Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Đề cương ôn tập Full môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.57 KB, 46 trang )

Câu 1: NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. RÚT RA Ý
NGHĨA THỰC TIỄN?
1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong
dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên
suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự
hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và lũ cướp nước” .
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả
cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” .
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông.
Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục
hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho
yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người không phải là những giáo
điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân
nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”, cách đối nhân xử thế
“có lý, có tình”. Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết
phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố
tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực
của nó.


Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư
tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng
học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa có
chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở
phương pháp luận mácxít - lêninnít.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và
nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những
nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi
13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm


quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm
1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc
Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành người cộng
sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và
phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các
học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở
nhận thức các nhân tố khách quan.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng nhân ái
và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.
Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là

những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện,
phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong
phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức
tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng
đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng như môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ được bắt đầu nghiên cứu, tuy vậy, đến nay đã
có tới mấy chục khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà
khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Câu 2: Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930).
Ý nghĩa thực tiễn
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công nhân “chính quốc” và
các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã hội và tri thức của mình. Nhờ thông
hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến
thức cổ, kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các
hoạt động quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế giới,
qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy
được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của Người hình thành nên một luận điểm
đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa,
giải phóng nhân loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt


Nam. Các bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báoThanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp
chí Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực dân

Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là những công cụ quan trọng trong
việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống
thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí
Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng
theo xu hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất
của đội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông
Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản
liên đoàn (l-1930).
Trước tình hình ở Đông Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-1929, Quốc tế
Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện Nghị
quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.
Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh
đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế
mở mang được”… “nông nghệ một ngày một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều” (8) . Đánh
giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ, Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng:
“Tư bản bản xứ không có thể lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn
đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết
sức khách quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ
thực tế đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” (9) .
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng
giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã
nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam

đã hình thành về cơ bản.

Câu 3: Phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội theo tư tưởng HCM, rút ra ý nghĩa với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN ở nước ta hiện nay?


Phân tích mối quan hệ

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Người, độc lập dân tộc là mục tiêu


trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ
và phát triển thành quả của độc lập dân tộc.
Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được chân lý của thời đại cách mạng nhờ
giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dồn tất cả nỗ lực và
tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý tưởng và mục tiêu cách mạng: Độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn ấy không có
bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống thực dân xâm lược và
chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó,
nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng
bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên được Hồ Chí Minh thể hiện
rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ tám tháng 5/1941.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý
nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối

thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân
nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập
dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục
tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể
đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được
mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì
vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để
giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã
khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế
quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ,
khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là cách thức tổ chức xã hội tốt nhất (tối ưu) để làm cho Tổ
quốc, đất nước, quốc gia - dân tộc trường tồn, con người cá nhân và cộng đồng xã hội được phát
triển tự do, toàn diện mọi khả năng sáng tạo, được thụ hưởng hạnh phúc vật chất, tinh thần
trong một môi trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Ðó cũng chính là hàm ý sâu xa trong một chân lý
lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Giá trị ấy cũng
chính là chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới, sáng tạo và hiện
đại hóa.


Ý nghĩa


Câu 4: Trình bày quan điểm HCM về vấn đề dân tộc và ĐLDT? Rút ra ý nghĩa
thực tiễn?
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý,
tư tưởng và văn hóa dân tộc...nhưng vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM đc đề cập ko phải là vđ
dân tộc nói chung. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM trở thành vấn đề thuộc địa, thực chất là
vđ đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị nước ngoài, giành độc lập
dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết...
Tư tưởng HCM về vđ dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản có nhg vđ sau
1.

Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc
Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Khat vọng tự do cho VN đã sớm
đc HCM khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả nhg điều tôi
muốn, đấy là tất cả nhg điều tôi hiểu.”
Quan điểm về quyền độc lập tự do của các dân tộc đc thể hiên rõ nét trong nhận thức và hành
động của HCM.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đc các nc đồng minh thắng trận
trong chiến tranh TG thừa nhận, thay mặt nhg người VN yêu nc, NAQ đã gửi tới hội nghị véc
xây bản yêu sách gồm tám điêm đòi quyền tự do dân chủ cho nd VN.
Năm 1930, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng, HCM xđ mục tiêu CM: đánh đổ đế
quốc CN pháp và bọn PK, làm cho nc Nam đc hoàn toàn độc lập.
Tháng 5/ 1941, HCM chủ trì hội nghị lần thứ tám ban chấp hành TW Đảng hoàn thành chủ
trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dt.


