Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Luận văn thạc sĩ phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.32 KB, 119 trang )

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

PHÒNG NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG LẠM DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ

HÀ NỘI – 2010


2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

PHÒNG NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG LẠM DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số:

60 34 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ


Người hướng dẫn khoa học:

HÀ NỘI – 2010

TS. TRỊNH THỊ ÁI HOA


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong Luận
văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN THỊ THU HẰNG


4

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ILO


Tổ chức Lao động Quốc tế (the International Labour Organization)

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations’ Children Fund)

Cục BVCSTE

Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Công ước 138

Công ước số 138 của ILO về tuổi lao động tối thiểu (ILO Convention
No. 138 on the Minimum Age for Admission to Employment and
Work), 1973

Công ước 182

Công ước số 182 của ILO về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất (Worst Forms of Child Labour Convention) 1999

CRC

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (the United Nations
Convention on the Rights of the Child), 1989

IPEC

Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của ILO

(International Programme on the Elimination of Child Labour)

Bộ LĐTBXH

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

BLLĐ

Bộ luật Lao động 1994 (được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các
năm 2002, 2006)

BVCSTE

Bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Luật BVCSTE

Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em Việt Nam, 2004

LHQ

Liên hợp quốc

TBPs

Chương trình có hạn định thời gian (Time Bound Programme)

WFCL

Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Worst Forms of Child

Labour)


5

SC

Tổ chức cứu trợ trẻ em

NGO

Tổ chức phi chính phủ (Non-governmental organization)

NAP

Chương trình hành động quốc gia (National Action Plan)

MDGs

Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (Millennium Development Goals)

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài
Quá trình đổi mới đã mang lại kết quả rõ rệt. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân từng bước được nâng cao, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em có nhiều chuyển biến tích cực từ nhận thức đến chính sách và phương pháp tổ
chức thực hiện. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng người dân đã nhận
thức rõ các quyền lợi và bổn phận của trẻ em được ghi trong Công ước LHQ về
quyền trẻ em và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, một mặt mang lại nhiều cơ

hội, đưa đất nước theo kịp với khu vực và thế giới, mặt khác cũng tạo ra môi
trường có nhiều diễn biến phức tạp và thách thức mới đối với công tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (Luật BVCSTE 2004) và một số
nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác chưa được đưa vào trong Luật đang có xu
hướng gia tăng, trong đó có trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị
tai nạn thương tích, trẻ bị bỏ rơi, trẻ em lang thang, trẻ em phải lao động sớm, trẻ
em bị buôn bán, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS,... Theo báo cáo của các địa phương
đến cuối năm 2008, cả nước có khoảng 1,6 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo


6

quy định của Luật BVCSTE 2004, nếu tính cả 4 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt chưa được đưa vào Luật (trẻ em bị ngược đãi, bạo lực; trẻ em bị buôn bán bắt
cóc; trẻ em tai nạn thương tích; trẻ em nghèo) thì cả nước có khoảng trên 4,6 triệu
em (Báo cáo Cục BVCSTE 2008), trong đó có khoảng trên 1,5 triệu em ở độ tuổi
từ 10-16, đây là độ tuổi mà nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phải bỏ nhà đi lang
thang, tự lao động kiếm sống, phải làm những công việc không phù hợp với sức
khoẻ và tâm sinh lý của trẻ em. Đáng chú ý nhất là số trẻ em phải lao động trong
điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm như khai thác đá, gia công các sản phẩm
từ đá, sản xuất các sản phẩm mộc dân dụng, khai thác than lộ thiên, khuân vác ở
các bến cảng, thu gom phế liệu ở các bãi rác, đào đãi vàng, khai thác và vận
chuyển cát và vật liệu xây dựng... (theo báo cáo của các địa phương năm 2008 cả
nước có khoảng 27.000 trẻ em phải lao động trong điều kiện năng nhọc độc hại,
nguy hiểm) đa phần những trẻ em này thường có những hoàn cảnh gia đình hết
sức khó khăn hoặc đời sống gia đình có nhiều diễn biến phức tạp. Bản thân các em
thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, hầu hết các em không chỉ tự nuôi sống bản
thân mà còn phải chắt chiu, dành dụm gửi tiền nuôi gia đình, gặp nhiều rủi ro
trong công cuộc mưu sinh, khi mắc bệnh hoặc gặp tai nạn không được chăm sóc

chu đáo. Vì vậy, tỉ lệ suy dinh dưỡng trong nhóm trẻ này thường rất cao, đặc biệt là
tỉ lệ trẻ em bị thấp còi do các em sớm phải làm việc quá sức và thường xuyên đau
ốm.
Thực trạng lao động trẻ em ở nước ta đã và đang gây ra nhiều bức xúc. Đây
cũng là một trong những vấn đề được Chính phủ quan tâm đặc biệt và đưa ra
những giải pháp thiết thực nhằm can thiệp và hỗ trợ có hiệu quả đối với nhóm trẻ
em thiệt thòi này. Sự quan tâm được thể hiện:
Ngày 20/2/1990, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên
ở Châu Á phê chuẩn Công ước của LHQ về Quyền trẻ em mà không bảo lưu.
Ngay sau khi phê chuẩn Công ước, những biện pháp phổ biến và giới thiệu rộng


