Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

PHÁT TRIỂN bền VỮNG NÔNG NGHIỆP TỈNH KONTOM TRIỂN VỌNG và THÁCH THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.96 KB, 15 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 4(27).2008

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
TỈNH KONTUM: TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC
SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF AGRICULTURE IN KONTUM
PROVINCE – PROSPECTS AND CHALLENGES
HÀ BAN
Ủy ban Nhân dân tỉnh Kom Tum
TÓM TẮT
Kon Tum là tỉnh miền núi, có đường biên giới với hai nước bạn Lào và Campuchia.
Đồng bào các dân tộc ít người chiếm khoảng 54% dân số. Kinh tế dựa vào sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu. Những năm qua, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã đạt được
những kết quả khả quan; năng suất và sản lượng nông, lâm sản tăng cao; đời sống
người nông dân ngày càng được cải thiện... Tuy nhiên, so với tiềm năng và nhu cầu thì
kết quả thu được vẫn còn hạn chế. Để tiếp tục phát triển lĩnh vực quan trọng này, tỉnh
đã đề ra những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm xây dựng nền nông nghiệp theo
hướng bền vững.
ABSTRACT
Situated on the Highlands, KonTum has the same borders with Laos and Cambodia.
Most of its people are ethnic minorites which make up 54% of the total population.
Kontum’s economy is largely based on agriculture. In the past several years, its
agricultural production has shown some good results -- agro-forestry output and
productivity have increased; farmers’ standards of living have been gradually
improved…However, the achievements recorded are still limited in comparison with its
potentials and requirements,. To continue in this important development, the Provincial
People’s Committee has put forward some specific orientations and solutions so as to
initiate a sustainable agricultural development.

1. Đặt vấn đề
Kon Tum là tỉnh miền núi, vùng cao Nam Trung Bộ, có đường biên giới với nước
bạn Lào và Campuchia, có cửa khẩu quốc tế Bờ-Y là điều kiện để mở rộng quan hệ kinh


tế, xã hội và giao lưu với các nước trong khu vực, có vị trí hết sức quan trọng về an ninh
quốc phòng. Địa hình của tỉnh đa phần là cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau khá phức
tạp, tạo ra những cảnh quan phong phú. Khí hậu có nét chung của khí hậu vùng nhiệt đới
gió mùa, hình thành mùa khô và mùa mưa rõ nét. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là
967.656 hecta, có 7 nhóm đất chính với 26 đơn vị phân loại, trong đó nhóm đất xám
chiếm 93,44% diện tích tự nhiên, có tầng dày không đều, nhiều vùng có tầng dày canh tác
rất phù hợp với các loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Hiện có khoảng trên 200.000
hecta đất đồi núi chưa được khai thác, là tiềm năng để phát triển lâm - nông nghiệp. Cùng
với tài nguyên rừng, khoáng sản, tiềm năng về du lịch cũng là lợi thế của tỉnh. Kon Tum
là tỉnh miền núi, biên giới, đồng bào các dân tộc ít người chiếm khoảng 54% dân số của
tỉnh, sản xuất nông nghiệp giữ vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng chủ yếu đối với phát
triển kinh tế của địa phương. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp của tỉnh đã có
91


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 4(27).2008

những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng thì còn nhiều hạn chế, vì
vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế là cần thiết để từ
đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát triển bền vững.
2. Thành tựu, triển vọng
Công cuộc đổi mới trong thời gian qua ở tỉnh Kon Tum đã đem những kết quả
trên nhiều mặt: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng và sự tăng trưởng kinh tế vẫn
duy trì được tốc độ cao; một số loại cây trồng, vật nuôi được phát triển phù hợp với điều
kiện sinh thái, thổ nhưỡng của từng vùng và có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định.
Tỉnh đã đưa vào thử nghiệm một số loại giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao,
chất lượng tốt, làm đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp; thực hiện có kết quả các
chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Diện
tích lúa nước hai vụ cuối năm 2006 tăng gần 2 lần so với năm 2001. Chương trình trồng
mới 5 triệu hec ta rừng nguyên liệu giấy, giao khoán quản lý, bảo vệ rừng được quan

tâm đã góp phần nâng cao độ che phủ của rừng trên địa bàn tỉnh lên đạt 65,4% (năm
2006). Nông, lâm sản của tỉnh Kon Tum cũng khá đa dạng, sản lượng tương đối lớn.
Tỉnh đã đề ra mục tiêu đến năm 2010, diện tích cà phê đạt 20.000 ha (cà phê chè là
6.000 ha, cà phê vối (14.000 ha), sản lượng khoảng 30.000 tấn. Cây cao su cũng là thế
mạnh của tỉnh, phấn đấu đến năm 2010 đạt 35.000 ha, năng suất mủ khô đạt 15 tạ/ha
(năm 2006 đạt 23.000 ha, năng suất mủ 9,8 tạ/ha). Ngoài ra, hoa màu (ngô, sắn,...) có
sản lượng lớn, đáp ứng đủ công suất các nhà máy chế biến hiện có trên địa bàn.
3. Những thách thức
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh 967.656 hecta, nhưng có tới hơn 1/4 diện tích đã
bị thoái hoá, cần được cải tạo. Đất có độ dốc từ 150 đến trên 250 là 523.076 ha, chiếm
54,06%; diện tích đất nông nghiệp và khả năng nông nghiệp chỉ chiếm 16,44% diện tích
tự nhiên, địa hình bị chia cắt, độ dốc tương đối lớn, dễ bị xói mòn, rửa trôi, mất đất, sa
mạc hoá nếu kỹ thuật canh tác không hợp lý.
Nguy cơ thiếu nước đang đe doạ nhiều vùng trong tỉnh, bình quân lượng nước
trên đầu người ở tỉnh Kon Tum thấp hơn so với cả nước. Kinh tế phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, thiếu vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo
còn cao so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên. Công tác quy hoạch và chỉ đạo thực
hiện còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được lợi thế của tài nguyên đất, nước, khí hậu.
Sản lượng cà phê tương đối lớn (chủ yếu cà phê vối), nhưng chất lượng cà phê nhân
không cao do khi thu hoạch không được phân loại, khả năng chế biến còn hạn chế. Sản
xuất nông nghiệp của nhân dân vùng sâu, vùng xa còn phổ biến là quảng canh và du
canh. Công nghệ chế biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch còn lạc hậu, chất lượng
nông sản thấp. Việc điều tra, nghiên cứu, đánh giá về các giống cây trồng, vật nuôi bản
địa chưa được tiến hành một cách đầy đủ để từ đó có hướng lưu giữ và phát triển. Tình
trạng bóc lột tài nguyên đất và trong lòng đất, rừng và động, thực vật rừng đã và đang
làm lãng phí nguồn tài nguyên quý hiếm không thể tái tạo được.
4. Định hướng phát triển bền vững nông nghiệp
92



TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 4(27).2008

Quá trình xây dựng chiến lược phát triển bền vững nông nghiệp ở tỉnh Kon
Tum, cần phải chú ý: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói giảm nghèo; kế hoạch hóa
gia đình và nâng cao chất lượng dân số; phân bố lao động và dân cư hợp lý; nâng cao
nhận thức của người dân về phát triển bền vững nông nghiệp, về bảo vệ môi trường, bảo
tồn đa dạng sinh học...
Để phát triển bền vững nông nghiệp tỉnh Kon Tum trong những năm tới cần
hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu:
(1) Làm tốt công tác chuyển giao kỹ thuật tiến bộ tới hộ nông dân, đặc biệt các
thành tựu về công nghệ sinh học;
(2) Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi để phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn;
(3) Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
Dưới đây là những chỉ tiêu cụ thể:
Nhóm cây ngắn ngày: Tập trung phát triển lúa nước, hạn chế lúa rẫy, trên cơ sở
kiên cố hóa kênh mương, tu sửa và xây dựng mới một số công trình thủy lợi. Đẩy nhanh
tiến độ khai hoang, xây dựng đồng ruộng. Tập trung xác định cho được bộ giống tốt cho
từng tiểu vùng sinh thái, từng mùa vụ; đầu tư thâm canh theo đúng quy trình kỹ thuật
của từng giống và nhóm giống. Thay thế dần giống ngô địa phương bằng giống ngô lai
ở những nơi có điều kiện thâm canh, đẩy mạnh trồng xen ngô với cây họ đậu. Giữ ổn
định diện tích sắn vào khoảng 18.000-20.000 héc ta, sản lượng đạt khoảng 400 đến 450
ngàn tấn, đáp ứng đủ nguyên liệu cho 3 nhà máy của tỉnh, không mở rộng thêm nhà
máy chế biến tinh bột sắn. Đối với cây mía, đưa các giống mới có năng suất cao vào sản
xuất, đẩy mạnh công tác khuyến nông, xây dựng vùng chuyên canh, đảm bảo sản lượng
đạt 300 ngàn tấn /năm. Phát triển cây đậu tương trên địa bàn thị xã Kon Tum, huyện
Đắc Hà, Đắc Tô, Sa Thầy, Ngọc Hồi, đưa vào trồng xen với cây cao su, cà phê trong
thời kỳ kiến thiết cơ bản; phấn đấu đến năm 2010, diện tích trồng đậu tương toàn tỉnh
khoảng 5.000 ha.

Đối với cây công nghiệp dài ngày: Mở rộng diện tích cây cao su, thông qua các
doanh nghiệp và các nông trường quân đội, phát triển cao su tiểu điền và hộ gia đình;
đưa diện tích cao su lên đạt 35.000 ha vào năm 2010, năng suất mủ bình quân đạt 12 tạ
/ha. Đối với cây cà phê, ổn định diện tích cà phê vối, tăng diện tích cà phê chè ở những
vùng có độ cao trên 1.000 mét, tập trung thâm canh để nâng cao năng suất. Mở rộng
diện tích khoanh nuôi bảo vệ và phát triển vùng sâm và dược liệu Ngọc Linh, huyện
TuMơRông, ĐakGlei.
Về chăn nuôi: Tận dụng trên 300 ngàn hécta đất đồng cỏ, phát triển chăn nuôi bò
lai. Kết hợp phát triển chăn nuôi trang trại và chăn nuôi bò tại các hộ gia đình, từng
bước đưa giống bò lai thay dần giống địa phương.
Về lâm nghiệp: Phát triển cây nguyên liệu giấy, đến năm 2010 đạt 64.000 ha
(năm 2006 đạt 32.000 ha), tăng cường năng lực quản lý, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng
phòng hộ xung yếu trên các đầu nguồn lưu vực sông Sê San, ĐakBla, ĐakPôcô, Sa
93


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 4(27).2008

Thầy… Phấn đấu đến năm 2010, độ che phủ của rừng toàn tỉnh đạt trên 67%, năm 2020
đạt trên 70%, giảm diện tích đất trống đồi núi trọc.
Về thủy sản: Tận dụng diện tích mặt nước hồ chứa, phát triển nhanh các mô hình
nuôi cá nước ngọt có hiệu quả đến từng hộ gia đình trong khu vực lòng hồ thuỷ điện
GiaLy, PleiKrông nhằm tạo việc làm, cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo cho vùng
đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
5. Giải pháp
Để thực hiện những định hướng phát triển bền vững nói trên, ngành nông nghiệp
của tỉnh cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
(1) Tiếp tục điều tra cơ bản bổ sung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, kinh tế - xã hội; xây dựng phương án sử dụng đất theo quan điểm phát triển bền
vững.

(2) Tăng cường chuyển giao, ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng
suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; phát triển công nghiệp chế biến nông sản và bảo vệ
môi trường sinh thái; nâng cao chất lượng công tác xóa đói, giảm nghèo; đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
(3) Đổi mới công nghệ, tập trung vào công nghệ chế biến, bảo quản nông sản,
công nghệ sau thu hoạch. Từng bước cơ giới hóa trong các khâu như làm đất, thủy lợi,
vận chuyển, chế biến nông, lâm sản...
(4) Tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành, các cơ quan khoa học ở Trung ương
để xây dựng và triển khai các dự án về khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh. Đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ khoa học và công nghệ sinh học nói
riêng.
(5) Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và dịch vụ khoa học, công nghệ;
mở rộng mạng lưới tư vấn, tuyên truyền, phổ cập kiến thức khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến công, đáp ứng yêu cầu triển khai các hoạt động khoa học, công nghệ phục vụ
sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống.
6. Kết luận
Để phát triển bền vững nông nghiệp ở tỉnh Kon Tum, cần phải lưu tâm những
đặc điểm mang tính chất đặc thù sau đây:
(1) Diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 16,44 % diện tích tự nhiên, ít và xấu so
với các tỉnh Tây Nguyên (159.145 ha/967.656 ha). Hệ số bình quân sử dụng đất nông
nghiệp thấp so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên. Độ dốc 15 - > 25o là 523.076 ha
(54,06 %), địa hình bị chia cắt, độ dốc lớn, dễ bị xói mòn, rửa trôi, mất đất nếu kỹ thuật
canh tác không hợp lý.
(2) Nông nghiệp phát triển theo chiều rộng, nhưng chưa đủ rộng, khoảng 80 %
diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng (128.405 ha/159.145 ha); diện tích đồi núi chưa
có rừng chiếm 21 % diện tích tự nhiên (204.014/967.656 ha).
(3) Sản xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc thiểu số còn phổ biến là quảng
canh và du canh, chưa thâm canh và áp dụng giống mới, kỹ thuật canh tác mới. Quá
94



TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 4(27).2008

trình cơ giới hoá nông nghiệp và áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiến tiến diễn
ra chậm chạp. Hầu hết các khâu sản xuất nông nghiệp đều làm bằng thủ công, năng suất
lao động trong nông nghiệp và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích thấp. Công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm sản còn yếu kém.
(4) Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng diễn ra với tốc độ nhanh đã làm thay đổi cả
phương thức sử dụng tài nguyên đất, nước, rừng trên quy mô lớn. Cùng với những thiếu
sót chủ quan trong công tác quy hoạch và chỉ đạo thực hiện chưa tốt nên chưa phát huy
được lợi thế về tài nguyên đất, nước, rừng.
(5) Giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn hiện nay (đói nghèo,
giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, phong tuc tập quán...) liên quan đến phát
triển bền vững nông nghiệp đòi hỏi phải có thời gian, phải đặt trong tổng thể giải quyết
các vấn đề của đất nước, của tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Thực tế hiện nay là nông dân dân tộc thiểu số trong tỉnh còn quá nghèo, ít được
hưởng phúc lợi xã hội, bảo hiểm thiệt hại do thiên tai và thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quyết định số 2503/QĐ/BNN-KL ngày
27-8-2007 về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2006.
[2] Nghị quyết số 43/NQ-CP/2007 của Chính phủ, Về việc điều chỉnh quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất (2005-2006) tỉnh Kon Tum.
[3] Uỷ ban dân tộc (2006), Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt
Nam, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
[4] UBND tỉnh Kon Tum, Quyết định số 607/QĐ-UBND ngày 27-6-2007, Về điều
chỉnh quy hoạch phát triển một số cây hàng hóa chủ yếu trên địa bàn tỉnh Kon Tum
2010 – 2015, Quyết định số 46/2007/QĐ-UBND ngày 10-9-2007, Về rà soát quy
hoạch 3 loại rừng.
[5] Trần An Phong và các cộng sự, Đánh giá đất phục vụ quy hoạch sử dụng đất và

phát triển nông nghiệp bền vững ở Tây Nguyên, Hà Nội, (12-2002).