CM t8 thành công người thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khẳng định trc
toàn thế giới nc VN có quyền tự do độc lập.
2.

Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành

độc lập
Là một ng yêu nc nồng nàn, lại hiểu sâu sắc đặc điểm lịch sử truyền thống dt, HCM có nhận
định đúng đắn: ‘ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa dt là một động lực lớn của đất nước”. Sự kđ đó
của NAQ dựa trên sự phân tích sâu sắc tình hình kinh tế - xh Đông Dương. Theo người do kinh
tế lạc hậu nên sự phân chia giai cấp chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra ko giống
p.Tây.
Từ nhận thức đúng đắn về các dt thuộc địa ở p.đông: “chủ nghĩa dt là một động lực lớn của đất
nước”, HCM còn chỉ rõ trong CMGPDT ở Vn “người ta sẽ không thể làm gì đc cho người An
Nam nếu ko dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống XH của họ”.
Như vậy xuất phát từ thực tiễn và truyền thống dt VN, NAQ đánh giá cao sức mạnh của CN dân
tộc vs ý nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần Dt chân chính.

3.

Kết hợp nhuần nhuyễn việc giải quyết vđ dt với vđ giai cấp trên lập trg của giai cấp Công nhân
Từ một con người yêu nước, đến vs cn Mác LN, HCM đã tìm thấy con đường đúng đắn để giải
phóng dt mình là con đường CM vô sản. Theo HCM GPDT phải gắn liền vs giải phóng giai cấp,
độc lập dt phải gắn liền vs CNXH. Nếu xóa bỏ áp bức mà ko xóa bỏ bóc lột và áp bức dt thì
ndlđ vẫn khổ cực.
Vận dụng sáng tạo lý luận cn Mac LN, HCM chỉ rõ vđ trc mắt cho các nc thuộc địa ở p.đông ko
phải là làm ngay 1 cuộc CM XHCN mà trc hết phải đấu tranh giành độc lập dt, sau đó mới có
đk tiến lên làm CM CNXH.
HCM cho rằng: độc lập dt còn phải hiểu là độc lập cho dt mình, đồng thời là độc lập cho tất cả
các dt. HCM kđ độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dt bởi vậy đấu
tranh cho độc lập tự do là phải gắn liền vs đấu tranh cho tất cả dân tộc bị áp bức.
>> tóm lại tư tưởng HCM về vđ dtoc vừa mang tính KH cao và tính CM sâu sắc, vừa là tư
tưởng dt chân chính và là tư tưởng quốc tế trong sáng. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dt


và giai cấp, CN yêu nc chân chính vs cn quốc tế trong sáng của giai cấp CN, độc lập dt gắn vs

CNXH, độc lập cho dt mình đồng thời độc lập cho tất cả các dt.
Ý nghĩa:việc vận dụng thực tiễn tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc có ý nghĩa to lớn. trước hết
nó khơi dậy sức mạnh tinh thần yêu nước và tinh thần dt, nguồn động lực manh mẽ để xd và
bảo vệ tổ quốc.

Câu 5. Phân tích luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc ko có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” rút ra ý nghĩa thực tiễn?
Trong giai đoạn 1920-1945, phong trào cách mạng vô sản trên thế giới
diễn ra sôi động và đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đồng thời phong trào giải
phóng dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ:
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, nhu cầu
về thuộc địa càng trở nên quan trọng. Sự bành trướng lãnh thổ của các nước đế
quốc đã dẫn đến một mâu thuẫn mới-đó là mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và
phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn này trở nên là một mâu
thuẫn cơ bản, hết sức sâu sắc và gay gắt của thời đại đế quốc chủ nghĩa. Năm 1848, chủ nghĩa
Mác-ăng ghen hình thành về cơ bản và đã nói lên quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư
bản kèm theo đó là sự ra đời của chủnghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản. Mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc về vấn đề
thuộc địa đã dẫn tới chiến tranh thế giới thứ nhất(1914-1918) và khiến cho chủ
nghĩa tư bản thời kỳ này có phần suy yếu. Trong bối cảnh đó, sự thắng lợi của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (7/11/1917) mở ra thời đại
mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đồng thời làm nảy
sinh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản do
Lênin sáng lập trở thành cơ sở tham