7

rãi nội dung của Công ước được thực hiện, có Chương trình hành động quốc gia vì
trẻ em giai đoạn 1991-2000, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991.
Ngày 23/1/1998 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt nam đã
ra Chỉ thị số 06-CT/TTg về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa
và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động.
Ngày 31/5/1999 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 134QĐ/TTg về việc phê duyệt Chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt giai đoạn 1999-2002.
Ngày 17/11/2000, Việt Nam đã phê chuẩn tham gia Công ước 182 về
“Cấm và hành động ngay lập tức loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất”. Ngày 9/6/2003, Việt Nam cũng đã chính thức phê chuẩn tham gia Công
ước 138 về Quy định tuổi tối thiểu được đi làm việc.
Ngày 12 tháng 2 năm 2004 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số
19/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng
nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010.
Hiện nay, vấn đề lao động trẻ em, nhất là trẻ em lao động trong điều kiện

nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đang là mối quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, tôi
lựa chọn đề tài “Phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ
em ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế,
hy vọng sẽ đóng góp một phần vào việc nghiên cứu tìm ra giải pháp cho sự nghiệp
bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Chưa có đề tài nào nghiên cứu về tình hình lạm dụng lao động trẻ em ở Việt
Nam. Năm 2006, Vụ Lao động việc làm - Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã
thực hiện đánh giá về tình hình lao động trẻ em tại địa bàn 6 tỉnh/thành phố và tổ


8

chức hội thảo trao đổi về tình hình lao động trẻ em tháng 11/2006. Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) đã có một số nghiên cứu, đánh giá không toàn diện về tình hình
trẻ em lao động trong một số ngành/nghề như: trẻ em vạn đò, trẻ em giúp việc gia
đình, trẻ em nhặt than, ...
Nhìn chung, các cách tiếp cận trên đây về tình hình lao động trẻ em mới chỉ
dừng lại ở phần phân tích thực trạng, dưới một vài góc độ khác nhau mà chưa
đánh giá một cách tổng thể và đưa ra các giải pháp khả thi và giải quyết một cách
cơ bản vấn đề lao động trẻ em, đặc biệt là vấn đề lạm dụng lao động trẻ em.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tập trung nghiên cứu về phòng ngừa
và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu tình trạng lạm dụng
lao động trẻ em ở một vài ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm như: trẻ em
nhặt than và tham gia khai thác than, trẻ em làm nghề thủ công mỹ nghệ, trẻ em
tham gia giúp việc trong các gia đình. Đối tượng trẻ em được khảo sát trong luận
văn này là những trẻ em trong độ tuổi từ 10-16 tuổi, phải lao động, đặc biệt lao
động nặng nhọc trong điều kiện độc hại và nguy hiểm, ảnh hưởng lớn tới tương lai

phát triển về thể lực, trí lực, tinh thần, tâm lý... của trẻ em – một bộ phận cấu
thành thế hệ tương lai của dân tộc. Phù hợp với tài liệu, văn bản pháp lý của các tổ
chức quốc tế vẫn thường sử dụng “lao động trẻ em”, luận văn này sử dụng cụm từ
“lao động trẻ em” với ý nghĩa trên đây. Việc trẻ em lao động với ý nghĩa “trẻ nhỏ
làm việc nhỏ” là hoạt động bình thường, là yếu tố thiết yếu để từng bước thành
người lao động có kỹ năng trong tương lai được xem xét khi cần thiết, không
thuộc đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Về địa bàn nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình lao động trẻ
em bị lạm dụng tại tám tỉnh trọng điểm: Lào Cai, An Giang, Gia Rai, Quảng Nam,
Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh.


9

4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích của đề tài: Trên cơ sở phân tích thực tiễn về tình trạng lạm
dụng lao động trẻ em, từ đó hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận và tìm ra giải
pháp phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em ở Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích này, luận văn có nhiệm vụ
• Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động trẻ em và phòng ngừa, khắc
phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em.
• Phân tích và đánh giá thực trạng lạm dụng lao động trẻ em và phòng ngừa,
khắc phục tình trạng trên ở Việt Nam.
• Đề xuất các giải pháp phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao
động trẻ em ở nước ta hiện nay.
5. Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
- Phương pháp tổng hợp, phân tích;
- Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và từ khảo sát thực tế (điều tra định
tính kết hợp với phỏng vấn sâu);

- Phương pháp chuyên gia nhận định, đánh giá kết hợp với những vấn đề
liên quan đến lao động trẻ em;
- Phương pháp trao đổi, thảo luận có sự tham gia của các đối tượng trẻ em
liên quan và người dân (phương pháp có sự tham gia).
6. Đóng góp của luận văn:
6.1. Luận văn góp phần hệ thống hóa, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận
liên quan đến lao động trẻ em và phòng ngừa, khác phục tình trạng lạm dụng lao
động trẻ em;
6.2. Phân tích, đánh giá đúng thực trạng về lạm dụng lao động trẻ em và
việc phòng ngừa, khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em;


