Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giáo dục kĩ năng sống thông qua môn đạo đức lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.66 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG

3
3
4
4
4
4
4
5

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY KĨ NĂNG SỐNG TRONG MÔN ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP MỘT

5

1. Các căn cứ khoa học của đề tài
1.1 Căn cứ vào mục tiêu giáo dục tiểu học
1.2. Căn cứ vào đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
1.3. Căn cứ vào định hướng giáo dục KNS trong nhà trường tiểu học
2. Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường tiểu học
2.1. Khái niệm kĩ năng sống
2.2. Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường tiểu học


3 Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1
3.1. Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức
3.2. Nội dung giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức lớp 1

5
5
5
5
5
5
6
6
6
6

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY KĨ NĂNG SỐNG TRONG MÔN ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÕNG LA

7

1. Đặc điểm của trường tiểu học Võng La
.2. Thực trạng dạy KNS trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học Võng La
2.1. Thuận lợi:
2.2. Khó khăn:

7

III. ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KĨ NĂNG
SỐNG TRONG MÔN ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1 Ở TRƯỜNG TIỂU

HỌC VÕNG LA

1. Một số biện pháp dạy KNS trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 ở
trường Tiểu học Võng La
1.1. Giáo dục kĩ năng tự nhận thức
1.2. Giáo dục kĩ năng giao tiếp
1.3. Giáo dục kĩ năng hợp tác
1.4. Giáo dục kĩ năng ra quyết định
1.5. Giáo dục kĩ năng đồng cảm, chia sẻ
1.6. Giáo dục kĩ năng làm chủ bản than
1.7. Giáo dục kĩ năng đặt mục tiêu
2. Thực nghiệm khoa học và kết quả
2.1. Mục đích thực nghiệm
2.2. Đối tượng thực nghiệm
2.3. Kết quả thực nghiệm
1

7
7
7
8
8
8
10
13
15
17
19
21
22

22
22
22


C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

23
23
23
25

2


A- MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục trong thời kì mới đặt ra yêu cầu cấp bách đó là đào tạo những
thế hệ con người có tri thức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, linh hoạt, sáng tạo
và được trang bị đầy đủ kĩ năng sống. Trong đó mục tiêu giáo dục Tiểu học đã
xác định “ Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đặc điểm, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để
học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”. Trên cơ sở đó, chương trình giáo dục
được xây dựng toàn diện thể hiện ở các môn học: Toán, Tiếng Việt, Khoa học,
Lịch sử và Địa lí, Đạo đức, Mĩ thuật, Âm nhạc,... đặc biệt chú trọng đến việc
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học,
giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo
dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết,
Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Mục tiêu
giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị hành vi sang
trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Từ năm học 2010-2011,
Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống (KNS) lồng ghép vào các môn
học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Nội dung giáo
dục kĩ năng sống đã được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục.
Một trong những môn học có nội dung giáo dục KNS khá rõ nét đó chính là
phân môn Đạo đức ở lớp 1. Môn Đạo đức giúp học sinh tìm hiểu các hành vi
Đạo đức đơn giản, cơ bản về hành vi thái độ của con người đối với xã hội; chú
trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng như quan sát, dự đoán, nêu
thắc mắc, đặt câu hỏi, tìm kiếm thông tin, phân tích, so sánh để giải đáp thắc
mắc,... đặc biệt chú trong đến kĩ năng vận dụng hành vi để ứng xử thích hợp
trong cuộc sống.
Với những đặc điểm về đối tượng và phương pháp nghiên cứu như vậy,
môn Đạo đức ở lớp 1 có khả năng lớn trong việc giáo dục KNS cho học sinh.
Giáo dục KNS là mục tiêu quan trọng trong dạy học môn Đạo đức. Thực hiện
tốt giáo dục KNS trong dạy môn Đạo đức sẽ góp phần chuyển các hành vi thành
thái độ và hành vi tích cực, phù hợp; giúp học sinh có thể xử trí có hiệu quả các
tình huống thực tế trong cuộc sống; giúp cho việc học tập môn Đạo đức có ý
nghĩa; mặt khác giúp các em nắm vững các hành vi Đạo đức. Với nội dung bao
hàm như vậy, đòi hỏi mỗi chúng ta – những nhà giáo dạy Tiểu học – phải truyền
thụ đến học sinh bằng con đường nào để các em không những có hành vi Đạo
đức mà các em còn phải có những kĩ năng cơ bản như: nhận thức về bản thân, về
giao tiếp và ứng xử thích hợp, ra quyết định và giải quyết vấn đề,...Với học sinh
lớp 1, vốn sống còn ít ỏi, các em chưa có nhiều vốn sống cũng như những kinh
nghiệm giải quyết các tình huống có vấn đề nên việc giáo dục KNS thông qua
môn học không phải dễ dàng. Chính vì vậy, mỗi giáo viên khi dạy phân môn

Đạo đức lớp 1 cần phải sử dụng các phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học
như thế nào để tổ chức cho học sinh được thực hành, trải nghiệm một số kĩ năng
3


cơ bản. Việc giáo dục KNS thông qua môn Đạo đức lớp 1 là vấn đề khiến cho
những giáo viên chúng ta quan tâm song chưa tìm được lời giải hữu hiệu. Đứng
trước thực tế trên, tôi có suy nghĩ là làm sao đưa giáo dục KNS thông qua việc
dạy phân môn Đạo đức lên một bước nhằm giúp các em thích ứng hơn nữa trong
thực tế cuộc sống. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp dạy kĩ
năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Võng La”
để nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thực trạng việ c dạy lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong phân
môn Đạo đức lớp 1. Trên cơ sở đó đề xuất một vài biện pháp giáo dục kĩ năng
sống trong phân môn Đạo đức lớp 1.
III. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu: Giáo dục kĩ năng sống trong môn học ở tiểu học
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp dạy kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho
học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Võng La
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy kĩ năng sống trong môn đạo đức cho
học sinh tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng của việc dạy kĩ năng sống trong môn đạo đức cho học
sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Võng La.
- Đề xuất một số biện pháp dạy kĩ năng sống trong môn đạo đức cho học sinh
lớp 1 ở trường Tiểu học Võng La .
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo dục KNS thông qua môn học ở tiểu học
- Địa bàn nghiên cứu: trường Tiểu học Võng La

- Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: giáo viên và học sinh khối 1 trường Tiểu
học Võng La.
- Thời gian nghiên cứu: năm học 2013 - 2014
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc sách, tài liệu tham khảo, văn
bản để thu thập các tư liệu, thông tin cần thiết liên quan đến đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra
Phương pháp thực nghiệm
- Nhóm phương pháp hỗ trợ
Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp so sánh đối chiếu

4


B - NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY KĨ NĂNG SỐNG TRONG MÔN
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1
1. Căn cứ khoa học của đề tài
1.1. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục tiểu học
Luật Giáo dục năm 2005, điều 2 đã xác định Mục tiêu của giáo dục Tiểu
học “Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.”. Như vậy mục tiêu giáo dục Tiểu
học đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những
năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực
tiễn.
1.2. Căn cứ vào đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học