95


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

VÀI SUY NGHĨ VỀ QUY ĐỊNH MANG THAI HỘ
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Huỳnh Thị Trúc Giang1
1

Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ

Thông tin chung:
Ngày nhận: 14/07/2015
Ngày chấp nhận: 29/10/2015

Title:
Some thoughts on surrogacy
in Law of Marriage and
Family in 2014
Từ khóa:
Mang thai hộ, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014
Keywords:
Surrogacy, Law of Marriage
and Family in 2014


ABSTRACT
Surrogacy is a first time recorded provision in the Law of Marriage and
Family in 2014 which took effect from 01/01/2015 (hereunder referred to
as the Law). This is a humane provision because it helped legally the
infertile and childless couples by using assisted reproductive methods.
Surrogacy is a complex matter which exists many destabilizing factors in
family and society lives. However, the contents of the Law were prescribed
generally which made some provisions different interpretations. Therefore,
this article focused on clarifying some provisions regarding surrogacy in
the Lawand showing as well some unreasonable points. Then, some
improving solutions were proposed to meet the needs of the Law’s
practical application.
TÓM TẮT
Mang thai hộ là một quy định được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014. Đây là quy định mang tính nhân văn vì đã mở
cánh cửa pháp lý cho những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn và không
thể sinh con bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản. Mang thai hộ một vấn
đề phức tạp, tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định trong đời sống của gia
đình và xã hội. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định
về nội dung này còn khái quát, một số quy định gây ra nhiều cách hiểu
khác nhau. Chính vì vậy, bài viết này sẽ tập trung làm rõ một số quy định
về việc mang thai hộ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, song
song đó sẽ chỉ ra những điểm còn chưa hợp lý. Từ đó kiến nghị một số giải
pháp để hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu áp dụng thực tiễn khi Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành.
5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng có
quy định “nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích
thương mại”. Như vậy, có thể thấy Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 chỉ cấm mang thai hộ vì mục

đích thương mại chứ không cấm mang thai hộ dưới
mọi hình thức. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu chỉ
dựa vào hai khái niệm được quy định tại khoản 22
và khoản 23 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 sẽ khó phân biệt rạch ròi đâu là mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo để được thực hiện và

1 VỀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC MANG
THAI HỘ
Trước đây tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số
12/2003/NĐ-CP ban hành ngày 12 tháng 02 năm
2003 về việc sinh con theo phương pháp khoa học
đã có quy định “nghiêm cấm mang thai hộ”. Hơn
10 năm sau, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
ban hành có giải thích hai khái niệm: mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích
thương mại. Bên cạnh đó, tại điểm g khoản 2 Điều
1


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

Vợ chồng có quyền người nhờ mang thai hộ khi
có đủ các điều kiện sau đây:
a. Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền
về việc người vợ không thể mang thai và sinh con
ngày cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b. Vợ chồng đang không có con chung;

c. Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

đâu là mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ
bị cấm theo quy định pháp luật. Vấn đề cụ thể
như sau:
Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: “Mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện,
không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho
cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và
sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng
của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau
đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện
mang thai để người này mang thai và sinh con” và
khoản 23 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định: “Mang thai hộ vì mục đích thương
mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người
khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để
được hưởng lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác”. Như
vậy, tiêu chí để phân biệt về mục đích của hai hình
thức mang thai hộ này là có hay không việc
“hưởng lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác”. Tuy
nhiên như thế nào mới được xem là “hưởng lợi ích
về kinh tế hoặc lợi ích khác” thì luật lại chưa có
quy định. Để quy định cụ thể nội dung này thì
không phải là vấn đề đơn giản, bởi lẽ liệt kê ra các
trường hợp để xác định người mang thai hộ có
nhận các lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác hay
không sẽ không bao quát được các trường hợp phát

sinh. Ví dụ: sau khi nhận lời giúp em họ mình
mang thai hộ, chị B đã được vợ chồng cô em chu
cấp tiền bạc rất hậu hĩnh nhằm giúp chị bồi dưỡng
sức khỏe, cũng như trang trải chi phí cuộc sống do
phải nghỉ việc để dưỡng thai. Đến khi sinh con
thành công, thì chị B lại tiếp tục nhận được một
khoản tiền lớn để phục hồi sức khỏe sau sinh. Vậy
trường hợp này, có được xem là mang thai hộ vì
mục đích thương mại hay không? Rõ ràng, để kiểm
soát những trường hợp tương tự như thế này rất
khó trên thực tế. Bởi vì có thể thực chất các khoản
tiền mà chị B nhận hoàn toàn không phải là tiền bồi
dưỡng sức khỏe mà là thù lao của việc mang thai
hộ thì pháp luật làm sao để điều chỉnh? Vì vậy, cần
phải có tiêu chí rõ ràng và chi tiết về việc mang
thai hộ vì mục đích thương mại thì mới có thể
hạn chế các biến tướng của việc mang thai hộ trên
thực tế.

Theo quy định này thì vợ chồng chỉ có quyền
nhờ người mang thai hộ khi hội đủ cả ba điều kiện
trên. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày
28/01/2015 của Chính phủ1quy định về các điều
kiện này lại chưa được rõ ràng và cụ thể.
2.1 Điều kiện “Có xác nhận của tổ chức y tế
có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản”
Đây là điều kiện đầu tiên vợ chồng phải thỏa

khi muốn nhờ người mang thai hộ. Tuy nhiên, với
các quy định như hiện nay đã dẫn đến hai cách hiểu
khác nhau:
 Thứ nhất, vợ chồng đã thực hiện kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản nhưng người vợ vẫn không thể mang
thai và sinh con được thì sau đó cơ sở y tế có thẩm
quyền mới có thể xác nhận việc “người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản”.
 Thứ hai, vợ chồng không cần phải thực hiện
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà chỉ cần tiến hành một
số kiểm tra, xét nghiệm tại cơ sở y tế có thẩm
quyền. Nếu kết quả kiểm tra, xét nghiệm cho thấy
người vợ hoàn toàn không thể mang thai được
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì cơ
sở y tế có thẩm quyền đã có thể xác nhận. Thực tế
đã chứng minh những trường hợp người vợ do
bệnh lý nên không thể mang thai như: không có tử
cung, u xơ tử cung, bị tai biến sản khoa, hay các
bệnh lý về tim, thận, phổi… và những trường hợp
này hoàn toàn có thể được phát hiện thông qua các
biện pháp kiểm tra y tế.
Nếu cách hiểu thứ hai được áp dụng trên thực tế
sẽ dẫn đến tình trạng những cặp vợ chồng dù
không thật sự bị vô sinh nhưng đã “xin” được giấy
xác nhận của bệnh viện để được nhờ người mang
thai hộ. Khi sự việc này diễn ra, chắc chắn sẽ đi

2 VỀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC MANG
THAI HỘ ĐỐI VỚI VỢ CHỒNG NGƯỜI NHỜ

MANG THAI HỘ
Khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định:

1

Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo có hiệu lực vào ngày 15/3/2015

2


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

ngược lại mục đích của việc mang thai hộ được
pháp luật quy định.

thì những cặp vợ chồng đã từng có con chung sẽ
không thể nhờ người mang thai. Quan điểm này
không có sức thuyết phục. Bởi vì, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện để vợ
chồng nhờ người mang thai hộ là “đang không có
con chung”, chứ không phải chưa từng có con
chung. Chính vì vậy, việc những cặp vợ chồng đã
từng có con chung nhưng ở thời điểm hiện tại họ
lại không thể có thêm con do bệnh lý thì việc nhờ

mang thai là hoàn toàn hợp lý và hợp tình. Tuy
nhiên, việc xem xét cho những trường hợp này
được nhờ người mang thai hộ cần cân nhắc các quy
định về dân số để tránh lợi dụng việc mang thai hộ
vi phạm chính sách và pháp luật về dân số của
Nhà nước.