10

6.3. Đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường phòng
ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em ở Việt Nam trong những
năm tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ
LẠM DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ LẠM DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1.1. Lao động trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm lao động trẻ em
Lao động trẻ em có thể được hiểu dưới nhiều giác độ khác nhau. Lao động trẻ
em có thể hiểu đó là những hoạt động của trẻ em (ngoài hoạt động học tập, vui

chơi, giải trí) nhằm mục đích tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần. Ở một
nghĩa khác, lao động trẻ em chỉ người lao động là trẻ em. Dưới đây sẽ xem xét lao
động trẻ em theo nghĩa thứ nhất.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra 10 loại lĩnh vực nghề nghiệp mà theo
đó là những công việc gây hậu quả xấu đến sự phát triển của trẻ em, có thể tóm tắt
như sau: Lao động trẻ em là tình trạng trẻ em trực tiếp hoặc gián tiếp làm những
công việc nặng nhọc độc hại hay nguy hiểm; trẻ em làm việc mà ảnh hưởng đến
sự phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; trẻ em làm việc


11

quá nhiều ở độ tuổi quá nhỏ, không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi,
giải trí.
Trẻ em, theo Công ước Quốc tế về quyền trẻ em của LHQ, là người dưới 18
tuổi. Theo Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2004), trẻ em là những
người dưới 16 tuổi.
Như vậy, có thể hiểu rằng, lao động trẻ em là tình trạng những người dưới
16 tuổi, phải làm những công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, có ảnh
hưởng xấu tới thể lực, trí tuệ, tinh thần, đao đức xã hội của trẻ em.
Khi xem xét khái niệm này, cần chú ý năm điểm.
Thứ nhất, lao động trẻ em ở đây muốn nói tới tình trạng, trong đó, trẻ em
(những người dưới 16 tuổi) phải làm việc với tư cách là người lao động. Trẻ em có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,
ảnh hưởng tới sức khoẻ, việc học tập của trẻ; trẻ em phải lao động quá nhiều, ở độ
tuổi quá nhỏ, các em không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi, giải trí và
tham gia các hoạt động xã hội.
Thứ hai, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm là những công việc không
phù hợp với sức khỏe, thể lực, tâm lý và sinh lý của trẻ em. Do đó, nếu trẻ em phải
làm những công việc này sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em về thể lực,

trí lực, tinh thần, đạo đức của các em trong hiện tại và tương lai. Những công việc
đó có thể là lao động làm thuê giúp việc gia đình, bị phụ thuộc vào chủ, trẻ em
nhặt than, đội than trong các hầm lò và tham gia khai thác than, làm nghề thủ công
mỹ nghệ độc hại, đánh bắt thủy hải sản trên sông, biển, …
Thứ ba, trẻ em lao động vì mục đích kinh tế cũng được xem là lao động trẻ
em. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, do tự nguyện, hoặc do bị ép buộc lao động,
vì mục đích kinh tế mà trẻ em phải tham gia lao động để kiếm sống, giúp tăng thu


12

nhập cho gia đình, nuôi sống bản thân và góp phần nuôi sống gia đình. Những
hoạt động này cũng thuộc nội hàm của khái niệm lao động trẻ em nói trên.
Thứ tư, cần phân biệt giữa lao động trẻ em và trẻ em lao động (hay trẻ em
tham gia lao động).
Trẻ em tham gia lao động muốn đề cập tới hoạt động lao động mà các em
tham gia. Những việc mà các em làm là những công việc nhẹ nhàng, phù hợp với
sức khỏe, lứa tuổi, tâm lý, không ảnh hưởng tới cuộc sống học tập, vui chơi, giải
trí của trẻ em. Mặt khác, trong giai đoạn đầu đời, khi trẻ em tham gia làm các công
việc nhẹ nhàng để giúp đỡ gia đình, các công việc cho bản thân, ngoài giờ học tập,
vui chơi và phù hợp với độ tuổi, với ý nghĩa “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” vừa với sức
mình, đóng vai trò quan trọng đối với chính sự phát triển toàn diện và hài hòa
nhân cách của trẻ. Trẻ em tham gia lao động như vậy còn góp phần tích lũy kinh
nghiệm, hoàn thiện sự phát triển về thể lực và nhân cách của trẻ em để giúp trẻ em
trưởng thành. Những lao động này là cần thiết, có ích và có tác động tích cực đối
với sự phát triển của trẻ em qua các giai đoạn và được khuyến khích. (Xem thêm
phụ lục 1)
Lao động trẻ em muốn nói tới việc trẻ em tham gia lao động vì mục đích
kiếm sống, vì mục đích kinh tế, hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Theo đó, các em
phải làm những công việc nặng nhọc, phải làm việc liên tục, trong môi trường độc

hại và nguy hiểm, làm quá thời gian cho phép [14] và ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh
thần, tâm lý, đạo đức và xã hội của trẻ em. Lao động trẻ em với nghĩa như vậy
không được khuyến khích và bị ngăn chặn, tiến tới chấm dứt.
Khái niệm lao động trẻ em trên đây được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu
của luận văn.
1.1.1. 2. Phân loại lao động trẻ em