Lứa tuổi tiểu học được các nhà tâm lí giáo dục gọi là “lứa tuổi khó khăn,
nhân cách đang hình thành. Các em đang ở giai đoạn hình thành và cố gắng
khẳng định giá trị cá nhân: bắt đầu có quan niệm về những điều quan trọng trong
cuộc sống, tìm hiểu và có chính kiến trước các nguyên tắc sống, nguyên tắc ứng
xử trong xã hội; có nhu cầu khám phá cuộc sống, dần dần tự đánh giá, tự đưa ra
quyết định về các hành động của mình trong từng hoàn cảnh… Tuy nhiên, do tư
duy cụ thể chiếm ưu thế nên khả năng tập trung chú ý thấp, thích những gì hấp
dẫn mới lạ. Chính vì vậy việc giáo dục KNS thông qua các môn học ở lớp 1 nói
chung và môn Đạo đức nói riêng là hết sức cần thiết. Nó không những giúp học
sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh hành vi mà còn giúp các em rèn luyện phát
triển một số kĩ năng cần thiết trong cuộc sống.
1.3. Căn cứ vào định hướng giáo dục KNS trong nhà trường tiểu học
Giáo dục KNS trong nhà trường phổ thông tập trung vào hai mục tiêu
chủ yếu:
- Trang bị cho học sinh các kiến thức và kĩ năng phù hợp trên cơ sở đó
hình thành những hành vi và thói quen lành mạnh thích hợp trong các mối quan
hệ và đời sống hàng ngày.
- Tạo cơ hội để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát
triển hài hòa về thể chất, thẩm mỹ, tinh thần và đạo đức.
2. Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường tiểu học
2.1. Khái niệm kĩ năng sống
Theo định nghĩa rộng, kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy
đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày (Tổ chức văn hóa, khoa
học và giáo dục Liên hợp quốc – UNESCO). Theo quan niệm này, kỹ năng sống
là những kỹ năng tâm lí xã hội liên quan đến tri thức, giá trị và thái độ;
Theo nghĩa hẹp, kỹ năng sống là những năng lực đáp ứng và những hành
vi tích cực giúp cá nhân giao tiếp có hiệu quả với người khác và giải quyết có
hiệu quả những vấn đề, khó khăn, thách thức của cuộc sống hàng ngày (Tổ chức
y tế thế giới – WHO). Theo quan niệm này, kỹ năng sống có nội hàm hẹp hơn,
nhưng là kỹ năng phức tạp hơn, đòi hỏi sự tổng hợp các yếu tố kiến thức, thái

độ, hành vi.
5


Vậy kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng
xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống( Có nghĩa là biến cái biết thành cái làm
trong thực tế cuộc sống một cách tích cực nhất)
Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho con người
tồn tại và thích ứng, giúp cho con người vững vàng trước cuộc sống có nhiều
thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại.
Kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm
của cuộc sống và do giáo dục mà có, chính cuộc đời trải nghiệm, va vấp , thành
công, thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kỹ năng sống, tuy
nhiên nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi, trải
nghiệm, sẽ thành công hơn.
Kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động, người trưởng thành
cũng cần học kỹ năng sống.
2.2. Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường tiểu học
Kỹ năng sống bao giờ cũng gắn với các nội dung giáo dục cụ thể và
thường được phân loại theo các mối quan hệ nhằm giúp người học có khả năng
ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự hoàn thiện mình. Đó là kỹ năng
nhận biết và sống với chính mình, gồm các kỹ năng như tự nhận thức, ứng phó
với căng thẳng, tự trọng, đương đầu với cảm xúc, thương lượng…; Kỹ năng ra
quyết định một cách hiệu quả, bao gồm các kỹ năng như tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định; Kỹ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các
kỹ năng như giao tiếp có hiệu quả, cảm thông với người khác, đứng vững trước
áp lực, tiêu cực của bạn bè, người khác (Biết từ chối).
Những người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những

khó khăn, thử thách; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và
làm chủ cuộc sống của chính họ. Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển
của cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề sức khỏe, xã hội và bảo vệ quyền
con người. Việc phòng ngừa sớm nguy cơ bất lợi có thể xảy ra sẽ thúc đẩy sự
lành mạnh hóa xã hội và nâng cao sức khỏe vật chất và tinh thần cho chính mình
và những người khác trong cộng đồng, đặc biệt là khi những tổn hại về mặt sức
khỏe đều bắt nguồn từ hành vi cá nhân.
3. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1
3.1. Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức
Giáo dục KNS trong môn Đạo đức nhằm trang bị những kiến thức cơ bản
ban đầu, giúp các em biết ứng xử phù hợp với những người thân trong gia đình,
với bạn bè, những người xung quanh và môi trường. Có những kĩ năng thích
hợp sẽ giúp các em tự tin, chủ động sống tích cực, biết sống có kế hoạch, ngăn
nắp, gọn gàng để trở thành con ngoan trong gia đình, học sinh tốt trong nhà
trường và công dân tốt của xã hội.
3.2. Nội dung giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức lớp 1
- Giáo dục kĩ năng nhận thức thông qua bài “Lễ phép với anh chị, nhường
nhịn em nhỏ” và bài “Cảm ơn và xin lỗi”.
6


- Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua bài “Em là học sinh lớp Một” và
bài “ Chào hỏi và tạm biệt”.
- Giáo dục kĩ năng hợp tác thông qua bài “Em và các bạn” và bài “ Bảo vệ
cây và hoa nơi công cộng”.
- Giáo dục kĩ năng ra quyết định thông qua bài “Đi bộ đúng nơi quy định”
và bài “ Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng”.
- Giáo dục kĩ năng Đồng cảm, chia sẻ thông qua bài “Trật tự trong trường
học” và bài “ Gia đình em”.
- Giáo dục kĩ năng làm chủ bản thân thông qua bài “ Gọn gàng, sạch sẽ”

và bài “ Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập”.
- Giáo dục kĩ năng đặt mục tiêu thông qua bài “ Đi học đều, đúng giờ”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY KĨ NĂNG SỐNG TRONG MÔN
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÕNG LA
1. Đặc điểm của trường tiểu học Võng La
Trường Tiểu học Võng La là một ngôi trường nhỏ thuộc ngoại thành Hà
nội. Trường nằm ở vị trí xa trung tâm nên rất hạn chế trong việc giao lưu và
tham gia các hoạt động lớn được tổ chức trong khu vực. Hơn nữa, số lượng học
sinh của trường ít, đa số là con em nông dân thuần túy, cha mẹ không có việc
làm ổn định, nhiều người làm nghề buôn bán tự do nên thường phải dậy đi làm
từ rất sớm. Học sinh đa số phải tự túc ăn sáng, tự túc trang phục trước khi đến
trường. Do đó, việc lĩnh hội các kĩ năng sống cho bản thân từ gia đình còn nhiều
hạn chế. Chính vì vậy, trong nhà trường, việc lồng ghép kĩ năng sống vào trong
các môn học là điều cần thiết và quan trọng, góp phần hình thành và phát triển
nhân cách cho trẻ. Đặc biệt môn Đạo đức nói chung và môn Đạo đức lớp Một
nói riêng là môn học dễ dàng lồng ghép giáo dục kĩ năng sống, góp phần giúp
học sinh phát triển toàn diện.
2. Thực trạng dạy KNS trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 ở trường
tiểu học Võng La
2.1. Thuận lợi:
* Về phía giáo viên:
- Thuận lợi lớn của giáo viên hiện nay đó là Bộ GD-ĐT đã phát hành tài liệu
giáo dục KNS cho giáo viên.
- Đã có nhiều năm dạy lớp 1, nắm chắc được phương pháp dạy học các môn nói
chung và phân môn Đạo đức nói riêng.
- Giáo viên được đi tập huấn ở trường Bồi dưỡng cán bộ quản lí về giảng dạy
KNS thông qua các môn học Tiểu học.
- Giáo viên được học tập các chuyên san, chuyên đề do trường tổ chức.
* Về phía häc sinh:
- Học sinh luôn say mê học hỏi, tìm tòi, tìm hiểu thế giới tự nhiên, con người và

xã hội.
- Học sinh vùng nông thôn, các em ngoan ngoãn, trình độ học sinh đồng đều. Đa
số các em đều biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế.
2.2. Khó khăn:
Qua dự giờ thăm lớp tôi nhận thấy:
7