mưu cho phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc. Cùng với đó chủ nghĩa Mác dần xâm nhập vào các nước thuộc
địa, làm thức tỉnh ý thức dân tộc của người dân khiến cho phong trào giải phóng

dân tộc diễn ra mạnh mẽ. Về bối cảnh trong nước, qua hai cuộc khai thác thuộc địa, thực dân
Pháp
cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hoá của chính quốc gây biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, giai
cấp. Thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột kinh tế ở nông thôn vì vậy
nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc này song
song tồn tại hai mâu thuẫn, mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa nông dân với
địa chủ phong kiến vẫn tiếp tục diễn ra và mâu thuẫn mới hình thành là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Công nhân, nông dân,
tiểu tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp phong kiến địa chủ mâu thuẫn gaygắt với bọn cướp
nước và bán nước, từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách cần giải quyết trước hết là mâu thuẫn chủ yếu
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân đế quốc cùng bè lũ tay sai của chúng.Song, trước khi Đảng
Cộng sản ra đời thì các tổ chức yêu nước và cách mạng chưa nhận thức được mâu thuẫn chủ
yếu này. Nhân dân ta không ngừng đứng lên kháng chiến nhưng tất cả đều bị dìm trong máu lửa
do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nguyên nhân lớn nhất là nhận thức sai mâu thuẫn và khủng
hoảng đường lối cứu nước. Vượt qua sự hạn chế về mặt tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng theo xu hướng tư sản đương thời, NguyễnÁi Quốc đã đến với học thuyết cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Năm 1959, trong bài Con
đường giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, Người đã viết: “ Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Vậy, cách mạng vô
sản là gì? tại sao con đường cách mạng vô sản là duy nhấtđúng? xuất phát từ cơ sở lý luận và
thực tiễn nào mà Ngườiđã lựa chọn con đường đó làm con đường dẫn tới độc lập, hoà bình, ấm
no, hạnh phúc của nhân dân ta? Và nhân dân ta đã vận dụng tư tưởng này làm cơ sở cho quá
trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như thế nào?


1)

Về cách mạng vô sản: Trước hết, theo định nghĩa thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm
thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa, trong cuộc cách mạngđó, giai cấp công nhân là giai cấp

lãnhđạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Nếu như các cuộc cách mạng trướcđó kết thúc bằng việc giành chính quyền thì đối
với cách mạng vô sản, việc giành chính quyềnmới chỉ là bước đầu cho quá trình biến đổi cách
mạng toàn bộ đời sống xã hội. Cách mạng vô sản phải bao gồmcả hai thời kỳ: cách mạng về
chính trị với nội dung chính là thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và tiếp theo là thời kỳ
giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ về
mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng v.v..., xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực
hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của cách mạng vô sản là giải
phóng xã hội, giải phóng conngười. Cách mạng vô sản được lãnhđạo bởi giai cấp công nhân bởi
giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiệnđại, là lực lượngđại biểu cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương
lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnhđạo nhân dân lao động đấu
tranh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ mọi chế độáp bức bóc lột và xây dựng xã hội mớixã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Do đó,sứ mệnhđánh đổ giai cấp tư sản được
giao vào tay vô sản làđiều không cần bàn cãi. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị
kinh tế-xã hội của giai cấp này quy định nhưng đẻ biến khả năng khách quan đó thành hiện thực
thì phải thông qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân mà trong những nhân tố chủ quan
đó thì việc thành lậpĐảng Cộng sản là vô cùng quan trọng. MộtĐảng trung thành với lợi ích của
giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị,tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai
trò quyếtđịnh nhấtđảm bảocho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
mình.Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợiích và
trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, sự lãnhđạo củaĐảng cũng là sự
lãnhđạo của toàn thể giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản có lợiích cơ bản thống nhất với lợiích
của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thếĐảng có thể thực hiện giác ngộ
quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng.
2) Về cách mạng giải phóng dân tộc: Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm
lật đổách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của
nhân dân. trong hoàn cảnh của đất nước ta công cuộc giải phóng dân tộc lại gắn liền với cách


mạng vô sản. Sau đây là một vài phân tích để chỉ ra sự gắn kết tất yếu của cách mạng giải