Hiện nay, dù Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã có
hiệu lực nhưng quy định tại Điều 14 khoản 1 điểm
đ về bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vẫn chưa giải
quyết được nội dung này. Theo quy định vừa nêu,
thì vợ chồng người nhờ mang thai hộ phải gửi hồ
sơ đề nghị thực hiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đến cơ sở có thẩm quyền thực hiện kỹ
thuật này gồm rất nhiều loại giấy tờ, trong đó có:
“Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có
nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng
của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản”.

Song, sẽ có một vấn đề phát sinh khi nghiên
cứu thêm Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ-CP về
hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều này thì vợ chồng nhờ mang hai phải
có “bản xác nhận tình trạng chưa có con chung

của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác
nhận”. Rõ ràng với quy định này thì nghị định đã
giới hạn cách hiểu thứ hai về điều kiện tại điểm b
khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 như đã trình bày ở trên. Nếu quan điểm của
người làm luật là không chấp nhận cho những cặp
vợ chồng đã có con chung nhưng bị dị tật thực hiện
kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thì
nghị định phải giải thích rõ ràng chứ không thể áp
dụng quan điểm này theo sự suy đoán dựa vào câu
chữ của nghị định như hiện nay. Ngược lại, thì phải
sử dụng thuật ngữ cho nhất quán trong các văn bản,
tránh trường hợp luật quy định “đang không có con
chung”, còn nghị định thì quy định “chưa có con
chung” để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy
cho các văn bản quy phạm pháp luật.

Như vậy, nội dung của Nghị định 10/2015/NĐCP chỉ mới hướng đến giải quyết vấn đề về cơ sở
có thẩm quyền thực hiện việc xác nhận chứ chưa
quy định rõ ràng cách thức thực hiện việc xác
nhận.
Thiết nghĩ, cần có hướng dẫn chi tiết hơn điều
kiện này theo hướng: xác định rõ cách thức thực
hiện việc xác nhận cũng như trách nhiệm của cơ sở
khám chữa bệnh có thẩm quyền để tránh sự tùy tiện
trong thực hiện, áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
2.2 Điều kiện “Vợ chồng đang không có con
chung”
Quy định “vợ chồng có quyền nhờ người mang

thai hộ khi đang không có con chung” tại điểm b
khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 cũng có hai cách hiểu khác nhau. Quan điểm
thứ nhất cho rằng: vợ chồng nhờ mang thai hộ phải
chưa từng có con chung cho đến thời điểm nhờ
người mang thai hộ. Quan điểm thứ hai cho rằng:
vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đã từng có con
chung nhưng ở thời điểm hiện nay đứa con đã
không còn sống hoặc còn sống nhưng bị bệnh tâm
thần hoặc một số bệnh khác làm cho đứa con
không phát triển được bình thường và vì thế họ
muốn có thêm con, nhưng lại không thể do không
thụ thai được nữa. Y học gọi trường hợp này là vô
sinh thứ phát2. Nếu chấp nhận quan điểm thứ nhất

Mặt khác, quy định về bản xác nhận tình trạng
chưa có con chung của vợ chồng theo Nghị định
10/2015/NĐ-CP cũng thể hiện trách nhiệm thực
hiện việc xác nhận thuộc về Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ.
Song trách nhiệm xác nhận này cũng không hề đơn
giản trong khung cảnh hiện nay. Cụ thể sẽ có các
trường hợp sau đây liên quan đến nơi thường trú
của vợ chồng nhờ mang thai hộ phát sinh:

2

Theo định nghĩa y khoa, vô sinh thứ phát là những
trường hợp đã từng có thai ít nhất một lần (những lần có
thai này có thể bị sảy) nay muốn sinh đẻ nữa nhưng

không thể thụ thai. Xem: Mai Phương, Những nguyên
nhân gây vô sinh thứ phát, />
khoe/nhung-nguyen-nhan-gay-vo-sinh-thu-phat183755.html (truy cập ngày 23/12/2014)

3


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

Thứ nhất, vợ chồng nhờ mang thai hộ có nơi
thường trú khác nhau. Đây không phải là một
trường hợp hiếm gặp. Bởi lẽ, quyền có nơi cư trú
khác nhau của vợ chồng là một quyền nhân thân cơ
bản và đã được quy định từ rất lâu trong pháp luật
Việt Nam. Trong trường hợp này, thiết nghĩ vợ
chồng nhờ mang thai hộ cần phải có bản xác nhận
của cả hai nơi: một là nơi vợ thường trú, hai là nơi
chồng thường trú về việc họ đang không có con
chung thì mới đáp ứng đủ yêu cầu.

2.3 Điều kiện “Đã được tư vấn y tế, pháp lý,
tâm lý”
Đây là điều kiện cuối cùng trong nhóm các điều
kiện mà người nhờ mang thai hộ và cả người mang
thai hộ đều phải đảm bảo trước khi tiến hành áp
dụng kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Nội dung của việc tư vấn về y tế, pháp lý và
tâm lý được quy định tại Điều 15, Điều 16 và Điều

17 của Nghị định 10/2015/NĐ-CP. Theo các quy
định này thì chỉ có việc tư vấn về pháp lý là được
thực hiện giống nhau cho cả người nhờ mang thai
hộ và người mang thai hộ. Trong khi đó, tư vấn về
y tế và tâm lý cho hai chủ thể này hoàn toàn khác
nhau. Chẳng hạn, cùng là tư vấn về tâm lý nhưng
người nhờ mang thai hộ được tư vấn về “khả năng
người mang thai hộ có ý định giữ đứa bé sau
sinh”4, còn người mang thai hộ lại được tư vấn về
“cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi trao lại con
cho cặp vợ chồng nhờ mang thai”5. Việc quy định
rõ nội dung tư vấn đối với từng chủ thể như vậy là
rất cần thiết và hợp lý. Đồng thời thể hiện sự thấu
hiểu tâm tư, nguyện vọng cũng như những trăn trở,
băn khoăn không hề giống nhau của người nhờ
mang thai hộ và người mang thai hộ dù mục đích
của họ khi áp dụng kỹ thuật này chỉ là hi vọng có
một đứa trẻ lành lặn và khỏe mạnh được ra đời.

Thứ hai, vợ chồng nhờ mang thai hộ thường trú
cùng một nơi nhưng đồng thời cũng có nơi tạm trú
do tính chất công việc hoặc học tập. Ở trường hợp
này, vấn đề chỉ thật sự trở nên phức tạp khi cặp vợ
chồng nhờ mang thai hộ trước đây đã có con chung
và họ đăng ký khai sinh cho con chung tại nơi
người mẹ tạm trú. Dù rằng, luật đã có quy định về
trách nhiệm thông báo của Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người mẹ tạm trú cho Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người mẹ thường trú biết để ghi nhận và lưu
giữ thông tin3. Trên thực tế, công việc này được