- Trong trường Tiểu học của chúng ta hiện nay, mặc dù thời gian biểu, cũng như
phân lượng thời gian số tiết cho các môn học rất rõ ràng, nhưng ở môn Đạo đức
nhiều khi giáo viên coi là môn phụ, bởi vì khối lượng kiến thức Toán và Tiếng
Việt rất nhiều nên phân môn Đạo đức bị lấn lướt và cắt giảm thời lượng.
- Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm với cách tổ chức hoạt động tích cực cho trò
lĩnh hội kiến thức. Hoặc có tổ chức thì còn lúng túng, mất thời gian, còn qua loa
đại khái dẫn tới kết quả tiết học chưa được cao.
- Đặc biệt sự lồng ghép giáo dục KNS trong mỗi bài còn chưa được giáo viên
quan tâm nhiều.
Từ thực tế trên đã thôi thúc tôi – Một giáo viên vốn rất tâm huyết với nghề đã
có nhiều năm dạy lớp 1 – nghiên cứu, tìm tòi vận dụng dạy lồng ghép giáo dục
KNS trong phân môn Đạo đức lớp 1.
III. ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KĨ
NĂNG SỐNG TRONG MÔN ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1 Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC VÕNG LA
1. Một số biện pháp dạy KNS trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học Võng La
Trên cơ sở trang bị cho học sinh các kiến thức của môn học về hành vi của
con người, của xã hội, môn Đạo đức1 giúp hình thành và phát triển nhiều kĩ
năng cho học sinh. Một trong những kĩ năng đó là:
1.1. Giáo dục kĩ năng tự nhận thức:
Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân. Kĩ năng tự nhận thức

là khả năng của con người hiểu về chính bản thân mình như: cơ thể, tư tưởng,
các mối quan hệ của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình
cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu, ... của bản thân; quan tâm và
luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của học sinh Tiểu học, là nền tảng để
học sinh giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có
thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, học sinh
mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với với
khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại đánh
giá về bản thân không đúng có thể dẫn đến những hạn chế, sai lầm, thất bại
trong cuộc sống và giao tiếp với người khác.
Nếu như trước đây dạy học phân môn Đạo đức chỉ đơn thuần là thầy truyền
thụ hành vi, học sinh tiếp thu. Thầy là người định hướng giúp học sinh tìm ra
hành vi và ghi nhớ hành vi, các em học xong không có sự vận dụng hành vi vào
cuộc sống chính vì vậy mà các em rất chóng quên, các kĩ năng sống không được
thể hiện trong cuộc sống. Đặc biệt kĩ năng sống nói chung và kĩ năng tự nhận
thức nói riêng rất mờ nhạt. Giáo dục kĩ năng tự nhận thức cho học sinh thông
qua môn Đạo đức trước hết người giáo viên cần nắm được: nhân cách của học
sinh chỉ được phát triển thông qua chính hoạt động của học sinh. Vì vậy trong
các tiết dạy, tôi luôn chú trọng đến việc tổ chức cho học sinh trao đổi nhóm, thảo
luận các vấn đề, tổ chức công tác tự lập của học sinh. Từ việc nắm bắt được
hành vi của bài các em sẽ chuyển hành vi thành thái độ, hành vi tích cực phù
hợp. Từ đó giáo viên liên hệ tới thực tế cuộc sống của các em giúp các em có kĩ
8


năng nhận thức ngay từ những bài học ở lớp, ở trường. Điều đó giúp các em
thích nghi dần với cuộc sống, tự nhận thức được về mình và hiểu được về mình.
Để nhận thức đúng về bản thân tôi đã giúp các em có nhiều cơ hội được trải
nghiệm qua thực tế, đặc biệt là qua giao tiếp với người khác. Phân môn Đạo đức

có đặc thù là một phân môn có nhiều hoạt động mang tính thực tế đó chính là cơ
hội để các em được thể hiện mình, tự nhận thức về bản thân mình.
Ví dụ khi dạy bài: Nghiêm trang khi chào cờ
* Mục tiêu: Sau bài học, học sinh biết:
- Trẻ em có quyền có quốc tịch.
- Quốc kì Việt Nam là lá cờ đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng 5 cánh.
- Quốc kì là vật tượng trưng cho đất nước vì vậy ta cần phải trân trọng và
giữ gìn.
- HS thấy tự hào vì mình là người Việt Nam, biết tôn kính quốc kì và yêu
quý tổ quốc Việt Nam.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng tự nhận thức về tầm quan trọng của lá Quốc kì: Quốc kì là vật
tượng trưng cho đất nước, cần phải trân trọng và giữ gìn.
- Kĩ năng xác định giá trị bản thân: mỗi trẻ em đều có quyền có quốc tịch.
* Cách tiến hành;
- Để giáo dục kĩ năng tự nhận thức và xác định giá trị bản thân tôi hướng
dẫn HS đi vào hoạt động 1 của bài: Đàm thoại
+ Các bạn nhỏ trong tranh đang làm gì?
+ Các bạn ấy là người nước nào? Vì sao em biết?
Yêu cầu HS trả lời, GV ghi bảng, nhận xét.
Qua hoạt động này, HS sẽ tự nhận thức được: Mình là người Việt Nam;
Quốc kì của nước Việt Na có màu đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng 5 cánh; Mỗi bạn
nhỏ sinh ra đều có quyền có Quốc tịch.
Sang hoạt động 2: HS tiếp tục đàm thoại
+ Những người trong tranh đang làm gì?
+ Tư thế của họ khi đứng chào cờ như thế nào? Vì sao họ lại đứng nghiêm
trang khi chào cờ?
Qua sự trình bày của học sinh, tôi giáo dục cho các em cần có thái độ,
hành vi đúng đắn khi chào cờ. Bởi vì: Chào cờ là một trong những hoạt động
không thể thiếu đối với mỗi học sinh. Không những thế, chào cờ còn có ý nghĩa

thiêng liêng, thể hiện sự tôn nghiêm của mỗi dân tộc. Đó còn là niềm tự hào của
mỗi quốc gia, khẳng định quyền độc lập của đất nước...
Hoặc với bài: Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ.
* Mục tiêu: Sau bài học, HS biết
- Đối với anh chị cần lễ phép, đối với em nhỏ cần nhường nhịn. Có như
vậy, anh chị em mới hòa thuận, cha mẹ mới vui lòng.
- HS biết cư xử lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ trong gia đình.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
Kĩ năng tự nhận thức thái độ và hành động đối với anh chị em trong gia
đình.
Kĩ năng giao tiếp, ứng xử đúng đắn trong mối quan hệ với anh chị em.
9


* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng nhận thức cho học sinh, tôi đã tiến hành cho HS thảo
luận nhóm, phân tích tình huống trong hoạt động 2: Trình bày những cách giải
quyết có thể xảy ra trong tình huống đó.
HS quan sát, nêu nội dung tranh:
GV nêu câu hỏi: Theo em, bạn Lan ở tranh 1 có thể có những cách giải
quyết nào?
+ Lan nhận quà và giữ tất cả cho mình.
+ Lan nhận quà chia cho em quả bé còn mình giữ quả to.
+ Lan chia mỗi người một nửa quả bé, một nửa quả to.
+ Lan chia cho em quả to, nhận phần mình quả bé.
+ Lan nhường cho e chọn trước.
+ Lan cho em cả hai quả táo.
Hỏi: Nếu con là bạn Lan, con sẽ giải quyết thế nào?
Lúc này, tôi sẽ cho HS tự trình bày ý kiến của mình. Qua việc trình bày
của HS và kết quả nhận xét định hướng của GV, tôi đã giáo dục cho HS kĩ năng

tự nhận thức và kĩ năng giao tiếp ứng xử đúng đắn. Từ nhận thức đúng đắn sẽ
giúp các em có hành vi giao tiếp, ứng xử chuẩn mực trong giao tiếp. Từ đó hình
thành cho các em những kĩ năng sống cơ bản ngay từ lứa tuổi tiểu học.
Hoặc với bài: Cảm ơn và xin lỗi
* Mục tiêu: HS biết
- Nói lời cảm ơn, xin lỗi trong các tình huống giao tiếp hàng ngày.
- Tôn trọng, chân thành khi giao tiếp.
- Quý trọng những người biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng tự nhận thức những tình huống cần nói lời cảm ơn hay xin lỗi.
- Kĩ năng xác định giá trị bản thân: cần nói lời xin lỗi khi mắc lỗi cũng
như nhận lời xin lỗi từ người khác khi người khác mắc lỗi với mình; cảm ơn khi
nhận được sự quan tâm, chia sẻ từ người khác cũng như biết quan tâm, chia sẻ,
giúp đỡ mọi người xung quanh.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng này cho HS, tôi đã tiến hành cho HS thảo luận nhóm
ở hoạt động 2, giúp HS biết:
Cần nói lời cảm ơn, xin lỗi trong các trường hợp: Được nhận quà trong
ngày sinh nhật; được bạn cho mượn bút trong giờ viết khi mình quên không
mang bút; sơ ý làm rơi hộp bút của bạn xuống sàn lớp học; sơ ý làm vỡ bình
hoa...
Tóm lại: Giáo dục kĩ năng tự nhận thức thông qua môn Đạo đức lớp 1
giúp các em chuyển các hành vi thành thái độ, hành vi tích cực, phù hợp. Các
em có những suy nghĩ tích cực, tự tin, làm chủ được bản thân trước tình huống
trong cuộc sống hàng ngày.
1.2. Giáo dục kĩ năng giao tiếp:
Đây là kĩ năng rất quan trọng đối với học sinh. Kĩ năng giao tiếp là khả năng
có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ
một cách phù hợp với hoàn cảnh, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến
10