phóng dân tộc và cách mạng vô sảnở Việt Nam.
3) Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản: Chủ nghĩa Mác chỉ cho các dân
tộc bịáp bức thấy rằng, thờiđại đế quốc chủ nghĩa “ tất nhiên cũng phải lại sản sinh ra và nuôi
dưỡng cái chính trị đấu tranh chốngáp bức dân tộc và cái chính trị đấu tranh của giai cấp vô sản
chống giai cấp tư sản; bởi vậy, thời kỳấyắt phải làm cho: một là, những cuộc khởi nghĩa và
những cuộc chiến tranh dân tộc cách mạng, hai là những cuộc chiến tranh và những cuộcnổi dậy
của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, ba là, sự kết hợp giữa hai hình thức chiến tranh cách
mạngđó, trở nên có khả năng xảy ra và không tránh khỏi.” C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã “nhìn
thấy rằng đằng sau những cuộc xung đột chính trịmang tính chất dân tộc, đằng sau khát vọng
của các dân tộc muốn thống nhất dân tộc, đằng sau những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia
dân tộc, giữa một bên là các quốc gia này và một bên là các dân tộc bị nô dịch, là cuộc đấu
tranh của các giai cấp- giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, bọn quý tộc ruộng đất, các tầng lớp xã
hội khác.
Lênin cũng chỉ ra rằng:” mâu thuẫn cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc là đấu tranh giữa tư sản
và vô sảnđã đến thời kỳ hiện thực cách mạng. Mâu thuẫn giữa đế quốc với thuộcđịa gắn liền với
mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản cũng mang tính thời sự nóng bỏng của sự nghiệp cách mạng
giải phóng.Qua đây có thể thấy vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong thờiđại chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc là một quy luật khách quan; mục tiêu giải
phóng dân tộc và mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người có mối quan hệ khăng
khít. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạngáp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân, mớiđảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sụ phát
triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc của conngười.
Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước
mạnh, mọi người được sung sướng, tự do. *Vậy, tại sao trong hoàn cảnh Việt Nam, cách mạng
vô sản là “con đường duy nhấtđúng “để cứu nước và giải phóng dân tộc? Để phân tích quan
điểm này trước tiên chúng ta cần tìm hiểu tận gốc nguyên nhân vì sao và con đường nàođã dẫn
Hồ Chủ tịchđi tới kết luận trên.
4) Tại sao là cách mạng vô sản mà không phải cách mạng thiết lập chế độ tư sản? Ở thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa các cuộc đấu tranh giải phóng thuộcđịa chống chủ nghĩa đế quốc mang tính
cách mạng theo hai xu hướng: cách mạng tư sản và cách mạng vô sản. Song xu hướng cách



mạng tư sản ngày càng bịđiều kiện lịch sử hạn chế, xu hướng cách mạng vô sản phù hợp với sự
phát triển lịch sử ngày càng có sức mạnh và tương lai rực rỡ hơn bởi vì: Giai cấp tư sảnở các
nước thuộcđịa ra đờitừ nền kinh tế thực dân đế quốc, cũng là sản phẩm của sự xâm lược
thuộcđịa của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Họ có mâu thuẫn với tư sản nước ngoài nhưng
thống nhất với tư sản nước ngoài về phương thức bóc lột giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản
phương Đông thuộcđịa mới ra đời, nhưng đã có bạn đồng minh là giai cấp vô sản phương Tây
lớn mạnhđãý thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Theo đó, tinh thần đấu tranh của tư
sản nước thuộcđịa chắc chắn không thể triệt để như giai cấp vô sản nên không thể trở thành lực
lượng lãnhđạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc thực dân được. Trong tác
phẩmĐường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã tổng kết các nét chính trong lịch sử cách mạng Mỹ,
Pháp và Nga, đồng thời rút ra bài học cho cách mạng Việt Nam: + Về cách mạng Mỹ: “Mỹ tuy
rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo
tính cách mệnh lầnhai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là
chưa phải cách mệnh đến nơi. Chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay bọnít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.” + Về cách mạng
Pháp: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong
kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến màáp bức dân. Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nóáp bức thuộcđịa.
Cách mệnhđã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới
hòng thoát khỏi vòngáp bức. Cáchmệnh An Nam nên nhớ nhữngđiềuấy. Dân chúng công nông
là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không lợi dụng được dân chúng nữa, thì nó phản
cách mệnh.” + Về cách mạng Nga(1917): “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga làđã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái phúc tự do, bình đẳng
thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam. Cách mạng Nga đãđuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước
và dân bịáp bức các thuộcđịa làm cách mệnh để đập đổ tất cả các đế quốc chủ nghĩa và tư bản

trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân
chúng (công nông) làm gốc, phải cóđảng vững bền, phải bền gan,phải hy sinh, phải thống nhất.


Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin.”Tất cả những luậnđiểm vàsự tổng kết
thực tiễn trên đều cho thấy: Việt Nam không còn con đường giải phóng dân tộc nào khác ngoài
tiến hành cách mạng vô sản.
Câu 6. Phân tích luận điểm: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cần đc tiến hành
chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trc cách mạng vô sản ở chính quốc của
HCM? Rút ra ý nghĩa thực tiễn?
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn
tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô
sản ở chính quốc.. Đầu thập kỷ thứ hai , nhiều người cộng sản Châu Âu cho rằng, chủ nghĩa
cộng sản không thể áp dụng ở các nước phương Đông, nơi kinh tế chưa phát triển. Họ coi
phong trào giải phóng dân tộc chỉ là đồng minh căn cứ vào đặc điểm châu á . Nhưng phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới đã khẳng định: "Chủ nghĩa Cộng sản thích nghi dễ dàng với
châu á hơn là với châu Âu" và theo Người: "Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là một bộ
phận khăng khít của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản".Đề cương về
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI
Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải
phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan
điểm này, vô hình chung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở
thuộc địa. Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là
quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: "Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào
giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô

sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra". Nhân dân các dân tộc thuộc
địa có khả năng cách mạng to lớn.Cho nên, công cuộc giải phóng thuộc địa có thể và phải chủ
động thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân nhân dân thuộc địa. Theo Hồ Chí Minh, khối liên


minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại
hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách
mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô
sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa... nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc", nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng
đuôi". Vận dụng công thức của C.Mác: sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân, Người đưa ra luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh em, (tức
nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". Do
nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh dân
tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân
châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng
tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Trong tác phẩm
Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng vô sản và cách
mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp
yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp làm cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do". Đây là một luận điểm
sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn.


Câu 7. Phân tích quan điểm của HCM về đặc trưng bản chất của CNXH? Rút
ra ý nghĩa?
- Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không hẳn chỉ
trong một bài viết hay trong một cuộc nói chuyện nào đó, mà tùy từng lúc, từng nơi, tùy từng
đối tượng người đọc, người nghe mà Người diễn đạt quan niệm của mình, vẫn là theo các


nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội nhưng với cách diễn đạt ngôn
ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy chất lý luận chính trị phong phú phức
tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống của nhân dân Việt Nam, rất mộc mạc dung dị,
dễ hiểu.
- Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa xã hội như là một
chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển
toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế mọi thiết chế cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu
giải phóng con người.
- Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên một số mặt
nào đó của nó như chính trị, kinh tế, văn hóa. xã hội... Với cách diễn đạt như thế của Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta không nên tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng
mặt của nó mà cần đặt trong một tổng thể chung.
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân, là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự
do là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cùng có cơm ăn
áo mặc ai cũng được học hành” như "ham muốn tột bậc" mà Người đã trả lời các nhà báo tháng
1 nám 19-16.
- Hồ Chí Minh nêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho nên với động lực xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại.

- Những đặc trưng chủ yếu
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, củng trên cơ sở của lý
luận Mác – Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị kinh tế, văn hóa - xã hội. Còn về cụ thể
chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
+ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ. nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao động
làm chủ. Nhà nước là của dân do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng
cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đểu tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết thành một khối
thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng như sự phát
triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng
trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân,
dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển
của khoa học - kỹ thuật


Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản
xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người
Đây là một vấn đề được hiểu nó như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi. Trong giai
đoạn đầu (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), vẫn có tình trạng bóc lột sức lao động của người lao
động làm thuê. Trong chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc
công bằng, hợp lý.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp
bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa
thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài

hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá
khứ vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội
là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng
điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm
quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị.
Ý nghĩa: Tư tưởng HCM về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở VN là một hệ thống bao
gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH, về tính tất yếu khách quan
của thời kỳ quá độ và các hình thức, biện pháp, bước đi trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta. - Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng HCM. - Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ, tổ chức các nguồn lực, trước hết là nguồn
lực nội sinh, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Đổi mới phải kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. - Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng thực hiện cần kiệm để xây dựng
CNXH.