13

Có hai cách chính để phân loại lao động trẻ em. Đó là phân loại theo tình
trạng công việc và theo lĩnh vực ngành nghề mà trẻ em làm việc.
* Phân loại theo tình trạng công việc
Theo cách này, có thể có lao động trẻ em tự nguyện hay bị bắt buộc; lao
động trẻ em trong môi trường công khai hay bị che dấu, lao động trẻ em trong tình
trạng làm việc một mình hay theo nhóm, tập trung hay phân tán, lao động trẻ em
do các em tự nguyện lao động hoặc lao động trẻ em do bị bắt buộc; lao động trẻ
em trong khu vực chính thức và lao động trẻ em trong khu vực không chính
thức…Cách phân loại này giúp hiểu rõ được tình trạng làm việc của trẻ em và các
mức độ nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm mà trẻ em phải gánh chịu khi tham gia
vào các loại hình lao động cụ thể.
Trẻ em lao động trong môi trường công khai, tại khu vực kinh tế chính thức,
có thể sẽ ít nguy hiểm hơn khi làm việc trong môi trường bị che dấu, khu vực kinh
tế không chính thức. Đối với trẻ em làm việc tại khu vực kinh tế chính thức, với
bề ngoài cho thấy tính chất công việc là nhẹ nhàng hơn và điều kiện làm việc nhìn
chung thuận lợi hơn so với trẻ em lao động tại khu vực kinh tế không chính thức.
Điều đó có thể thấy nguy cơ trẻ em bị xâm hại, ngược đãi hay lạm dụng lao động
trong khu vực kinh tế không chính thức cao hơn và có nhiều nguy cơ đe dọa đối
với trẻ lao động trong khu vực này vì đó là khu vực không công khai, ít biết đến
và không được pháp luật can thiệp [41, tr 5-6].

Bảng 1.1. Lao động trẻ em tại khu vực chính thức và khu vực không
chính thức
Khu vực kinh tế chính thức
(formal sector)

Khu vực kinh tế không chính thức
(informal sector)

 Khó tham gia hơn

 Dễ tham gia

 Thường phụ thuộc vào các nguồn
lực bên ngoài

 Khả năng tự điều chỉnh cao


14

 Thường dưới dạng công ty lớn, bao
gồm doanh nghiệp nước ngoài

 Thường dưới
nghiệp gia đình

 Hoạt động với quy mô lớn

 Hoạt động với quy mô nhỏ


 Kỹ năng làm việc nằm trong
những kiến thức giảng dạy trong hệ
thống giáo dục chính thức, đôi khi
phụ thuộc vào nhân lực từ nước
khác.

 Kỹ năng làm việc thường nằm
ngoài những kiến thức giảng
dạy trong hệ thống giáo dục
chính thức

dạng

doanh

(Xem thêm phụ lục 2)
* Phân loại theo lĩnh vực ngành nghề
Lao động trẻ em có thể được phân loại theo lĩnh vực ngành nghề như lao
động trẻ em trong trong nông nghiệp, trong công nghiệp hay các ngành dịch vụ,
thương mại. Cách phân loại này cho biết khu vực nào tồn tại nhiều lao động trẻ
em, cho phép làm rõ mối quan hệ giữa trẻ em lao động và những chủ thể có liên
quan đến việc sử dụng các em (khách hàng, người sử dụng lao động…) [23, tr.22]
1.1.1.3. Hậu quả và những hệ lụy của lao động trẻ em
Nhìn nhận một cách khách quan, ở mức độ nhất định, lao động trẻ em có
thể giúp dạy cho trẻ em tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng giá
trị của lao động, đồng thời cũng có thể giúp trẻ học hỏi được một số kỹ năng lao
động nhất định. Đây chính là lý do tại sao, ở nhiều xã hội vẫn còn tồn tại quan
niệm ủng hộ lao động trẻ em.
Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng, những tác động tích cực nêu trên không thể
bù đắp được cho những tác động tiêu cực của lao động trẻ em. Lao động trẻ em

không chỉ có tác động tiêu cực đến đời sống và sự phát triển của bản thân trẻ, mà
còn đến gia đình, cộng đồng và quốc gia. Dưới đây chỉ phân tích hậu quả và tác
động tiêu cực của lao động trẻ em tới hai đối tượng chính là bản thân trẻ em và
quốc gia của trẻ [23, tr.12-15].