thực hiện bằng đường bưu điện và vì vậy hồ sơ về
việc đã đăng ký khai sinh có khả năng sẽ bị thất
lạc. Thậm chí, cũng có những trường hợp do nhiều
nguyên nhân, việc thông báo này không được thực
hiện. Trong những trường hợp như vậy, thì Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người mẹ thường trú - cũng
chính là nơi vợ chồng thường trú, sẽ không xác
định được cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã từng
có con chung hay chưa để từ đó xác nhận cho
chính xác theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, để những quy định liên quan đến
các hoạt động tư vấn này phát huy được hiệu quả
thì cần phải quan tâm đến trách nhiệm của người
có thẩm quyền tư vấn. Trách nhiệm không chỉ thể
hiện ở việc đảm bảo đúng trình độ chuyên môn,
thực hiện đầy đủ yêu cầu luật định trong công tác
tư vấn mà còn thể hiện ở thái độ nghiêm túc, kiên
nhẫn và hết mình vì công việc. Bởi lẽ, tư vấn viên
có thể đáp ứng đầy đủ “điều kiện định lượng” để
thực hiện tư vấn, như “bác sĩ chuyên khoa sản”
đối với tư vấn y tế, là “cử nhân luật” khi tư vấn
pháp lý, và “trình độ đại học chuyên khoa tâm lý”
đối với tư vấn tâm lý6 nhưng nếu không có ý thức
trách nhiệm thì hoạt động tư vấn chắc hẳn sẽ không
được trọn vẹn và ý nghĩa tốt đẹp mà người làm luật
gửi gắm trong các quy định về hoạt động tư vấn sẽ
không thể nào được đảm bảo. Vì vậy, ở giai đoạn
đầu, để đảm bảo chất lượng cho hoạt động tư vấn,
các cơ quan có thẩm quyền cần tổ chức các buổi

tập huấn, bồi dưỡng kiến thức hoặc tọa đàm trao
đổi nhằm hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm để thực

Mặt khác, việc xác nhận thông tin này nếu
không được thực hiện chính xác cũng chưa thấy
chế tài xử lý cả về hình sự và hành chính trong quy
định của pháp luật hiện hành.
Tóm lại, để vấn đề có thể được giải quyết triệt
để, cần sớm thực hiện cơ sở dữ liệu về hộ tịch theo
như quy định của Luật hộ tịch năm 2014 để việc
kiểm tra thông tin về hộ tịch của cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ cũng như của người mang thai hộ
được thực hiện chính xác và hiệu quả. Đồng thời,
cũng phải ghi nhận chế tài để xử lý các trường hợp
cố ý làm sai quy định pháp luật trong việc xác nhận
để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm
bảo trật tự và ổn định cho việc mang thai hộ.

3Thông

4

tư 01/2008/TT – BTP ngày 02 tháng 6 năm 2008
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch

Điểm b khoản 1 Điều 17 Nghị định 10/2015/NĐ-CP
Điểm d khoản 2 Điều 17 Nghị định 10/2015/NĐ-CP
6 Quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định 10/2015/NĐCP

5

4


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

chưa hẳn chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không
thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp ứng nhu cầu
và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy
định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được
nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít
các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia
đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định
10/2015/NĐ - CP đã nêu trên đều không có chị em
gái, hoặc có chị em gái nhưng những người này là
người chưa thành niên, hay đã thành niên nhưng
chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc
mang thai hộ sẽ không thể được tiến hành dù
không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì
vậy, quy định này tiềm ẩn khả năng các cặp vợ
chồng vô sinh sẽ nhờ người mang thai hộ một cách
lén lút và khi đó, tính chất thương mại chắc chắn sẽ
xảy ra.

hiện việc tư vấn cho những người có nhu cầu áp
dụng kỹ thuật mang thai hộ. Về lâu dài, nên chuyên
nghiệp hóa hoạt động tư vấn này bằng việc yêu cầu

chứng chỉ tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư
vấn được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền
chuyên môn. Có như vậy mới giảm thiểu được
những trường hợp tư vấn cho có hình thức để đáp
ứng đúng thủ tục chứ không phải để nhằm hiểu rõ
hơn về kỹ thuật mang thai hộ dưới các góc độ y tế,
pháp lý và tâm lý.
3 VỀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC MANG
THAI HỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐƯỢC NHỜ
MANG THAI HỘ
Khoản 3 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định điều kiện đối với người được
nhờ mang thai hộ như sau:

Vì vậy, để hài hòa được lợi ích chính đáng
của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi ích của Nhà
nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem
xét về lâu dài nên cho phép việc mang thai hộ được
thực hiện bởi người thân thích không cùng hàng
hoặc cả những người không thân thích nhưng phải
đảm bảo thực hiện đúng các quy định pháp luật về
điều kiện xác lập cũng như quyền và nghĩa vụ của
các bên.

a. Phải là người thân thích cùng hàng của bên
vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b. Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ
một lần;
c. Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

d. Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có
chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của
người chồng;

Điểm g khoản 1 Điều 14 Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định “Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh
về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các
giấy tờ hộ tịch có liên quan”. Như vậy, trong bộ hồ
sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ thì đây
là loại giấy tờ đương sự có thể được tự do lựa chọn
cách thức thực hiện tùy theo khả năng và hoàn
cảnh của từng gia đình. Tuy nhiên, nội dung này
cũng sẽ tiềm ẩn nguy cơ việc mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo bị biến tướng thành mục đích
thương mại do nạn làm giả hồ sơ, giấy tờ. Giả sử,
bên nhờ mang thai hộ lựa chọn cách minh chứng
mối quan hệ thân thích với người được nhờ mang
thai hộ bằng cách tự cung cấp các giấy tờ hộ tịch
và các giấy tờ này thực chất là giả mạo thì khi đó
việc xử lý hành vi này được thực hiện theo văn bản
nào trong giai đoạn hiện nay. Nghị định
176/2013/NĐ-CP ban hành này 14 tháng 11 năm
2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế chưa thấy ghi nhận về trường
hợp này. Đây là điều dễ hiểu, bởi lẽ văn bản này
được ban hành trước ngày Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP có
hiệu lực. Tuy nhiên, dư luận xã hội cũng phần nào
được yên tâm vì cơ quan có thẩm quyền đang soạn

thảo dự thảo sửa đổi Bộ luật Hình sự trong đó có

d.Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.”
3.1 Người được nhờ mang thai hộ phải là
người thân thích cùng hàng với bên vợ hoặc bên
chồng nhờ mang thai hộ
Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP giải
thích người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc
bên chồng nhờ mang thai hộ gồm: “Anh, chị, em
cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con
cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu
của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ,
cùng mẹ khác cha với họ”.
Quy định này đã phần nào giải quyết được khúc
mắc về nội hàm của khái niệm “người thân thích
cùng hàng” được đặt ra từ khi Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014 chỉ mới được thông qua.
Có thể nói mục đích của quy định “người được
nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng
hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ” là nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa
việc mang thai hộ. Tuy nhiên, quy định này có
mang lại hiệu quả hay không khi nhu cầu của việc
mang thai hộ ngày càng lớn và tính thương mại
5


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ


Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

phải nghiên cứu và sớm đưa ra cách giải quyết
trong trường hợp này, nhưng thật ra, có lẽ giải
pháp tốt nhất phải là đưa ra các biện pháp để
giúp phòng ngừa những trường hợp vi phạm bằng
việc kiểm tra hết sức nghiêm ngặt các điều kiện
luật định để chặn đứng mọi vi phạm trước khi nó
xảy ra.
3.3 Về độ tuổi thích hợp để mang thai của
người được nhờ mang thai hộ

quy định về việc vi phạm quy định trong quá trình
thực hiện mang thai hộ. Song, để tránh bỏ sót, bỏ
lọt những hành vi cố tình vi phạm pháp luật, thì
ngoài chế tài hình sự cần phải có văn bản quy định
về chế tài xử phạt vi phạm hành chính để áp dụng
đối với những trường hợp chưa đủ các yếu tố cấu
thành tội hình sự. Bên cạnh đó, thiết nghĩ các văn
bản này cũng nên có quy định điều chỉnh đến cả
những trường hợp đã thực hiện và đang thực hiện
kỹ thuật mang thai hộ trước ngày những văn bản
mang tính chất xử lý vi phạm này ban hành để đảm
bảo sự công bằng và nghiêm minh trong việc áp
dụng pháp luật.
3.2 Người được nhờ mang thai hộ đã từng
sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần

Hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
chỉ mới quy định người được nhờ mang thai hộ

phải ở độ tuổi phù hợp, tuy nhiên, độ tuổi nào là độ
tuổi thích hợp thì chưa được quy định. Theo bác sĩ
Thu Lan “người phụ nữ ở độ tuổi từ 22-29 tuổi có
sức khỏe sinh sản tốt nhất vì cơ thể đã phát triển
toàn diện, chất lượng trứng cũng ở thời kỳ tốt nhất.
Ở độ tuổi này người phụ nữ đã phát triển đầy đủ về
cả tâm - sinh lý cho việc mang thai và làm mẹ. Từ
độ tuổi 24-29, các điều kiện về nghề nghiệp, kinh tế
gia đình sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe
khi mang thai cũng như chăm sóc em bé khi ra đời
để trẻ được phát triển toàn diện”7. Từ những phân
tích dưới góc độ y học, thiết nghĩ khi ban hành các
văn bản hướng dẫn cho Luật Hôn nhân và gia đình
về vấn đề mang thai hộ, Bộ Y tế nên ghi nhận độ
tuổi thích hợp cho người phụ nữ mang thai hộ để
đảm bảo chất lượng của việc mang thai hộ cũng
như tránh được các nguy cơ rủi ro cho người phụ
nữ mang thai và bào thai mang hộ.
3.4 Trường hợp người mang thai hộ có
chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của
người chồng

Luật quy định người được nhờ mang thai hộ
phải là người đã từng sinh con là một quy định hợp
lý. Bởi lẽ, việc đã từng mang thai và sinh con sẽ là
một minh chứng xác thực về việc có khả năng
mang thai của người được nhờ mang thai hộ. Điều
này sẽ giúp giảm thiểu thời gian, công sức và tiền
bạc cho cả hai bên trong việc mang thai hộ. Bên
cạnh đó, điểm b khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân

và gia đình năm 2014 cũng có quy định người
được nhờ mang thai hộ “chỉ được mang thai một
lần”. Cần xác định rõ đối tượng của quy định này
chỉ áp dụng đối với người được nhờ mang thai hộ.
Điều đó có nghĩa, người được nhờ mang thai hộ
chỉ được mang thai hộ một lần, không phân biệt
người nhờ mang thai hộ là ai, cũng như việc mang
thai hộ thực hiện thành công hay không. Mặt khác,
do quy định này không áp dụng đối với cặp vợ
chồng nhờ mang thai hộ, vì vậy, nếu việc mang
thai hộ đã được tiến hành nhưng cuối cùng không
thành công thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có
thể nhờ người khác đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật để tiếp tục thực hiện việc mang thai hộ.
Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định cách thức
để các cơ sở thực hiện việc mang thai hộ kiểm tra
điều kiện này trước khi thực hiện. Nếu cho rằng,
không cần kiểm tra mà chỉ cần yêu cầu bên được
nhờ mang thai hộ thực hiện việc cam đoan thì khả
năng gian dối khi cam đoan là có thể xảy ra. Khi
đó, để quy định chế tài cho hành vi này thật sự
không khó, cái khó chính là quy định hướng giải
quyết hậu quả pháp lý của nó. Rõ hơn, nếu người
mang thai hộ đã mang hộ bào thai đến giai đoạn
cuối thì cơ quan có thẩm quyền mới phát hiện ra có
sự vi phạm điều kiện “chỉ được mang thai hộ một
lần”, thì khi đó, nếu chấp nhận để việc mang thai
hộ được tiếp tục thì sẽ dẫn đến tiền lệ xấu, nhưng
nếu bắt buộc chấm dứt ngay hành vi vi phạm thì có
lẽ cũng khó mà chấp nhận được. Vì vậy, cần thiết


Để minh chứng cho việc người mang thai hộ đã
thỏa điều kiện này thì trong bộ hồ sơ đề nghị thực
hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có bản xác nhận
của chồng người mang thai hộ về việc đồng ý cho
mang thai hộ8. Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng
về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ mang thai hộ và
cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi
quyết định một chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến
hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con là một
nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh
phúc gia đình cũng là nhu cầu chính đáng cần được
bảo vệ.
7

Thu Lan, Phụ nữ nên sinh con ở độ tuổi nào là tốt nhất,
(truy cập ngày
06/01/2015)
8 Quy định tại điểm h khoản 1Điều 14 Nghị định
10/2015/NĐ-CP

6


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

Tuy nhiên, quan hệ xã hội thì muôn màu muôn

vẻ, hoàn cảnh các gia đình trong xã hội cũng không
ít khác biệt. Chính vì vậy, không phải người mang
thai hộ nào cũng có chồng và đang cùng chồng
sống hạnh phúc. Có thể họ đã có chồng nhưng giờ
cả hai vợ chồng đã ly thân và sống ở hai nơi khác
nhau. Khi đó theo quy định của pháp luật dù đã ly
thân nhưng họ vẫn là vợ chồng về mặt pháp lý và
hẳn nhiên người vợ muốn mang thai hộ thì phải có
sự đồng ý của chồng. Giả sử người chồng không
chấp nhận. Điều này không phải vì lo lắng hay còn
quan tâm đến sức khỏe của vợ, mà vì muốn có
được một lợi ích về kinh tế. Có hai giải pháp sẽ
được vợ chồng nhờ mang thai hộ lựa chọn: một là,
không tiếp tục thực hiện mang thai hộ do đã không
đủ điều kiện hoặc tìm người khác mang thai hộ
giúp; hai là, chấp nhận yêu cầu của chồng người
mang thai hộ và đổi lấy bản xác nhận đồng ý cho
thực hiện mang thai hộ. Rõ ràng, lựa chọn thứ hai
sẽ là giải pháp dễ thực hiện hơn rất nhiều.

4.1 Về thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ
cha mẹ con
Để việc mang thai hộ được tiến hành thì pháp
luật quy định9 vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có
văn bản thỏa thuận về việc áp dụng kỹ thuật này
đối với cả vợ chồng của người được nhờ mang thai
hộ. Vì vậy, khi đứa trẻ mang thai hộ được sinh ra,
khoản 1 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
người mang thai hộ như sau: “Người mang thai hộ,

chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ
như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản,
chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao
đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ”. Mặt khác, tại
khoản 2 Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 cũng có quy định: “Quyền, nghĩa vụ của bên
nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con
phát sinh từ thời điểm con được sinh ra”.
Như vậy, từ hai quy định nêu trên thấy rằng,
người được nhờ mang thai hộ và chồng của người
đó chỉ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc
nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc
nuôi dưỡng con, còn những quyền và nghĩa vụ
khác giữa cha mẹ đối với con như quyền đại diện
cho con, quyền quản lý tài sản của con hay quyền
thừa kế tài sản của con… thì không phát sinh giữa
người được nhờ mang thai hộ và chồng của người
đó đối với con. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 cũng đã quy định rất chi tiết về thời
điểm chấm dứt quyền, nghĩa vụ chăm sóc con như
cha mẹ của cặp vợ chồng được nhờ mang thai hộ là
từ thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai
hộ. Đây là một quy định hợp lý, đảm bảo tính nhân
văn. Bởi vì, quy định này sẽ đảm bảo tốt về sức
khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh
những trường hợp bên nhờ mang thai hộ không
quan tâm chăm sóc vì cho đó không phải là con đẻ
của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không tốt cho
đứa trẻ, hoặc ngược lại bên nhờ mang thai hộ ngăn
cản việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ từ phía

người được nhờ mang thai dù người này có đủ các
điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho trẻ sơ sinh như
nguồn sữa mẹ.
4.2 Về quyền quyết định số lượng bào thai,
việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai

Bên cạnh đó, cũng sẽ có những trường hợp
người mang thai hộ cố tình giấu chồng để thực hiện
mang thai hộ do chồng đang công tác hoặc học tập
ở nước ngoài và để hoàn tất các thủ tục, họ đã giả
mạo chữ ký để minh chứng cho sự đồng ý của
người chồng.
Tất cả các trường hợp trên, hướng giải quyết
gợi ý khi việc mang thai hộ chỉ mới bắt đầu thực
hiện là chấm dứt ngay quy trình và áp dụng chế tài
xử lý hành vi vi phạm đối với họ. Tuy nhiên, nếu
các sai phạm chỉ được phát hiện sau khi phôi đã
cấy thành công vào tử cung của người mang thai
hộ thì việc xử lý sẽ như thế nào? Đây rõ ràng
không phải là một câu hỏi dễ trả lời. Vì vậy, thiết
nghĩ cần có quy định về cách giải quyết những
trường hợp thực hiện mang thai hộ không đúng
pháp luật và hậu quả pháp lý của nó theo hướng
vừa đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật vừa
đảm bảo được tính nhân đạo cho chế định này.
4 VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC
BÊN TRONG QUÁ TRÌNH MANG THAI HỘ
Bên cạnh những quy định về mục đích và điều
kiện mang thai hộ, thì quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong quan hệ mang thai hộ cũng được

người làm luật quan tâm. Nội dung này được ghi
nhận tại Điều 97 và Điều 98 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Thông qua đó, luật đã quy định
được khá nhiều nội dung cơ bản, trọng yếu. Tuy
nhiên, vẫn còn những vấn đề phát sinh nếu chưa
được hướng dẫn chi tiết. Cụ thể:

Quy định này được Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 áp dụng cho bên được nhờ mang thai hộ.
Cụ thể tại khoản 4 Điều 97 quy định: “Trong
trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình
hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai
9

7

Khoản 1 Điều 96 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc
tiếp tục hay không tiếp tục mang thai”. Đứng dưới
góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định hợp
lý. Bởi hơn ai hết, người phụ nữ được nhờ mang
thai hộ sẽ hiểu rõ tình trạng sức khỏe của mình để
cân nhắc có thể tiếp tục hay không việc mang thai.

Tuy nhiên, nếu xét dược góc độ bảo vệ quyền và
lợi ích của bên nhờ mang thai hộ quy định này còn
một vấn đề như sau: Theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 bên nhờ mang thai hộ
sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ đó
từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng
thành và được công nhận là cha mẹ của trẻ10. Chính
vì vậy, nếu trong quá trình mang thai, bào thai phát
triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì chính
cha mẹ của thai nhi sẽ là người quyết định tiếp tục
duy trì thai kỳ hay chấm dứt theo lời khuyên của
bác sĩ. Tuy nhiên, như đã nêu, theo quy định tại
khoản 4 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì quyền này thuộc về người được nhờ mang
thai hộ. Thực tiễn tương tự xảy ra tại Thái Lan thời
gian qua đã thu hút sự quan tâm của dư luận: Một
phụ nữ Thái Lan- Pattharamon Chanbua, đã nhận
lời mang thai hộ một cặp vợ chồng người Úc. Sau
khi thực hiện, chị Pattharamon Chanbua đã mang
thai song sinh, một trai một gái. Tuy nhiên, trong
đợt kiểm tra 4 tháng đã phát hiện bé trai bị mắc hội
chứng Down. Sau khi biết tin, cặp vợ chồng người
Úc đã yêu cầu người phụ nữ mang thai hộ phá thai
nhưng chị không đồng ý. Chính vì vậy, khi cặp
song sinh được sinh ra tại Bangkok, cặp vợ chồng
người Úc đã từ chối nhận bé trai bị bệnh và chỉ
mang bé gái khỏe mạnh về nhà11.

do người được nhờ mang thai hộ quyết định. Đối
với trường hợp thai nhi phát triển không bình

thường, ví dụ như trong thời gian mang thai hộ, trẻ
bị khuyết tật bẩm sinh và được phát hiện bởi các kỹ
thuật y tế thì cần có sự thỏa thuận giữa bên nhờ
mang thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi
đến quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ. Nếu
họ không thỏa thuận được thì nhờ Tòa án giải
quyết và Tòa án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham
vấn ý kiến của tổ chức y tế. Được như vậy, sẽ phần
nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.
4.3 Về việc giao và nhận con giữa các bên
trong việc mang thai hộ
Theo quy định tại Điều 94 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 thì: “Con sinh ra trong trường
hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con
chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời
điểm con được sinh ra”. Vì vậy, vợ chồng nhờ
mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ
ngay khi trẻ vừa được sinh ra. Tuy nhiên, để bao
quát các khả năng phát sinh, luật cũng có quy định
thêm rằng: “Trong trường hộ bên nhờ mang thai hộ
từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền
yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận
con”12. Mặt khác, khoản 5 Điều 98 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 cũng có quy định: “Trong
trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con cho
thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án
buộc bên mang thai hộ giao con”. Căn cứ vào quy
định này có thể thấy rằng luật chỉ mới dự liệu được
hai trường hợp: Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ từ
chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ cũng

không muốn nuôi con. Nếu trường hợp này xảy ra
thì bên được nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu
Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con theo
quy định tại khoản 5 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Thứ hai, bên được nhờ mang thai
hộ từ chối giao con và bên nhờ mang thai hộ cũng
muốn nhận con. Nếu phát sinh trường hợp này thì
bên nhờ mang thai hộ sẽ áp dụng quy định tại
khoản 5 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 yêu cầu Tòa án buộc bên được nhờ mang thai
hộ giao con. Tuy nhiên, luật lại chưa dự liệu được
trường hợp: bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con
và bên được nhờ mang thai hộ đồng ý nhận nuôi
con. Trong trường hợp này, theo quan điểm của
người viết cần phải có quy định ghi nhận quyền
được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai
hộ nếu bên nhờ mang thai hộ đã từ chối nhận con
và bên được nhờ mang thai hộ đủ điều kiện để

Như vậy, từ quy định pháp luật và thực tiễn về
vấn đề này, cần phải có văn bản hướng dẫn thật
chặt chẽ để tránh các trường hợp người được nhờ
mang thai hộ không đồng ý chấm dứt thai kỳ theo
yêu cầu của bên nhờ mang thai hộ để rồi cuối cùng
sinh ra những đứa trẻ bị dị tật, bệnh hiểm nghèo.
Điều này không những chỉ là nỗi đau của những trẻ
mắc bệnh mà còn là nỗi đau, là gánh nặng cho gia
đình và toàn xã hội. Vì vậy, thiết nghĩ, văn bản
hướng dẫn cần phải xác định rõ hai trường hợp,
nếu việc mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức

khỏe, tính mạng của người được nhờ mang thai hộ
thì việc quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ là
10

Xem Điều 94 và khoản 2 Điều 98 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014
11 Xem “Bà mẹ mang thai hộ không từ bỏ em bé nhiều
bệnh”, />(truy cập ngày 06/01/2015)

12

8

Khoản 5 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

theo hướng sử dụng pháp luật dân sự và pháp luật
khác có liên quan để điều chỉnh quan hệ tài sản
giữa người con do người mang thai hộ sinh ra và
vợ chồng người mang thai hộ nếu có tranh chấp
phát sinh.

nhận con nuôi theo quy định tại Luật nuôi con nuôi
năm 2010.
5 HỆ QUẢ PHÁP LÝ SAU KHI THỰC HIỆN
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO


5.1 Về nhân thân

6 KẾT LUẬN

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy
định về việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra
bằng phương pháp mang thai hộ. Song, lại chưa có
quy định về việc kết hôn của đứa trẻ đó sau khi
chúng trưởng thành. Ví dụ: người mang thai hộ là
chị C- em con cậu của chị B - người vợ trong cặp
vợ chồng nhờ mang thai hộ. Chị C có một người
con đẻ là X. Sau khi sinh được Y bằng phương
pháp mang thai hộ cho vợ chồng chị B, thì X và Y
có kết hôn với nhau được không? Thật ra, để giải
quyết về quan hệ nhân thân này, thiết nghĩ luật chỉ
cần quy định: “Quan hệ hôn nhân của người được
sinh ra từ việc mang thai hộ và gia đình người
mang thai hộ sẽ được thực hiện theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết
hôn”. Theo đó, căn cứ vào trường hợp của X và Y
nêu trên thấy rằng họ sẽ không bị cấm kết hôn do
có họ trong phạm vi ba đời. Bởi họ đã là hai người
thuộc phạm vi của đời thứ tư.
5.2 Về tài sản

Chỉ vài tháng sau khi quy định về mang thai hộ
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và
Nghị định 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực, các bác sĩ
tại bệnh viện Từ Dũ đã thực hiện thành công hai ca

mang thai hộ13. Điều này cho thấy việc cho phép
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự đã giúp
cho khao khát được làm cha mẹ của không ít cặp
vợ chồng được trở thành hiện thực. Về mặt lập
pháp, mặc dù đã quy định rõ ràng và hợp lý, hợp
tình trong rất nhiều vấn đề về mang thai hộ nhưng
nhìn chung vẫn còn không ít quy định khá khái
quát, hoặc gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Một
số điển hình có thể kể đến như:
Một là, quy định về mục đích của việc mang
thai hộ. Luật cho phép mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo và cấm mang thai hộ vì mục đích thương
mại. Tuy nhiên, việc phân biệt hai trường hợp này
chỉ dựa vào một tiêu chí là có hay không việc
“hưởng lợi ích kinh tế và lợi ích khác”. Vì vậy, cần
sớm có hướng dẫn chi tiết và rõ ràng về nội dung
này để hạn chế được việc mang thai hộ vì mục đích
thương mại xảy ra.

Quan hệ tài sản của người con do người mang
thai hộ sinh ra với vợ chồng người mang thai hộ
cũng chưa được quy định rõ trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, vấn đề này cũng
không thật sự phức tạp. Bởi lẽ, khoản 2 Điều 98
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận
nguyên tắc “quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh
từ thời điểm con được sinh ra”. Điều này có nghĩa,
các quan hệ tài sản giữa cha mẹ với con như: quản
lý, định đoạt tài sản của con chưa thành niên, con

đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, hay
quan hệ thừa kế chỉ phát sinh giữa bên nhờ mang
thai hộ và người con. Vì vậy, nếu có tranh chấp
phát sinh về các quan hệ tài sản giữa người mang
thai hộ và đứa con mang hộ thì hoàn toàn có thể
căn cứ vào các quy định của pháp luật dân sự và
pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành để giải
quyết. Ví dụ, nếu vợ, chồng người mang thai hộ
chết hoặc người con do họ sinh ra bằng kỹ thuật
mang thai hộ chết thì họ chỉ được thừa kế di sản
của nhau theo di chúc (nếu người lập di chúc có chỉ
định họ là người thừa kế), còn thừa kế theo pháp
luật sẽ không được vì họ không thuộc các hàng
thừa kế theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự
năm 2005. Tuy nhiên, để việc áp dụng có cơ sở
pháp lý rõ ràng, minh thị luật cũng cần có quy định

Hai là, quy định về điều kiện của vợ chồng nhờ
mang thai hộ và người mang thai hộ. Cụ thể là
những điều kiện được quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014. Các điều kiện này tiềm ẩn rất nhiều điểm
chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, như cách thức thực
hiện việc xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền
về việc người vợ không thể mang thai; vai trò của
chính quyền địa phương trong việc xác nhận vợ
chồng đang không có con chung hoặc xác nhận
mối quan hệ thân thích giữa người mang thai hộ và
cặp vợ chồng vô sinh. Để giải quyết các vấn đề
này, cần thực hiện cơ sở dữ liệu về hộ tịch để kiểm

tra thông tin về hộ tịch của cặp vợ chồng nhờ mang
thai hộ cũng như của người mang thai hộ được
thực hiện chính xác và hiệu quả. Đồng thời, cũng
phải quy định chế tài để xử lý các trường hợp cố ý
vi phạm pháp luật.
13 Thanh Giang, Bệnh viện Từ Dũ Thành phố Hồ Chí
Minh: đã thực hiện hai ca mang thai hộ,
/>(truy cập ngày 30/8/2015)

9


Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ

Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 40 (2015): 1-10

Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam- TS. Nguyễn
Văn Cừ- Nxb Tư Pháp.
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình- Trường
đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn Văn Cừ
(chủ biên), Nxb Công an nhân dân.
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình- Trường
đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
TS Ngô Thị Hường, Nxb Giáo dục Việt Nam.
Luật Hộ tịch năm 2015.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi,
bổ sung năm 2010).
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 02
năm 2013 Sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định về hộ tích, hôn nhân và gia
đình và chứng thực.
Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01
năm 2015 quy định về kỹ thuật sinh con
trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo.
Nghị định 126/2014/NĐ-CP/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và
gia đình.
Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12
năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Nghị định 19/2012/NĐ-CP ngày 21 tháng 3
năm 2011 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật nuôi con nuôi.
Thông tư 01/2008/TT-BTP ngày 2 tháng 6 năm
2008 Hướng dẫn thực hiện một số quy định
của Nghị định 158/2005/NĐ-CP.

Về điều kiện của người mang thai hộ, những
quy định chưa rõ ràng và cụ thể có thể kể đến là độ
tuổi của người mang thai hộ và việc đồng ý bằng
văn bản của chồng người mang thai hộ. Trong
những trường hợp này, luật nên ấn định độ tuổi
thích hợp cho việc mang thai hộ để tránh rủi ro cho
người mang thai hộ và đảm bảo thành công cho
việc thực hiện kỹ thuật này. Bên cạnh đó, cần có

hướng xử lý những trường hợp thực hiện mang thai
hộ không đúng pháp luật và hậu quả pháp lý của nó
theo tinh thần nhân đạo nhưng vẫn phải đảm bảo
sự nghiêm minh của pháp luật.
Ba là, quy định về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong việc mang thai hộ. Để tránh xảy ra
trường hợp vì muốn tiếp tục thai kỳ nên người
mang thai hộ đã sinh ra đứa trẻ bị dị tật, luật cần
quy định sự thỏa thuận của vợ chồng nhờ mang
thai hộ và người mang thai hộ, chứ không nên giao
quyền đó cho người mang thai hộ như hiện nay.
Đồng thời, cũng cần phải dự liệu thêm trường hợp
vợ chồng người nhờ mang thai hộ từ chối nhận con
và người mang thai hộ muốn nhận con để làm cơ
sở pháp lý giải quyết nếu có phát sinh.
Tóm lại, để chế định mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo thật sự là giải pháp tốt, thân thiện và ít
tranh chấp nhằm giúp cho các cặp vợ chồng vô
sinh đáp ứng nhu cầu có được một đứa con theo
nguyện vọng chính đáng thì người làm luật cần
nghiên cứu và hoàn thiện thêm quy định pháp luật
trong thời gian tới. Có như vậy, pháp luật điều
chỉnh về quan hệ mang thai hộ mới có sức sống lâu
dài và ổn định, đồng thời nâng cao niềm tin của
người dân vào pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bình luận Khoa học Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000- Bộ Tư Pháp, Viện Khoa học
Pháp lý, Đinh Thị Mai Phương (Chủ biên)Nxb Chính trị Quốc gia.


10



×