Câu 8. Phân tích quan điểm HCM về mục tiêu động lực xây dựng CNXH? Ý
nghĩa việc xd và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH – HĐH.
- Những mục tiêu cơ bản


+ Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng,
nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then
chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và
mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta.
Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa
mãn các nhu cầu lợi ích thiết yếu của người lao động. Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ
nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc

cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Từ cách đặt vấn đề này theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm
bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây
dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét đặc sắc, thể hiện phong
cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân
dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân
dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu nâng cao đời sống toàn dân đó là tiêu chí tổng quát
để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và
chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu hoặc không
có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
+ Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con
người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp xã hội đến
giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do.
Như vậy. Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước là của dân do dân và vì dân.
Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân. chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai
chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác lại yêu cầu
phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân : chống lại chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực
hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội của quần chúng: củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của

chúng.


- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm
và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại. khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc
lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tê xã hội chủ nghĩa ở nước ta cẩn phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ
yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai
chân của nền kinh tế nước nhà”.
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn
mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
- Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội đó là xóa nạn mù
chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa - nghệ thuật,
thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị
đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người khẳng định: “phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung”: để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc,
đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là:
Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người.
Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là con người.
- Các động lực của chủ nghĩa xã hội
+ Theo Hồ Chí Minh, những động lực biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh thần; nội
sinh và ngoại sinh, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ; đồng thời chăm
lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
+ Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực quan trọng nhất. Hồ Chí
Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người cho rằng,

không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng
tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội
+ Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện
chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi. Người đặc
biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự
trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, làm cho
mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với
xã hội.
+ Cùng với động lực kinh tế. Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi
đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.


Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Làm thế
nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngừng phát triển.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
+ Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với sức mạnh thời đại,
tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới...
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là chỗ bên cạnh việc chỉ ra các
nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các
yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã
hội trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu... mà Người
gọi đó là “giặc nội xâm”.

Ý nghĩa phát huy nhân lực:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con
đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu

nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là
quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học
của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của
quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có
nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ
thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh
về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân
lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại
dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là
ngùôn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết
chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và
nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động
và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan
trọng nhất.


Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực
con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở
chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới
không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai
thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng
tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích
sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng
hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay

là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói
lên trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển
vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của
các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những
nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ
thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của
trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước"
hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công
nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự
biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của
công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách cũng như
tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa đặc biệt to
lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng
suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần
ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng
xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong
phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng
cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền
sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển
tự do và toàn diện nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực

quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu
cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực
to lớn cho quốc phòng.


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và
hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã hội v.v..

Câu 9: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi
lên CNXH ở Việt Nam? Liên hệ với quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta hiện nay.
Trả lời:
1.

Khái niệm: Quá độ là chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kì khác , chế độ này sang chế
độ khác, giải quyết tàn dư của xã hội trước và tạo mầm mống của xã hội tiên tiến hơn.

Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội
cũ thành xã hội mới : CNXH. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành dược chính quyền bắt
tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của CNXH
cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
2.

Các loại hình quá độ lên CNXH:

Theo quan điểm của các nhà chủ nghĩa Mác Lê nin, có 2 con đường quá độ lên CNXH :
-

3.


Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên CNXH từ những nước tư bản phát
triển ở trình độ cao.
Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên CNXH ở những nước chủ nghĩa tư bản phát
triển còn thấp hoặc như V.I.Leenin cho rằng , những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa
trải qua thời kì phát triển chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên CNXH được trong điều kiện
cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh
đạo ( trở thành Đảng cầm quyền|) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
 Việt Nam thuộc loại hình quá độ gián tiếp – quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành đc độc lập dân tộc đi lên CNXH.
Đặc điểm và mâu thuẫn cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đát nước theo xu hướng
tiến bộ và thực trạng kinh tế- xã hội quá thấp kém của nước ta.
4.

Những nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên XHCN ở Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, Thời kì quá độ lên CNXH thực chất là quá trình cải biến nền sản xuất
lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Thực chất của quá tình cải tạo và phát triển nền kinh tế
quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân
dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc


tế có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện ác hình thức đấu tranh cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhắm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội
chủ nghĩa.
Theo HCM, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên CNXH là một quá trình

dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên CNXH ở
Việt Nam gồm 2 nội dung lớn:
-

Một là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật cho CNXH, xây dựng các tiền đề về
kinh tế, chĩnh trị, văn hóa, tư tưởng cho CNXH.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy
xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.