người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về
suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ
và sự tư vấn khi cần thiết.
Kĩ năng giao tiếp giúp học sinh biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm
xúc nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp
cho học sinh có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết giữ gìn mối
quan hệ tích cực với mọi người xung quanh; đồng thời biết cách xây dựng mối
quan hệ với bạn bè. Người có kĩ năng giao tiếp biết dung hòa đối với mong đợi
của người khác; có cách ứng xử phù hợp khi làm việc cùng với các bạn.
Trong phân môn Đạo đức, ngoài việc truyền thụ hành vi của bài, việc giáo
dục kĩ năng giao tiếp cho các em luôn được tôi quan tâm. Thông qua các tiết học
tôi đã tạo điều kiện cho các em được nói với nhau, trao đổi với nhau về những
vấn đề của bài học cũng như những vấn đề liên quan tới cuộc sống xung quanh
các em. Các em được lắng nghe ý kiến của nhau và có sự phản hồi tích cực trong
các tiết học. Các em được trình bày mọi suy nghĩ, ý tưởng của mình. Chính
trong những hoạt động đó, kĩ năng giao tiếp của các em được hình thành và phát
triển. Ngoài ra, tôi còn yêu cầu các em vận dụng hành vi đã học vào thực tế cuộc
sống. các em có thể trao đổi với những người xung quanh về những mảng kiến
thức có liên quan đến cuộc sống của mình. Hàng ngày, với những việc làm như
vậy, kĩ năng giao tiếp của các em được phát triển. Việc giáo dục kĩ năng giao
tiếp được lồng ghép trong tiết học rất nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả cao.
Thông thường với mỗi bài Đạo đức việc giáo dục kĩ năng giao tiếp thường
được tôi tiến hành trong hoạt động thảo luận - đóng vai xử lí tình huống.
.Ví dụ khi dạy bài: Em là học sinh lớp Một
* Mục tiêu: Sau bài học, HS biết:
Vào lớp Một, em sẽ có thêm nhiều bạn mới, có thầy giáo, cô giáo mới,
trường lớp mới, em sẽ được học thêm nhiều điều mới lạ.

Biết yêu quý bạn bè, thầy giáo, cô giáo, trường lớp.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng tổng hợp, tư duy hệ thống các thông tin về buổi đầu tiên đi học.
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi tham gia vào trò chơi “ Vòng tròn giới
thiệu tên”
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua bài học, tôi hướng dẫn HS thông
qua hoạt động 1 của bài: Trò chơi: Vòng tròn giới thiệu tên
+Mục đích: giúp HS biết giới thiệu, tự giới thiệu tên của mình và nhớ tên
của bạn trong lớp; biết trẻ em có quyền có họ tên.
+ Cách chơi: HS đứng thành vòng tròn ( mỗi vòng tròn khoảng 6 – 10 em)
và điểm danh từ 1 đến hết. Đầu tiên, em thứ nhất giới thiệu tên mình. Sau đó, em
thứ hai giới thiệu tên bạn thứ nhất và tên mình. Đến em thứ ba lại giới thiệu tên
bạn thứ nhất, bạn thứ hai và tên mình. Cứ như vậy cho đến khi tất cả mọi người
trong vòng tròn đều được giới thiêu tên.
+ Thảo luận
Trò chơi giúp em điều gì?
11


Em có thấy sung sướng và tự hào khi tự giới thiệu tên với các bạn, khi
nghe các bạn không giới thiệu tên mình không?
Gọi HS trình bày sau đó tôi kết luận
Qua việc trình, các em đều hiểu: Mỗi chúng ta đều có quyền được đặt tên.
Tên của chúng ta đều được mọi người công nhận và tôn trọng đồng thời mỗi
chúng ta cần phải tôn trọng tên gọi của người khác. Có tên gọi ta mới có thể
phân biệt được người này với người kia.
Hoặc với bài: Chào hỏi và tạm biệt
* Mục tiêu: Sau bài học, HS biết
- Cần phải chào hỏi khi gặp gỡ, tạm biệt khi chia tay.

- Hiểu trẻ em có quyền được tôn trọng, không bị phân biệt đối xử.
- Biết phân biệt hành vi chào hỏi, tạm biệt đúng với chào hỏi, tạm biệt
chưa đúng.
Biết chào hỏi, tạm biệt trong các tình huống hàng ngày.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
-Kĩ năng phân tích, xử lí thông tin rút ra hành động đúng, hợp tình huống
trong giao tiếp hàng ngày.
-Kĩ năng giao tiếp, ứng xử phù hợp khi sử dụng lời nói: chào hỏi hay tạm
biệt.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục HS kĩ năng giao tiếp, ứng xử thông qua bài học, tôi hướng
dẫn HS thông qua hoạt động 3 của bài: Đóng vai
+ Bước 1: Thảo luận chung
Khi chúng ta gặp một ai đó hoặc muốn chia tay với một ai đó ta cần nói
như thế nào?
+ Bước 2: Làm việc theo nhóm:
Tôi chia lớp thành 10 nhóm: 5 nhóm sẽ thảo luận chung một tình huống.
(hoặc chia tổ 1,2 thảo luận nhóm 4 tình huống 1; tổ 3,4 thảo luận nhóm 4 tình
huống 2)
- Tình huống 1: Mai và Lan đang đi trên đường, gặp một bà cụ đang
chống gậy đi tới. Mai và Lan dừng lại lễ phép chào bà.
- Tình huống 2: Quân, Nam và Hà đi học về cùng nhâu. Đến nhà Quân,
Quân nói lời chào tạm biệt các bạn để về nhà.
+ Bước 3: làm việc chung:
Tất cả các nhóm đóng vai theo tình huống của nhóm mình. Nhóm khác bổ
sung.
Giáo viên nêu câu hỏi cho cả lớp thảo luận:
-Trong trường hợp gặp một ai đó, con muốn chào thì con sẽ nói như thế
nào?
-Trong trường hợp con muốn tạm biệt một ai đó, con sẽ nói như thế nào?

Gọi học sinh trình bày, sau đó tôi kết luận:
Qua việc trình bày, các em hiểu: Chúng ta cần nói lời chào hỏi khi gặp
mặt, nói lời tạm biệt khi chia tay. Tùy theo độ tuổi của người cần chào hỏi hoặc
tạm biệt ta sẽ nói câu chào hoặc tạm biệt sao cho phù hợp, thể hiện thái độ lịch
sự, lễ phép và thân thiện trước mọi người.
12


Qua đó, kĩ năng giao tiếp được phát triển, các em đã biết giao tiếp phù
hợp với hoàn cảnh.
Qua đó kĩ năng giao tiếp của các em được phát triển, các em đã biết giao
tiếp phù hợp với hoàn cảnh.
1.3. Giáo dục kĩ năng hợp tác:
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Kĩ năng hợp tác là khả năng học
sinh biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với
những thành viên khác trong nhóm.
Biểu hiện của người có kĩ năng hợp tác:
- Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng những
quyết định chung, những điều đã cam kết.
- Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thôgn, chia sẻ với các thành
viên khác trong nhóm.
- Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người
trong nhóm.
Kĩ năng hợp tác là kĩ năng rất quan trọng đối với học sinh vì mỗi người đều có
điểm mạnh và hạn chế riêng. Sự hợp tác trong công việc giúp các em hỗ trợ, bổ
sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất, vượt qua khó
khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn cho công việc chung. Kĩ năng hợp
tác còn giúp cá nhân học sinh sống hài hòa và tránh xung đột trong quan hệ với