15

* Tác động tiêu cực của lao động trẻ em với quốc gia
Khi một đất nước có lao động trẻ em, điều này đồng nghĩa với việc quốc gia
đó lâm vào vòng tròn khép kín của tình trạng đói nghèo: “Đói nghèo - trẻ em lao
động sớm - trẻ em không được học hành - lao động giản đơn - thu nhập thấp đói nghèo”. Vì vậy, chính lao động trẻ em sẽ góp phần làm gia tăng tình trạng
nghèo đói, thất nghiệp, thất học, thu nhập thấp, tỉ lệ sinh cao ở mỗi một quốc gia.
Trẻ em lao động trước độ tuổi cho phép [14] sẽ không đủ năng lực, sức khỏe về
thể chất, tinh thần và trình độ tay nghề vững vàng, không được giáo dục và đào
tạo những kĩ năng nghề nghiệp cần thiết để giúp các em có một nghề nghiệp ổn
định, thu nhập cao khi trưởng thành, sẽ càng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó
trở nên tồi tệ và kém phát triển.
Mặt khác, đối với những hậu quả về sức khỏe và tai nạn nghề nghiệp do các
em phải lao động quá sức sẽ làm tăng chi phí xã hội của quốc gia đó để giải quyết
hậu quả do lao động trẻ em để lại. Những khoản chi phí bù đắp đó sẽ tăng lên gấp
hàng ngàn lần nếu không có biện pháp ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ lạm dụng
lao động trẻ em ngay từ ban đầu và tạo ra những thách thức không nhỏ đối với quá
trình tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Lao động trẻ em có nhiều ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến nguồn nhân lực
trong tương lai. Khi trẻ em bị lạm dụng, bóc lột sức lao động (trẻ em phải lao động
trong điều kiện tồi tệ) sẽ trở thành một công dân còi cọc, suy dinh dưỡng và có
khả năng phát triển lệch chuẩn, sẽ không đủ điều kiện để học tập, phát triển bình
thường và không thể trở thành công dân có ích cho xã hội. Một nguồn nhân lực
yếu kém, thiếu tính cạnh tranh, sẽ làm mất đi cơ hội và điều kiện phát triển. Điều

đó khiến cho năng lực cạnh tranh của quốc gia đó giảm sút khi tham gia vào thị
trường thế giới.
* Tác động tiêu cực của lao động trẻ em đến bản thân trẻ


16

Thứ nhất, tác động về thể chất. Do còn non nớt về thể chất và tinh thần,
thiếu kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp, sức khỏe và sự dẻo dai
còn hạn chế, trẻ em dễ bị tổn thương và gặp nhiều rủi ro về thể chất hơn người lớn
khi làm việc. Ví dụ, trẻ em lao động có thể bị tai nạn dẫn tới bị thương, bị chết
hoặc tàn tật. Trẻ em làm việc trong những điều kiện lao động không bảo đảm, có
thể phải đối mặt với những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng về lâu dài và có ảnh
hưởng lớn tới sự phát triển về thể chất sau này.
Thứ hai, tác động về tâm lý. Trong một số trường hợp, hậu quả tâm lý gây ra
cho trẻ em lao động có thể bao gồm chậm phát triển về trí tuệ, thiếu tự tin, khó hòa
nhập xã hội; gặp khó khăn trong việc tạo lập các mối quan hệ, suy giảm lòng tự tôn; có
thái độ bạo lực hoặc tâm trạng trầm cảm, lo lắng, thậm chí có ý định tự hủy hoại bản
thân...
Thứ ba, tác động về nhận thức. Trong nhiều trường hợp, khả năng nhận
thức của trẻ em bị ảnh hưởng do công việc mà trẻ phải làm, ví dụ như suy giảm
năng lực nhận thức, giao tiếp và thực hành - những yếu tố cốt yếu để thích nghi xã
hội và có cuộc sống tốt đẹp.
Thứ tư, tác động về giáo dục. Lao động nặng nhọc hoặc nhiều thời gian có
thể khiến trẻ em phải bỏ học sớm hoặc giảm khả năng tiếp thu trong quá trình học
tập. Tuy nhiên, phổ biến hơn là lao động tước đi của trẻ em thời gian cần thiết cho
việc học tập, và vì vậy thành tích học tập của các em sút giảm, kỹ năng học tập
yếu, bị thụt lùi so với bạn bè, bị bỏ mặc hoặc gặp khó khăn khi hòa nhập với bạn
học.
Thứ năm, tác động về kinh tế - xã hội. Lao động trẻ em ảnh hưởng tiêu cực

đến việc học tập của trẻ, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc nắm bắt các cơ hội
kinh tế-xã hội của trẻ về sau. Nói cách khác, lao động trẻ em tước đoạt cơ hội của
trẻ thoát khỏi vòng đói nghèo do trước đó nó đã tước đoạt của trẻ cơ hội học tập.
1.1.