HCM nhấn mạnh tư chất tuần tự, dần dần của thời kì quá độ lên CNXH. Tính chất phức tạp,
khó khăn của nó, được NGười lí giải trên các điểm sau:
-

-

-

Thứ nhất đay thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực
lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đòi hỏi đồng thời giải quyết
hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong di chúc, HCM đã coi sự nghiệp xây dựng
CNXH là cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân VN.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Đảng, nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh
nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta,
nên vừa phải làm, vừa học và có thể cú vấp váp và thiếu sút. Xây dựng xã hội mới bao
giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đó lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.

Quan điểm của HCM về nội dung xây dựng XHCN trong thời kì quá độ:
-


Trong lĩnh vực chính trị:

+ Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của ĐẢng. ĐẢng
phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có
hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ mới. Bước vào thời kì quá
độ lên CNXH. Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về
Đảng cầm quyền là làm sao không cho Đảng trở thành Đảng quan lieu, xa dân, thoái háo,
biến chất, làm mất long tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt
mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình
thức.
+ Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kì quá độ lên CNXH là củng cố và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công dân, nông dân, trí thức do Đảng
cộng sản lãnh đạo, củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như
từng thành tố của nó.


-

Trong lĩnh vực kinh tế :

+ HCM đề cập trên các mặt lục lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lí kinh tế.
Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành hóa công nghiệp xã
hội chủ nghĩa.
+ Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công nông nghiệp. láy nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản
xuất và xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
+ Đối với kinh tế, vùng, lãnh thổ, HCM lưu ý phải phát triển hàng đầu giữa kinh tế đô thị và
kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng hải đảo, núi vừa
tạo điều kiện không ngừng và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa đảm bảo an ninh quốc

phòng cho đất nước.
-

Trong lĩnh vực văn hóa xã hội:

HCM khẳng định phải triệt để xóa bỏ nền văn hóa nô dịch, lạc hậu, xây dựng nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng lối sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Người đặc
biệt nhấn mạnh nội dung xây dựng con người mới, đồng thời Người đề cao vai trò của văn
hóa, giáo dục và khoa học kĩ thuật trong phát triển đất nước chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ:

Câu 10: Trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng
HCM về đại đoàn kết dân tộc? Rút ra ý nghĩa thực tiễn.
Trả lời:
-

-

Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng VN. Trong
tư tưởng HCM đại đoàn kết dân tọc là vấn đề chiến lược lâu dài, xuyên suốt của cách
mạng VN, từ cách mạng dân tôc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính
sách, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đoàn kết dan tộc luôn đc HCM nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng. HCM đã nêu ra luận điểm khái quát có tính chân lý thể hiện mối quan hệ nhân
quả giữa đoàn kết với sự thành công của cách mạng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại doàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ pahir là nhiệm vụ mục tiêu hàng đầu của Đảng
mà còn là của dân tộc. Bởi lẽ đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp quần chúng, do


-

-

-

quần hcunsg và vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp đoàn kết quần chúng
tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh
phúc của nhân dân.
Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân VN. Không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là đoàn kết
các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam mà còn hiểu theo nghĩa rộng, ở cấp độ
phổ quát là đoan kết toàn dân. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, HCM yêu cầu phải xóa bỏ
mọi thành kiến, phải thật thà đoàn kết, đoàn kết thực sự, giúp nhau cùng tiến bộ để thực
hiện mục đích chung là “cứu nước, cứu dân tộc”, xây dựng nền độc lập và thống nhất của
của Tổ quốc, cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân. Như thế, HCM đã tìm mẫu số
chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu cách biệt, đặt tiến trình đi lên của lịch sử trên sự
quy tụ lợi ích chung thay vì loại trừ những lợi ích khác nhau. Điều mà HCM quan tâm
nhắc nhở là để đoàn kết toàn dân, đồi hỏi phải làm tốt công tác dân vận. Có như vậy mới
vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người nào, góp thành lực
lượng toàn dân. Đồng thời, Người chỉ rõ trong đoàn kết toàn dân phải thể hiện đúng lập
trường giai cấp công nhân, lấy liên minh công-nông-trí thức làmnên ftảng do Đảng cộng
sản lãnh đạo. Chỉ có như vậy mới củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân bền vững mà
không có thế lực nào có thể làm suy yếu đc.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc. Theo HCM để đạt được mục tiêu của cách mạng đại đoàn kết dân tộc không
thể chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng ở những lời kêu gọi mà phải trở thành một chiến