người khác. Kĩ năng hợp tác là kĩ năng rất phổ biến trong phân môn Đạo đức lớp
1, nó cho phép học sinh có cơ hội để diễn đạt và khám phá ý tưởng của mình,
mở rộng suy nghĩ hiểu biết và rèn luyện kĩ năng nói. Trong mỗi tiết học, tôi
thường chú trọng đến hoạt động thảo luận nhóm. Ở hoạt động thảo luận nhóm,
giáo viên tổ chức cho học sinh đối thoại với nhau, nhằm huy động trí tuệ của tập
thể, giải quyết một vấn đề do thực tế cuộc sống đòi hỏi để tìm ra hoặc đưa ra
những giải pháp hoặc những kiến nghị, những quan niệm mới. Như vậy kĩ năng
hợp tác được hình thành và tạo ra được môi trường xã hội thuận lợi để trẻ hình
thành tính cách. Để giáo dục kĩ năng hợp tác trong phân môn Đạo đức thì học
sinh giữ vai trò tích cực và chủ động tham gia thảo luận và tranh luận, giáo viên
giữ vai trò nêu vấn đề gợi ý khi cần thiết và tổng kết thảo luận. Giáo dục kĩ năng
hợp tác thông qua thảo luận nhóm, phải có sự tham gia của mọi thành viên thể
hiện:
+ Các em phải nói với nhau
+ Nghe lẫn nhau
+ Đáp lại điều bạn khác nói
+ Đưa ra ý kiến của riêng mình
Để giúp các em có được kĩ năng hợp tác thông qua các tiết học phân môn
Đạo đức tôi đã áp dụng triệt để trong các tiết học song hoạt động giáo dục nhiều
nhất đó là hoạt động thảo luận nhóm.
Ví dụ khi dạy bài: Em và các bạn
* Mục tiêu: Sau bài học, học sinh biết
13


- Trẻ em có quyền được học tập, được vui chơi, có quyền được kết giao
bạn bè.
- Cần phải đoàn kết, thân ái với bạn bè khi cùng học, cùng chơi.
- Có hành vi ứng xử đúng với bạn khi học, khi chơi.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:

- Kĩ năng lựa chọ và xử lí thông tin.
- Kĩ năng hợp tác với các bạn để hoàn thành trò chơi " Tặng hoa" và trò
chơi " phóng viên"
- Kĩ năng giao tiếp, tự tin với bạn bè trong các hoạt đong học tập và vui
chơi.
* Cách tiến hành:
Để giáo dụ kĩ năng hợp tác cho học sinh, tôi tiến hành cho học sinh chơi
trò chơi " Tặng hoa" ở hoạt động 1 và trò chơi " Phóng viên" ở hoạt động 3 (tiết
2). Ví dụ hướng dẫn học sinh trong trò chơi : "Phóng viên"
+ Bước 1: làm việc theo nhóm
Tôi chia lớp làm việc theo nhóm 2. Một bạn hỏi, một bạn trả lời theo
những câu hỏi sau:
+ Bạn thích chơi cùng ai nhất trong lớp?
+ Bạn thích trò chơi nào nhất?
+ Bạn thích ăn món nào nhất?
+ Bạn thích bài hát nào nhất?
+ Bạn thích quyển truyện nào nhất?...
Yêu cầu HS nói với nhau trong nhóm (có n ngược chiều) để tìm ra những
sở tích chung của từng nhóm.
+ Bước 2: Làm việc chung
Đại diện các nhóm lên thảo luận trước lớp. Học sinh có nhiệm vụ ghi các
câu trả lời ra giấy và tổng hợp xem có bao nhiêu bạn có câu trả lời giống mình.
Tổng hợp lại những câu trả lời có trùng ý kiến nhiều nhất.
Với hoạt động này, tôi thấy các em được rèn luyện nhiều về sự hợp tác
trong công việc chung, thấy được sự cần thiết của kĩ năng hợp tác nhóm.
Hoặc với bài: Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.
*Mục tiêu: Sau bài học, học sinh hiểu:
- lợi ích của cây và hoa nơi công cộng đối với cuộc sống con người.
- Cách bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.
- Biết bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.

* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng lựa chọn và xử lí thông tin.
- Kĩ năng hợp tác giữa các thành viên nhiều nhóm để bảo vệ cây và hoa
nơi công cộng.
- Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng để bảo vệ cây và hoa nơi công cộng
nơi mình đang sống và học tập.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng hợp tác cho học sinh, tôi tiến hành cho học sinh làm
việc theo nhóm ở hoạt động 3 (tiết 2): Thực hành xây dựng kế hoạch bảo vệ cây
và hoa. (10 phút)
14


+ Bước 1: Làm việc theo nhóm tổ: Thảo luận các vấn đề
. Nhận bảo vệ và chăm sóc cây và hoa ở đâu?
. Thời gian chăm sóc vào bao giờ?
. Bằng những việc làm cụ thể nào?
. Phân công phụ trách việc.
Yêu cầu học sinh thảo luận, trao đổi thông tin, giao nhiệm vụ cụ thể nhằm
xây dựng kế hoạch riêng cho tổ. Phân công nhiệm vụ cho từng thành viên; bảo
đảm công bằng, hợp lí và linh hoạt.
+ bước 2: Làm việc chung (10 phút)
Mỗi tổ sẽ cử đại diện 2 em lên trình bày kế hoạch hành động của tổ mình. Cả
lớp lắng nghe bổ sung và lập kế hoạch thống nhất chung cho cả lớp.
Qua hoạt động này, các em thấy được tác dụng của hợp tác nhóm trong
công việc. Qua việc giáo dục kĩ năng hợp tác tôi thấy các em rất tích cực tham
gia vào hoạt động chung, dễ dàng đưa ra những sáng kiến mới. Các em có ý
thức cộng đồng, cùng gánh vác công việc chung của nhóm để nhóm mình có thể
hoàn thành nhiệm vụ với kết quả cao nhất, không đùn đẩy thoái thác công việc
cho người khác.

Tóm lại: Giáo dục kĩ năng hợp tác nhóm trong phân môn Đạo đức lớp 1
giúp cho học sinh phát triển được khả năng hợp tác trong công việc, các em nắm
chắc được hành vi. Khác hẳn khi làm việc độc lập, sự hợp tác trong công việc
giúp các em dễ dàng tìm ra được cách làm và đáp án của bài. Ngoài ra các em
còn vận dụng rất tốt trong việc học tập các môn học khác cũng như trong cuộc
sống hàng ngày.
1.4. Giáo dục kĩ năng ra quyết định:
Thông qua phân môn Đạo đức ở lớp 1 giáo dục kĩ năng ra quyết định cũng
được thể hiện rất rõ nét. Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối
mặt với những tình huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa
chọn, đưa ra quyết định hành động. Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá
nhân học sinh biết quyết định lựa chọn phương pháp tối ưu để giải quyết vấn đề
tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời. Mỗi cá nhân phải tự ra
quyết định cho bản thân, không nên trông chờ phụ thuộc vào người khác; mặc
dù cũng có thể tham khảo ý kiến của người tin cậy trước khi ra quyết định. Kĩ
năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho học sinh có được sự
lựa chọn phù hợp kịp thời, đem lại thành công trong học tập. Ngược lại, nếu
không có kĩ năng ra quyết định, học sinh có thể có những quyết định sai lầm
hoặc chậm chễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ đến công việc và
tương lai cuộc sống của bản thân, bạn bè và những người có liên quan. Tuy
nhiên để giúp học sinh ra quyết định một cách phù hợp, chúng ta cần phối hợp
với những kĩ năng sống như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tự xác định giá
trị,...Giáo dục kĩ năng ra quyết định cho học sinh thông qua phân môn Đạo đức
thường được tôi giáo dục qua những bài có hoạt động “nên hay không nên” hoặc
một số bài yêu cầu học sinh phải lựa chọn tình huống cần làm phù hợp với bản
thân. Trong các hoạt động của bài học tôi thường để học sinh tự quyết định ý
kiến của mình để tìm hiểu bài học. Giáo viên luôn tôn trọng ý kiến của học sinh
khi học sinh ra quyết định đúng đắn với những nội dung hành vi của bài. Từ việc
15



