏi.
Nhiều tập đồn, tổng cơng ty nhà nước đầu tư ngoài ngành với số lượng vốn lớn,
thua lỗ nặng, làm cho hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thấp. Theo Báo cáo
của Bộ Kế hoạch và đầu tư về hiệu quả sử dụng tổng hợp của vốn đầu tư phát triển
(ICOR) của Việt Nam thời kỳ tăng trưởng nhanh (2001 - 2008) là 5,26; so với
Trung Quốc (thời kỳ 1991-2003) là 4,1; Nhật Bản (1961-1970) là 3,2; Hàn Quốc
(1981-1990) là 3,2; Đài Loan (1981-1990) là 2,7.


Việc chuyển sang mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con và tập đồn kinh tế cịn có
những bất cập. Các tập đồn kinh tế, cơng ty mẹ - công ty con được thành lập chủ
yếu bằng các quyết định hành chính, do đó, chưa có sức mạnh thực sự về tài chính
và mối liên kết. Quản trị doanh nghiệp tại các tập đồn kinh tế, cơng ty mẹ chưa có
những thay đổi cần thiết, thơng tin chưa cơng khai, minh bạch. Việc mở rộng kinh
doanh đa ngành không thuộc lĩnh vực chính của các tập đồn kinh tế có nguy cơ
dẫn đến rủi ro, tác động xấu đến nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN ở nước ta hiện nay, cần tập
trung thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, quán triệt thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi
mới, nâng cao hiệu quả DNNN đã được xác định trong các nghị quyết của Đảng,
chính sách của Nhà nước.
Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm
giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm cổ phần chi phối. Nhà nước giữ cổ phần chi
phối đối với tập đồn, tổng cơng ty nhà nước ở những lĩnh vực thiết yếu để can
thiệp khi có những biến động lớn của thị trường nhằm giữ ổn định cho nền kinh tế.
Thứ hai, đổi mới cơ chế giám sát đối với DNNN. Bản thân DNNN là một thực thể
đa mục đích, do đó, việc giám sát DNNN phải theo hướng đa mục đích, khơng thể
đơn thuần chỉ chú ý đến mục đích tài chính thuần túy. Khi xác định được mục tiêu
giám sát, sẽ xác định được các yếu tố cịn lại như hình thức, phương pháp và cơ

chế giám sát.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế quản lý và đổi mới cơ chế đào tạo, sử dụng cán bộ của
DNNN. Hoàn thiện cơ chế quản lý DNNN trên cơ sở thực hiện quyền và trách
nhiệm chủ sở hữu nhà nước đối với vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, bảo
đảm công khai, minh bạch về tài chính. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm tốn bắt
buộc đối với các tập đồn, tổng cơng ty, công ty nhà nước.
Thứ tư, đổi mới cơ chế sử dụng cán bộ. Áp dụng rộng rãi cơ chế thuê và tuyển
chọn giám đốc. Mạnh dạn chọn giám đốc là người nước ngồi, nếu thực sự cần
thiết và có hiệu quả. Đổi mới công tác luân chuyển, sắp xếp bố trí sử dụng nhân
lực trong nội bộ các doanh nghiệp. Đây là giải pháp chuyển dịch nhân lực từ các
đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp để người lao động học hỏi kinh nghiệm làm việc,
tạo sự năng động và linh hoạt trong cơng việc. Đổi mới chính sách tiền lương và
thu nhập, đánh giá đúng và trả lương theo kết quả lao động, nhất là đội ngũ lao
động trình độ cao.


Thứ năm, nâng cao sức cạnh tranh cho các DNNN. Phải đặt DNNN vào môi
trường cạnh tranh; cần tách biệt vai trò của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu với
tư cách quản lý, điều tiết. Việc tách bạch này sẽ tạo áp lực buộc các DNNN phải
ứng xử theo cơ chế thị trường.
Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh. Để tạo
lượng vốn cần thiết, đủ mạnh, các DNNN cần phải tích cực huy động vốn từ nhiều
nguồn như từ nguồn ngân sách, từ ngân hàng, từ nội bộ và từ các nguồn khác.
Nâng cao chất lượng công nghệ cho các DNNN theo hướng nâng cao năng lực, đổi
mới cơ chế quản lý kỹ thuật - công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, cải
tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới, sử dụng hợp lý và làm chủ công nghệ
mũi nhọn để sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cơng nghệ cao.

Vấn đề 5: năng suất lao động xã hội thấp
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH

NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu đo lường số lượng sản phẩm hoặc giá trị
sản phẩm mà một người lao động thực hiện trong một đơn vị thời gian (giờ, ngày,
tháng…). NSLĐ là yếu tố quyết định đến mức thu nhập và mức sống của người lao
động.
Thực tế hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam rất thấp chỉ bằng 1/18 năng
suất lao động của Singapore, bằng 1/6,5 Malaysia, 1/3 Thái Lan và Trung Quốc.
Trong khu vực ASEAN, hiện tại năng suất lao động Việt Nam chỉ cao hơn
Myanmar, Camphuchia và đang xấp xỉ với Lào. Trong khn khổ bài viết này, tơi
xin trình bày một số nhân tố ảnh hưởng đến Năng suất lao động của Việt Nam,


trong đó tập trung vào hai yếu tố quan trọng đó là cơ cấu lao động và kỹ năng lao
động.
I. Những nhân tố ảnh hưởng đến Năng suất lao động
Những nhân tố ảnh hưởng đến Năng suất lao động, theo giáo trình giảng dạy của
Trường Đại học kinh tế quốc dân bao gồm: các nhân tố về con người; về tổ chức
lao động và môi trường
1. Các nhân tố gắn với bản thân người lao động
– Trình độ văn hố;
– Trình độ chun mơn;
– Tình trạng sức khoẻ;
– Thái độ lao động ;
– Kỷ luật lao động;
– Cường độ lao động;
– Tinh thần trách nhiệm;
– Sự gắn bó với doanh nghiệp;
2. Các nhân tố gắn với tổ chức lao động
– Phân công lao động;
– Tiền lương, tiền thưởng ;

– Tổ chức phục vụ nơi làm việc;
– Thái độ cư xử của người lãnh đạo.
– Bầu khơng khí làm việc của tập thể
3. Các yếu tố thuộc về môi trường lao động
– Môi trường tự nhiên
– Điều kiện lao động
Trong các nhân tố kể trên, chất lượng nguồn nhân lực và tác phong, ý thức làm
việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động, vì việc kết
hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ. Trình độ lành nghề và tác phong, ý thức làm việc của người lao
động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng
những yêu cầu về số lượng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tính chun
nghiệp cao. Người lao động có trình độ nghề nghiệp, khơng những cần có kỹ năng
lao động mà cịn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất, kết hợp với tác phong, ý
thức làm việc thì mới đẩy mạnh năng suất lao động. Thực tế cho thấy chỉ khi nào
người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp
cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến, hiện đại vào việc làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng, năng
suất cao.


×