lược cách mạng, thành hành động thực tế của toàn Đảng toàn dân. HCM không những chỉ
rõ việc xây dựng và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược của cách mạng VN trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn đưa ra những nguyên tắc cơ bản để xây dựng, mở rộng
Mặt trận. Đoàn kết Mặt trận khôn gphải chỉ là trong thời gian nhất định mà phải lâu dài
và chặt chẽ, HCM đã nhiều lần nhắc nhở mặt trận phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối
vũng chắc, thống nhất tỏng sự đa dạng, phong phú rộng rãi của các lực lượng thành
phần.. HCM đòi hỏi một sự đoàn kết thực sự không phải đoàn kết ngaoì miệng mà đoàn
kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần.
Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Khi tìm thấy con đường cứu
nước, HCM đã sớm xác định cách mạng VN là 1 bộ phân của cách mạng thế giới. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng HCM đã đấu tranh không mệt mỏi để củng cố tăng
cường đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa chủng tộc chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Nếu như đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định đới với thắng
lợi của cách mạng VN thì đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng.

Rút ra ý nghĩa:
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng
nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính sau:
– Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn
kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại.


– Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều,
đoàn
kết
hình
thức,
nhất
thời.

– Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn
kết
tổchứckhông
tách
rời
nhau.
– Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ.
Đoàn
kết
trong
chính
sách
tập
hợp
các
tầng
lớp
nhân
dân.
– Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
– Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức
mạnh
của
đảng,
của
toàn
dân
tộc.
– Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.
– Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng – Đoàn kết toàn dân – Đoàn kết quốc tế.

– Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn
trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.

Câu 11: Trình bày những nguyên tắc cơ bản để xây dựng, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng HCM? Rút ra ý nghĩa thực
tiễn?


Những nguyên tắc cơ bản

-MTDTTN phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công-nông- trí thức, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng
Trong TT HCM, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công- nông luôn được Người xem xét
trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc dân tộc thống nhất
càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công-nông- trí thức càng được tăng cường, Mặt trận
dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không một kẻ thù nào có thể phá nổi.
HCM còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có điều
kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan
của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt
trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức
chính trị nào trong Mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp
và lợi ích của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác.
- MTDTTN phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng
rộng rãi và bền vững.
Mọi vấn đề của MTDTTN đều phải được đem ra để tất cả thành viên cùng bàn bạc công khai và
đi đến nhất trí


- MTDTTN phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của

các tầng lớp nhân dân.
HCM kết tinh vào tiêu chí của nước VN DCCH là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này
được Đảng và Chủ tịch HCM cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kì lịch sử.
- MTDTTN là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
HCM nhấn mạnh phương châm “ cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái
khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “ đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường
đoàn kết.


Ý nghĩa thực tiễn

Câu 12: Phân tích nội dung tư tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân,
vì dân? Rút ra ý nghĩa trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
-

-

Nói tới nhà nước của dân, HCM khẳng định vấn đề cơ bản là quyền lực nhà nước là của
nhân dân. Trong tư tưởng HCM, khái niệm “ nhân dân” có nội hàm rất lớn, mà nòng cốt
là nhân dân lao động, là bốn giai cấp : công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, do giai
cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Nhân dân nắm quyền lực
nhà nước và trao, ủy quyền của mình cho những người và cơ quan đại diện cho họ
trong bộ máy. Những người và cơ quan này do nhân dân lựa chọn bầu ra thông qua bầu
cử. Chính sách bầu cử, ứng cử là một vấn đề cốt tử trong việc hình thành bộ máy nhà
nước và là một trogn những chuẩn mực quan trọng xem xét bộ máy quyền lực có thực
sự của dân hay không. Nhận thức điều này, HCM đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi cuộc

tổng tuyển cử sau khi giành đc chính quyền.
Theo HCM, trong nhà nước của dân ở nước ta, người dân là chủ và được hưởng mọi
quyền dân chủ. Nhân dân có quyền làm bất cứ việc gì mà luật pháp không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Bằng thiết chế dân chủ nhà nước phải có trách nhiệm đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, kể cả quyền lập
pháp, tư pháp, hành pháp. Nhà nước phải đảm bảo cho nhân dân thực thi đầy đủ quyền
làm chủ của mình.
Nhà nước do dân trong tư tưởng HCM là nhà nước do nhân dân lập nên thông qua bầu
cử theo luật định nhân dân mình tự lựa chọn “bầu ra” “cử ra” những người vào cơ quan
nhà nước, HCM đã chỉ rõ những đại biểu trong quốc hội, những nhân viên trong chính


×