ra quyết định đúng đắn, phù hợp giáo viên liên hệ tới học sinh những vấn đề mà
bài học mang đến có liên quan tới cuộc sống của các em. Từ đó các em sẽ phải
tự ra quyết định phù hợp mà không cần đến sự hỗ trợ của người lớn. Kĩ năng ra
quyết định được hình thành trong những tiết học và được ứng dụng trong cuộc
sống của các em.
Ví dụ khi dạy bài: Đi bộ đúng nơi quy định.
*Mục tiêu: Qua bài học, học sinh biết
- Phải đi bộ trên vỉa hè, nếu đường không có vỉa hè phải đi sát lề bên phải.
- Qua đường ở ngã ba, ngã tư phải đi theo đèn tín hiệu và đi vào vạch quy
định.
- Đi bộ đúng nơi quy định là đảm bảo an toàn cho bản thân và cho mọi
người.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- kĩ năng ứng phó, xử lí tình huống đặt ra.
- Kĩ năng giao tiếp, xử lí thông tin.
- kĩ năng ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm về việc đi bộ đúng nơi
quy định.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng ra quyết định cho học sinh tôi tiến hành cho học sinh
chơi trò chơi ở hoạt động 3 (tiết 2) của bài.
Cho học sinh đứng thành hàng ngang, đội nọ đối diện với đội kia, cách
nhau khoảng 2 đến 5 bước. Người điều khiển trò chơi cầm đèn hiệu đứng ở giũa,
cách đều hai hàng ngang và đọc:
Đèn hiện lên màu đỏ
Dừng lại chớ có đi
Màu vàng ta chuẩn bị
Đợi màu xanh ta đi
( Đi nhanh! Đi nhanh! Nhanh, nhanh, nhanh!)
Học sinh đọc đồng thanh những câu khẩu hiệu được đặt tron g ngoặc đơn.

Sau đó, người điều khiển đưa đèn hiệu người điều khiển đưa đèn hiệu
màu xanh, mọi người bắt đầu đi đều bước tại chỗ. Nếu người điều khiển đưa
màu vàng, tất cả đúng vỗ tay. Còn nếu thấy đèn đỏ,tất cả phải đứng yên.
Người điều khiển thay đổi lệnh và nhịp độ nhanh dần.
Người chơi ra quyết định không đúng sẽ bị thua và bị loại ra khỏi vị trí
người chơi. Chơi khoảng 5, 6 phút, đội nào còn lại nhiều người thì đội đó sẽ
thắng cuộc.
Qua hoạt động này, học sinh cần phải biết vận dụng kiến thức, lựa chọn
hành động cho phù hợp với mệnh lệnh của quản trò. Điều đó giúp các em lĩnh
hội kiến thức về quy định của đèn giao thông, giúp các em có kiến thức đúng khi
tham gia giao thông, bảo đảm an toàn cho mình và cho người khác.
Hoặc với bài: Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.
*Mục tiêu: sau bài học, học sinh biết
- Bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.
- Quyền được sống trong môi trường trong lành của trẻ em.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
16


- Kĩ năng lựa chọn và xử lí thông tin.
- Kĩ năng hợp tác giữa các thành viên nhiều nhóm để bảo vệ cây và hoa
nơi công cộng.
- Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng để bảo vệ cây và hoa nơi công cộng
nơi mình đang sống và học tập.
- Kĩ năng ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm đối với việc bảo vệ cây
và hoa nơi công cộng.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng ra quyết định trong bài này, tôi tiến hành trong hoạt
động 2 (tiết 2): Thảo luận và đóng vai theo tình huống của bài tập 4
Bước 1: Làm việc theo nhóm

Giáo viên giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm:
Tình huống: Khi thấy bạn hái hoa, phá hoa nơi công cộng em sẽ ứng xử
như thế nào?
Nhóm 1: Mặc bạn, không quan tâm.
Nhóm 2: Cùng hái hoa, phá cây với bạn.
Nhóm 3: Khuyên ngăn bạn.
Nhóm 4: Mách người lớn.
Bước 2: Làm việc cả lớp
Từng nhóm trình bày cách ứng xử của mình, học sinh các nhóm nhận xét,
rút ra quyết định đúng đắn, phù hợp giúp bảo vệ cây và hoa nơi công cộng là:
Khuyên ngăn bạn không nên làm như vậy và giải thích cho bạn hiểu những ích
lợi mình có khi tham gia vào việc bảo vệ cây và hoa nơi công cộng. Đó còn là
quyền và nghĩa vụ của trẻ em.
Qua việc giáo dục kĩ năng ra quyết định tôi thấy các em không những tiếp thu
hành vi một cách chắc chắn mà các em còn biết vận dụng những kĩ năng đó vào
cuộc sống hàng ngày của các em.
1.5. Giáo dục kĩ năng đồng cảm, chia sẻ:
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng cần được quan tâm, chia sẻ và ai cũng
cần biết quan tâm, chia sẻ với người khác, nhất là những lúc vui, buồn hoặc gặp
khó khăn, hoạn nạn. Sự quan tâm, chia sẻ phải được xuất phát từ lòng yêu
thương con người.
Đồng cảm là năng lực cảm nhận và hiểu biết sâu sắc tâm trạng, cảm xúc
của người khác ngay cả khi họ ở trong hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt với chúng
ta. Đồng cảm giúp chúng ta biết nỗi đau của người khác, vui buồn cùng họ.
Chia sẻ là cùng người khác san sẻ niềm vui, nỗi buồn, làm cho họ vui càng
thêm vui, nỗi buồn được giảm bớt. Đồng cảm và chia sẻ là hai khái niệm khác
nhau nhưng có quan hệ mật thiết. Có đồng cảm thì người ta mới có chia sẻ,
ngược lại, khi đã chia sẻ người ta sẽ càng cảm thấy đồng cảm hơn.
Cách tốt nhất dạy trẻ lớp 1 hình thành và phát triển kỹ năng đồng cảm, chia
sẻ là thông qua trải nghiệm. Thông qua môn Đạo đức, bước đầu dạy trẻ có kỹ

năng đồng cảm, chia sẻ là thầy cô giáo và cha mẹ phải học cách đồng cảm, chia
sẻ với trẻ. Khi nhận được sự đồng cảm, chia sẻ từ những người xung quanh trẻ
sẽ học được cách hiểu tình cảm của người khác và từ đó chia sẻ với những niềm
vui, nỗi buồn cùng họ.
17


Ví dụ khi dạy bài: Trật tự trong trường học.
*Mục tiêu: Qua bài học, học sinh biết
- Cần phải giữ trật tự trong trường học và khi ra, vào lớp.
- Giữ trật tự trong giờ học và khi ra, vào lớp là để thực hiện tốt quyền
được học tập, quyền được đảm bảo an toàn của trẻ em.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng lựa chọn và xử lí thông tin.
- Kĩ năng giao tiếp với các bạn trong lớp, trong trường.
- Kĩ năng trình bày suy nghĩ để đưa ra ý kiến nhằm giữ trật tự trong
trường học.
- Kĩ năng đồng cảm, chia sẻ với bạn nhằm tạo ra môi trường học tập tốt và
có ý nghĩa.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục cho học sinh kĩ năng đồng cảm, chia sẻ, tôi tiến hành thông
qua hoạt động 3 (tiết 2): Thảo luận nhóm 2
Bước 1: Giáo viên nêu yêu cầu, họ sinh thảo luận
+ Quan sát tranh và trả lời câu hỏi: Việc làm của hai bạn đó đúng hay sai?
Vì sao?
+ Mất trật tự trong trường học có hại gì?
+ Vì sao chúng ta cần giữ trật tự trong trường học?
Bước 2: Học sinh trình bày
+ Việc làm của hai bạn đó là sai vì: giành nhau cuốn truyện tranh trong
giờ học sẽ làm ảnh hưởng tới các bạn khác trong lớp. Các bạn sẽ không nghe

được lời cô giáo giảng.
+ Mất trật tự trong giờ học khiến cho chính bản thân chúng ta không nghe
giảng được, chúng ta sẽ không hiểu bài và còn làm ảnh hưởng tới mọi người
xung quanh.
+ Chúng ta cần giữ trật tự trong trường học vì điều đó là cần thiết cho bản
thân chúng ta và cho mọi người xung quanh. Nếu mất trật tự không những ảnh
hưởng tới mình mà còn làm ảnh hưởng tới người khác.
Qua hoạt động này, tôi giáo dục cho học sinh kĩ năng đồng cảm, chia xẻ
là phải biết quan tâm đến những người xung quanh, biết vì lợi ích của các bạn
mà có ý thức với bản thân trong mọi hoạt động.
Hoặc với bài: Gia đình em.
*Mục tiêu: Qua bài học, học sinh biết
- Trẻ em có bổn phận phải lễ phép, vâng lời ông bà, cha mẹ và anh chị.
- Yêu quý gia đình mình.
- Yêu thương, kính trọng, lễ phép với ông bà, cha mẹ.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng giao tiếp với mọi người trong gia đình.
- Kĩ năng đồng cảm, chia xẻ với gia đình và mọi người xung quanh những
khó khăn cũng như công việc vừa sức hàng ngày.
- Kĩ năng phân tích, đảm nhận trách nhiệm.
* Cách tiến hành:
18