2. Lạm dụng lao động trẻ em


17

1.1.2.1. Khái niệm lạm dụng lao động trẻ em
Lao động trẻ em và lạm dụng lao động trẻ em là vấn đề được nhiều tổ
chức quốc tế và chính phủ nhiều nước quan tâm. Tuy nhiên, lạm dụng lao động
trẻ em chưa có một khái niệm thống nhất.
Theo Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em (SC), lạm dụng lao động trẻ em là
khái niệm dùng để chỉ việc sử dụng với bất kỳ hình thức lao động nào của trẻ em
mà không vì sự phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách của trẻ, trái lại còn gây tổn
hại đến sự phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ, … của trẻ em.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) không đưa ra khái niệm lạm dụng lao động
trẻ em nhưng đưa ra 10 loại lĩnh vực nghề nghiệp, với những công việc mà trẻ em
phải làm, sẽ gây hậu quả xấu đối với sự phát triển của trẻ em. Chảng hạn, như trẻ
em phải làm công việc nội trợ bị phụ thuộc vào chủ, thời gian lao động kéo dài,
thiếu điều kiện tối thiểu để nghỉ ngơi, bị lạm dụng sức khỏe và bị xúc phạm đạo
đức….
Như vậy, ở đây có thể thấy rằng, khi trẻ em bị sử dụng vào những công việc
trong những lĩnh vực mà ILO đưa ra, điều đó có nghĩa lao động của trẻ em bị lạm
dụng. Nói cách khác, lạm dụng lao động trẻ em là tình trạng sử dụng lao động trẻ
em trong các trường hợp: khi trẻ em phải trực tiếp hoặc gián tiếp làm những công
việc nặng nhọc độc hại hay nguy hiểm; trẻ em làm việc ảnh hưởng đến sự phát
triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; trẻ em phải làm việc

quá nhiều ở độ tuổi quá nhỏ, không có thời gian cần thiết để học tập, vui chơi,
giải trí.
Một số công ước quốc tế cũng đưa ra những hình thức sử dụng lao động trẻ em
bị coi là lạm dụng lao động trẻ em. Đó là những trường hợp lao động trẻ em bị sử
dụng trong những điều kiện tồi tệ nhất theo bốn nhóm được liệt kê dưới đây:


18

Thứ nhất, việc sử dụng trẻ em để làm các công việc như nô lệ hoặc tương tự,
buôn bán trẻ em, sử dụng trẻ em để gán nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc trẻ em lao động trong các cuộc xung đột vũ trang.
Thứ hai, việc sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em làm mại dâm, trẻ em
tham gia sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm.
Thứ ba, việc lôi kéo, dụ dỗ hoặc sử dụng trẻ em tham gia vào các hoạt
động bất hợp pháp, đặc biệt là các hoạt động sản xuất và buôn bán các chất ma
túy như đã được xác định trong các điều ước quốc tế có liên quan.
Thứ tư, việc sử dụng trẻ em trong những công việc mà tính chất và hoàn
cảnh làm việc có khả năng lạm dụng, xâm hại đến sức khỏe, sự an toàn và đạo
đức của trẻ em
Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong nhóm thứ nhất bao trùm nội
dung của các văn kiện pháp lý quốc tế về xoá bỏ chế độ nô lệ hay tương tự như nô lệ.
Các văn kiện pháp lý quốc tế về xoá bỏ chế độ nô lệ hay hình thức tương tự như nô lệ
được nêu trong Công ước số 29 năm 1930 của ILO về lao động cưỡng bức; Công
ước số 105 năm 1957 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức; Khuyến nghị số 35
của ILO về lao động cưỡng bức; Công ước về chế độ nô lệ năm 1926 và Nghị định
thư sửa đổi năm 1953 (của Liên hợp quốc); Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô
lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế, tập tục tương tự như chế độ nô lệ (của Liên hợp
quốc) năm 1956; Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ
em về sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang năm 2001;

Các hình thức lạm dụng lao động trẻ em trong nhóm thứ hai và thứ ba được
thể hiện trong nội dung của các văn kiện pháp lý quốc tế về buôn bán người vào
mục đích mại dâm và sản xuất văn hoá phẩm khiêu dâm và chống tội phạm xuyên
quốc gia. Các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan: Công ước về trấn áp việc buôn
người và bóc lột mại dâm người khác của Liên hợp quốc năm 1949; Nghị định thư
không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mại


19

dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2001; Công ước của Liên hợp
quốc về chống tội phạm có tổ chức liên quốc gia và Nghị định thư bổ sung cho
Công ước này về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000.
Liên quan đến việc lạm dụng lao động trẻ em nêu ở nhóm thứ ba, Công ước
138 quy định sẽ do các quốc gia thành viên xác định trên cơ sở tham vấn với các tổ
chức của người lao động và người sử dụng lao động, cũng như trên cơ sở tham chiếu
với các quy định ở Khuyến nghị số 190 của ILO [28, tr.3-4].
Khuyến nghị số 190 của ILO cũng đề cập đến sử dụng lao động trẻ em vào các
loại công việc trong nhóm thứ tư. Các công việc đó gồm:
 Những công việc khiến trẻ em lâm vào tình trạng dễ bị lạm dụng về thể
chất, tâm lý hoặc tình dục.
 Những công việc dưới mặt đất, dưới nước, ở độ cao nguy hiểm hay trong
không gian tù hãm.
 Những công việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị hoặc dụng cụ nguy
hiểm hoặc liên quan đến điều khiển thủ công hay vận chuyển hàng hoá nặng.
 Những công việc trong môi trường có hại cho sức khỏe, ví dụ như để trẻ
em phải tiếp xúc trực tiếp với các chất, hoá chất và các quy trình độc hại hay nhiệt
độ, các mức độ tiếng ồn hoặc độ rung ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ em.
 Những công việc trong những điều kiện đặc biệt khó khăn như làm việc

nhiều giờ liền, làm việc ban đêm hoặc công việc khiến trẻ em bị giam hãm một
cách vô lý trong các nhà xưởng của người sử dụng lao động.
Từ quan niệm trên đây của các tổ chức quốc tế về lạm dụng lao động trẻ em, có
thể đưa ra một khái niệm lạm dụng lao động trẻ em như sau:


20

Lạm dụng lao động trẻ em là tình trạng sử dụng trẻ em vào làm những công
việc nặng nhọc độc hại, nguy hiểm, ảnh hưởng xấu tới thể lực, trí tuệ, tinh
thần, đao đức và xã hội của trẻ em.
Lao động trẻ em và những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trong khái
niệm này đã được luận giải trong mục 1.1.1. Khái niệm lạm dụng lao động trẻ em
này sẽ được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn.
Liên quan đến tình trạng lạm dụng lao động trẻ em, tình trạng bóc lột trẻ em
cũng đang tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới và cần được xoá bỏ.
Tổ chức UNICEF xác định lao động trẻ em sẽ trở thành bị bóc lột nếu trẻ em
phải lao động trong những trường hợp như sau:
(i) Lao động khi còn quá bé, công việc trọn thời gian.
(ii) Làm quá nhiều giờ, cường độ cao ảnh hưởng đến việc học hành, vui chơi, giải trí
(iii) Lao động và sống trên đường phố trong những hoàn cảnh tồi tệ
(iv) Quá căng thẳng ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tinh thần và tâm lý.
(v) Thù lao không tương ứng với công sức bỏ ra.
(vi) Ảnh hưởng đến nhân phẩm như làm nô lệ, gán nợ, mãi dâm, đi ăn xin.
(vii) Làm công việc hay gánh vác trách nhiệm của người lớn.
Như vậy có thể thấy rằng, việc lạm dụng lao động trẻ em ở mức độ nào đó có
ảnh hưởng nặng nế tới sức khoẻ, thể chất, tâm lý của trẻ thì bị coi là bóc lột lao động
trẻ em. Bóc lột lao động trẻ em là việc lạm dụng lao động trẻ em ở mức độ gây hậu
quả nặng nề cho trẻ em .
1.1.2. 2. Các loại lạm dụng lao động trẻ em

Về cơ bản, lạm dụng lao động trẻ em được phân loại dựa trên các căn cứ phân
loại lao động trẻ em. Dưới đây là một số cách phân loại lạm dụng lao động trẻ em.


21

* Căn cứ vào tình trạng lạm dụng lao động trẻ em, có loại lạm dụng lao động
trẻ em bí mật hoặc công khai; loại lạm dụng lao động trẻ em ở phạm vi hẹp hoặc ở
phạm vi rộng; loại lạm dụng lao động trẻ em ở quy mô nhỏ hoặc ở quy mô lớn;
loại lạm dụng lao động trẻ em ở mức độ bình thường hoặc ở mức độ nghiệm trọng
(ở mức độ bóc lột lao động trẻ em),…
* Căn cứ vào nhận thức của đối tượng lạm dụng lao động trẻ em, có loại lạm
dụng lao động trẻ em một cách vô tình, do không hiểu biết về luật pháp hoặc lạm
dụng lao động trẻ em một cách cố ý,.…
* Căn cứ vào lĩnh vực ngành nghề mà lao động trẻ em bị lạm dụng, có loại lạm
dụng lao động trẻ em trong ngành công nghiệp, lạm dụng lao động trẻ em trong
ngành nông nghiệp, lạm dụng lao động trẻ em trong ngành thương mại dịch vụ,…
Phân loại lạm dụng lao động trẻ em cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ hơn
về lạm dụng lao động trẻ em, theo đó, có thể có những giải pháp chính sách phù
hợp đối với từng loại lạm dụng lao động trẻ em.
1.1.3. Phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em
1.1.3.1. Yêu cầu tất yếu của phòng ngừa, khắc phục tình trạng lạm dụng lao
động trẻ em
Phòng ngừa, khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em là yêu cầu tất yếu
của Việt Nam bởi những lẽ sau đây:
* Yêu cầu của Luật pháp quốc tế về lao động trẻ em
Tổ chức Lao động quốc tế (gọi tắt là ILO) được thành lập vào năm 1919.
Theo đó, các văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên do ILO ban hành về vấn đề lao
động trẻ em ra đời. Những văn kiện này tồn tại dưới dạng các công ước
(convention) và khuyến nghị (recommendation), nằm trong hệ thống những tiêu

chuẩn quốc tế về lao động nói chung, được xây dựng trên cơ sở sự thỏa thuận giữa
ba bên: các chính phủ, giới chủ và các tổ chức công đoàn. Từ đó đến nay ILO đã