Để giáo dục cho học sinh kĩ năng đồng cảm, chia sẻ cho học sinh tôi tiến
hành cho học sinh thảo luận thông qua hoạt động 1 (tiết 2) của bài: Tiểu phẩm
" Chuyện của bạn Long" (do một số học sinh trong lớp đóng)
Bước 1: Xem tiểu phẩm
+ Các vai: Long, mẹ Long, các bạn Long
+ Nội dung:

Mẹ Long đang chuẩn bị đi làm và dặn Long:
- Long ơi! Mẹ đi làm đây. Hôm nay trời nắng, con ở nhà học bài và trông
nhà cho mẹ!
- Vâng ạ! Con chào mẹ!
Long đang ngồi học bài, thì các bạn đến rủ đi đá bóng.
- Long ơi, đi đá bóng với bọn tớ đi! Bạn Đạt vừa được bố mua cho quả
bóng đá đẹp lắm!
- Tớ chưa học bài xong, với lại mẹ tớ dặn phải ở nhà trông nhà.
- Mẹ cậu có biết đâu mà lo, đá bóng rồi học bài sau cũng được.
Long lưỡng lự một lát rồi đồng ý đi chơi cùng các bạn…
Bước 2: Thảo luận sau khi xem tiểu phẩm
- Con có nhận xét gì về việc làm của bạn Long? Bạn đã vâng lời mẹ chưa?
- Điều gì sẽ xảy ra khi bạn Long không vâng lời mẹ?
(Không dành thời gian cho việc học sẽ không hoàn thành được bài cô giáo
giao cho dẫn đến việc Long có thể sẽ là một học sinh có sức học không tốt; Đi
đá bóng vào hôm trời nắng có thể Long sẽ bị ốm và sẽ không thể đi học được;
Long là cậu bé không biết đồng cảm và chia sẻ với mẹ những nỗi vất vả nhọc
nhằn mà mẹ phải làm để có thể lo cho Long có cuộc sống tốt hơn...)
Qua hoạt động này, tôi giáo dục cho học sinh kĩ năng đồng cảm, chia sẻ là
phải biết quan tâm đến những người thân trong gia đình (đặc biệt là mẹ) bởi vì:
những người thân trong gia đình là những người quan trọng đối với chúng ta,
luôn bên ta lúc ta vui cũng như lúc ta buồn hay vấp ngã. Chính vì vậy, là một
thành viên trong gia đình, chúng ta cần phải biết đồng cảm, chia sẻ những khó
khăn, những công việc với mọi người, biết vâng lời ông bà, cha mẹ. Từ đó tạo
nên niềm vui, không khí đầm ấm, yêu thương lẫn nhau giữa các thành viên trong
gia đình.
1.6. Giáo dục kĩ năng làm chủ bản thân:
Kĩ năng làm chủ bản thân là khả năng đảm nhận trách nhiệm, tự giác thực
hiện những quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng, tích
cực tham gia bảo vệ môi trường xung quanh; kiểm soát cảm xúc, ứng phó phù

hợp, tự bảo vệ bản thân trước các tác nhân từ môi trường, tự nhiên.
Thông qua phân môn Đạo đức lớp 1, kĩ năng làm chủ bản thân được thể hiện
rất rõ thông qua việc đảm nhận trách nhiệm. Đó chính là khả năng con người thể
hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên
trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo được một không khí hợp tác tích
cực, giúp giải quyết vấn đề, đạt được mục tiêu chung của cả nhóm, đồng thời tạo
sự thỏa mãn và thăng tiến cho mỗi thành viên. Thông qua các bài học, kĩ năng
làm chủ bản thân còn giúp các em thể hiện tính kiên định trong mọi hoàn cảnh
19


giúp các em có được chính kiến, quan điểm, thái độ và những quyết định của
bản thân, đứng vững trước những áp lực tiêu cực của những người xung quanh.
Ví dụ khi dạy bài: Gọn gàng, sạch sẽ.
*Mục tiêu: Sau bài học, học sinh biết:
- Thế nào là ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ.
- Ích lợi của việc ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ.
- Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng tự bảo vệ và đảm nhận trách nhiệm thực hiện vệ sinh cá nhân để
phòng các bệnh truyền nhiễm.
- Kĩ năng hợp tác, giúp đỡ.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng đảm nhận trách nhiệm cho học sinh tôi tiến hành cho
học sinh thực hành thông qua hoạt động 2 (tiết 2) của bài: Giúp bạn sửa lại quần
áo, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ.
Tổ chức cho học sinh làm việc theo cặp, giúp nhau chỉnh lại trang phục,
đầu tóc và trả lời câu hỏi:
-Muốn trang phục, đầu tóc luôn gọn gàng, sạch sẽ em cần phải làm gì?
Sau đó yêu cầu đại diện học sinh trả lời, học sinh khác lắng nghe và bổ sung ý

kiến. Học sinh đã trình bày được những việc cần làm để gọn gàng, sạch sẽ: Chải
tóc gọn gàng, lựa chọn trang phục phù hợp, cẩn thận khi chơi đùa, không chơi
gần nơi có nhiều bụi bẩn…
Qua việc trình bày các em các em đã thể hiện được việc biết đảm nhận
trách nhiệm của mình và tự giác thực hiện những điều trong bài học không cần
sự nhắc nhở của người lớn.
Hoặc với bài: Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.
*Mục tiêu: Qua bài học, học sinh biết
- Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập giúp các em thực hiện tốt quyền được
học của mình.
- Biết yêu quý và giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng bình luận, đánh giá về việc sử dụng sách vở, đồ dùng học tập.
- Kĩ năng ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm về việc sử dụng và giữ
gìn sách vở, đồ dùng học tập.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng đảm nhận trách nhiệm cho học sinh, tôi tiến hành cho
học sinh thực hành thông qua Hoạt động 3 (tiết 1): Đánh dầu vào ô
trong
những tranh vẽ hành động đúng.
Bước 1: Học sinh làm bài tập
Bước 2: Thảo luận cả lớp, yêu cầu học sinh giải thích:
- Bạn nhỏ trong mỗi tranh đang làm gì?
- Vì sao em cho rằng hành động của bạn đó là đúng?
- Vì sao em cho rằng hành động đó là sai?
Học sinh giải thích
Bước 3: Kết luận
20



Cần phải giữ gìn đồ dùng học tập:
- Không làm dây bẩn, viết bậy, vẽ bậy ra sách vở.
- Không gập gáy sách vở.
- Không xé sách, xé vở.
- Học xong phải cất gọn đồ dùng học tập vào nơi quy định.
- Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập giúp các em thực hiện tốt quyền học
tập của mình.
Qua việc tìm hiểu bài, tôi thấy các em đã biết làm chủ bản thân mình
trong việc thực hiện giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.
Kĩ năng làm chủ bản thân trong học tập nói riêng và trong cuộc sống nói
chung đã được hình thành thông qua các tiết học Đạo đức. Các em ngày càng
hoàn thiện được mình. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi,
thói quen đạo đức lành mạnh, tích cực trong các mối quan hệ. Từ đó giúp cho
học sinh ngày càng hoàn thiện mình hơn, sống có ích hơn cho bản thân và cộng
đồng xã hội.
1.7. Giáo dục kĩ năng đặt mục tiêu:
Mục tiêu là cái đích mà chúng ta muốn đạt tới trong một khoảng thời gian
hoặc một công việc nào đó. Mục tiêu có thể về nhận thức, hành vi hoặc thái độ.
Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
Muc tiêu có thể được đặt ra trong một khoảng thời gian ngắn, như một ngày,
một tuần (mục tiêu ngắn hạn). Mục tiêu cũng có thể cho một thời gian dài như
một năm hoặc nhiều năm (mục tiêu dài hạn).
Kĩ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có khả
năng thực hiện được mục tiêu của mình.
Muốn cho một mục tiêu có thực hiện thành công thì phải lưu ý đến những
yêu cầu sau:
- Mục tiêu phải được thể hiện bằng những ngôn từ cụ thể; trả lời được những
câu hỏi như: Ai? Thực hiện cái gì? Trong thời gian bao lâu? Thời điểm hoàn
thành mục tiêu là khi nào?

- Khi viết mục tiêu, cần trách sử dụng các từ chung chung, tốt nhất là đề ra
những việc cụ thể, có thể lượng hóa được.
- Mục tiêu đặt ra cần phải thực tế và có thể thực hiện được; không nên đặt
ra những mục tiêu quá khó so với khả năng và điều kiện của bản thân.
- Xác định được những công việc, những biện pháp cụ thể cần thực hiện để
đạt được mục tiêu.
- Xác định được những thuận lợi đã có, những địa chỉ có thể hỗ trợ về từng
mặt.
- Xác định được những khó khăn có thể gặp phải trong quá trình thực hiện
mục tiêu và các biện pháp cần phải làm để vượt qua những khó khăn đó.
- Có thể chia nhỏ mục tiêu theo từng mốc thời gian thực hiện.
Kĩ năng đặt mục tiêu được dựa trên kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy sáng
tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ,…
Ví dụ khi dạy bài: Đi học đều, đúng giờ.
*Mục tiêu: Qua bài học, học sinh biết
21


- Lợi ích của việc đi học đều và đúng giờ là giúp cho các em thực hiện tốt
quyền được học tập của mình.
- Học sinh thực hiện việc đi học đều và đúng giờ.
* Các kĩ năng được giáo dục trong bài:
- Kĩ năng ra quyết định, đảm bảo việc đi học đều và đúng giờ.
- Kĩ năng đặt mục tiêu thực hiện việc đi học đều và đúng giờ.
* Cách tiến hành:
Để giáo dục kĩ năng đặt mục tiêu cho học sinh, tôi tiến hành cho học sinh
hoạt động thông qua hoạt động 2 của bài: Đóng vai theo tình huống: Trước
giwof đi học.
Bước 1: Thảo luận nhóm đóng vai tình huống trong tranh, chuẩn bị đóng
vai.

Bước 2: Đại diện 1 số nhóm đóng vai trước lớp
Bước 3: Nhận xét và thảo luận:
- Nếu em có mặt ở đó, em sẽ nói gì với bạn? Vì sao?
- Để luôn luôn đi học đều, đúng giờ con cần đặt mục tiêu cho mình là gì?
Qua việc trình bày của học sinh, tôi giáo dục cho học sinh cần phải biết đặt
mục tiêu cho mình trong mọi hoạt động hàng ngày. Có đặt mục tiêu và cố gắng
thực hiện tốt thì các em mới hình thành được thói quen và hành vi đạo đức phụ
hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Kĩ năng đặt mục tiêu trong học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung đã
được hình thành thông qua các tiết đạo đức. Các em ngày càng hoàn thiện được
mình. Trên cơ sở đó, hình thành những kĩ năng sống cơ bản và cần thiết cho học
sinh, giúp học sinh có thói quen thường xuyên tốt, có hành động chuẩn mực
trong các mối quan hệ.
2. Thực nghiệm khoa học và kết quả
2.1. Mục đích thực nghiệm
Khảo sát tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất
2.2. Đối tượng thực nghiệm
Học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Võng La
2.3. Kết quả thực nghiệm
Qua một năm học vừa tìm tòi vừa vận dụng giáo dục các kĩ năng cho học
sinh thông qua môn Đạo đức, bản thân tôi đã thu được một số kết quả như sau:
- Giáo viên không còn lúng túng trong việc dạy lồng ghép KNS vào phân
môn Đạo đức.
- Học sinh tích cực tự giác học tập, say mê với môn học và đặc biệt các kĩ
năng sống của các em được phát triển và được ứng dụng có hiệu quả trong thực
tế.
- Tiết Đạo đức diễn ra sinh động, hấp dẫn mọi đối tượng học sinh. Học
sinh chủ động tìm tòi tranh luận, kĩ năng sống được lồng ghép trong các bài học
một cách tự nhiên không gò bó, áp đặt.
- Qua mỗi tiết học có lồng ghép kĩ năng sống đã trang bị cho học sinh

những hành vi, giá trị, thái độ và hành vi phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho
HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói
quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày.
22


C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Qua những việc trình bày ở trên ta có thể thấy. Việc lồng ghép kỹ năng
sống vào dạy học phân môn Đạo Đức ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói
riêng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc làm cho học sinh hiểu biết các chuẩn
mực đạo đức qua các mẫu hành vi đạo đức để từ đó các em ứng xử đúng đắn với
gia đình, cộng đồng.Vì vậy công tác giáo dục đạo đức cho học sinh đó là điều
căn bản, là cái gốc cho sự phát triển nhân cách.
Việc giáo dục kĩ năng sống là một quá trình lâu dài và bền bỉ không thể
hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi có cả quá trình: nhận thức hình thành thái độ- thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể
là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì
mắt xích nào trong chu trình trên. Mục đích cao nhất của giáo dục kĩ năng sống
thông qua phân môn Đạo đức là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng
tích cực. Giáo dục KNS giúp cho học sinh thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở
từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời. Do đó, các nhà giáo
dục cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học sinh duy trì
hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho học sinh điều chỉnh hoặc
thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây. Giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ
bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp
với giáo dục Tiểu học. Để có được k ết quả tốt đòi hỏi bản thân mỗi giáo viên
cần có tinh thần trách nhiệm đối với mục tiêu đặt ra.
Trên đây là một số biện pháp lồng ghép kỹ năng sống thông qua môn đạo

đức lớp Một nhằm giáo dục cho học sinh mà tôi đã áp dụng. Nó giúp học sinh
lớp tôi học tốt môn đạo đức, có những hành vi đạo đức chuẩn mực và phát huy
tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được không
tránh khỏi những mặt còn hạn chế. Vậy tôi rất mong đón nhận được ý kiến đóng
góp của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi thêm đầy đủ
giúp tôi tiến bộ hơn trong giảng dạy.
2. KHUYẾN NGHỊ
2.1. Đối với cấp trên:
- Cần tổ chức các lớp học về giáo dục lồng ghép kĩ năng sống th ông qua môn
Đạo đức ở lớp Một để giáo viên có điều kiện tìm hiểu thêm.
- Tổ chức các chuyên đề về dạy lồng ghép kĩ năng sống trong phân môn Đạo
đức Một.
- Tăng cường thêm tranh ảnh, tư liệu phục vụ cho việc dạy lồng ghép kĩ năng
sống trong phân môn Đạo đức.
- Tổ chức chuyên đề về lồng ghép giáo dục KNS trong các môn học, đặc biệt là
đưa ra cách thức lồng ghép và phương pháp giảng dạy phù hợp để giáo viên có
thể nâng cao chất lượng dạy học.
2.2. Đối với các bạn đồng nghiệp:
23


Trên đây là việc dạy lồng ghép giáo dục kĩ năng sống thông qua phân
môn Đạo đức lớp Một đã được tôi thử nghiệm và thu được kết quả khả quan.
Mong các bạn đồng nghiệp áp dụng và đóng góp ý kiến để bản sáng kiến của tôi
được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Võng La, ngày 15 tháng 4 năm 2014
Tôi xin cam đoan bản SKKN là do tôi viết,

không sao chép nội dung của người khác.

Lê Thị Lan

24


D. TÀI LIỆU THAM KHẢM
1. Bộ GD&ĐT - Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học – Tài liệu
dành cho giáo viên lớp 1 – NXB GD Việt Nam, 2010.
2. Thiết kế bài giảng Đạo đức lớp 1 – NXB Hà Nội, 2010
3. Sách giáo khoa Đạo đức lớp 1 – NXB GD, 2012
4. Sách giáo viên Đạo đức lớp 1 – NXB GD, 2012
5. Các tập san: Thế giới trong ta – Xuất bản năm 2012 – 2013

25


×