22

ban hành được gần 200 công ước, gần 30 văn kiện đề cập đến việc bảo vệ trẻ em
khỏi các hình thức bóc lột và lạm dụng sức lao động. Trong đó có hai Công ước
cơ bản (kèm theo hai khuyến nghị) trực tiếp đề cập đến vấn đề ngăn ngừa, cấm và
xóa bỏ lao động trẻ em là Công ước số 138 (kèm theo là Khuyến nghị số 146) và
Công ước số 182 (kèm theo là Khuyến nghị số 190)... Hai Công ước số 138 và
182 thuộc vào tám điều ước ưu tiên (priority conventions) của ILO, theo đó yêu
cầu các quốc gia thành viên phải báo cáo việc thực hiện định kỳ hai năm/lần.
Ngoài ILO, Liên hợp quốc từ trước đến nay cũng có những hoạt động về
xoá bỏ lao động trẻ em. Trong hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con người do
Liên hợp quốc ban hành từ năm 1945 có một số văn kiện trực tiếp hoặc gián tiếp
liên quan đến vấn đề này, trong đó tiêu biểu là Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em, năm 1989. Dưới đây giới thiệu khái quát các văn kiện quốc tế chủ
chốt về ngăn ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em của ILO và Liên hợp quốc [23]:
Công ước số 138 và Khuyến nghị số 146 năm 1973 của ILO: Hai văn
kiện này còn được gọi chung là Các văn kiện năm 1973. Cùng với Công ước số
182 và Khuyến nghị số 190, đây là những văn kiện cơ bản hiện hành về vấn đề lao
động trẻ em. Công ước số 138 và Khuyến nghị số 146 năm 1973 đã củng cố nội
dung của những văn kiện trước đó về lao động trẻ em bằng việc xác định các độ
tuổi lao động tối thiểu áp dụng chung cho tất cả các ngành, nghề, khu vực kinh tế;
đồng thời yêu cầu các quốc gia phải thiết lập chính sách và thực thi các biện pháp
nhằm xóa bỏ lao động trẻ em một cách lâu dài.
Công ước số 182 và Khuyến nghị số 190 năm 1999 của ILO: Hai văn kiện
này còn được gọi chung là Các văn kiện năm 1999. Chúng không thay thế mà bổ
sung cho Các văn kiện năm 1973, thông qua việc xác định các hình thức lao động

trẻ em tồi tệ nhất, đồng thời yêu cầu các quốc gia phải xây dựng chương trình
hành động và tiến hành các biện pháp hiệu quả, tức thời để xoá bỏ các hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất trong thời hạn nhất định.


23

Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc. Đây là văn kiện
toàn diện, tiến bộ nhất về quyền trẻ em tính đến thời điểm hiện nay. Văn kiện xác
định tập hợp các quyền và tự do của trẻ em trên tất cả các lĩnh vực, nhằm mục
đích bảo đảm sự sống còn, phát triển toàn diện và bảo vệ trẻ em trước những nguy
cơ xâm hại. Các quyền trẻ em được nêu trong Công ước đều trực tiếp hoặc gián
tiếp góp phần bảo vệ trẻ em khỏi bị lạm dụng và bóc lột, tuy nhiên quan trọng nhất
là các quyền được ghi nhận trong các điều từ 28 đến 34. Đặc biệt, Điều 32 Công
ước trực tiếp yêu cầu các quốc gia thành viên thực thi các biện pháp cần thiết để
bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế, trong đó bao gồm việc quy định một hay
nhiều mức tuổi lao động tối thiểu trên cơ sở tính đến những tiêu chuẩn quốc tế
khác có liên quan (các điều ước quốc tế của ILO). Ngoài ra, hai Nghị định thư
không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em cũng đề cập đến việc xóa bỏ
hai trong số những dạng lao động trẻ em tồi tệ nhất là cưỡng bức trẻ em tham gia
chiến sự và buôn bán, bóc lột tình dục trẻ em.
Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của ILO (The
International Programme on the Elimination of Child Labour – gọi tắt là IPEC):
Đây là một chương trình hành động toàn cầu do ILO triển khai từ năm 1992 nhằm
giúp các quốc gia thành viên tăng cường năng lực giải quyết vấn đề lao động trẻ
em, tiến tới xóa bỏ dần dần tình trạng lao động trẻ em. Mặc dù chương trình này
không phải là một điều ước quốc tế, song nó có ý nghĩa rất to lớn đối với việc xóa
bỏ lao động trẻ em trên thế giới vì nó thể hiện sự đoàn kết và cam kết chung của
cộng đồng quốc tế trong vấn đề này và nó cung cấp những hỗ trợ kỹ thuật rất hữu
ích cho các quốc gia trong việc xây dựng và thực thi các chính sách, pháp luật về

ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Như vậy, theo quy định các công ước về quyền trẻ em của LHQ, trẻ em có
quyền dược chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ,
trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt


24

pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trẻ em được bảo vệ không bị bóc lột về
kinh tế và không phải làm bất kỳ công việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc
học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí
tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội của trẻ em. Các quốc gia thành viên phải tôn
trọng và bảo đảm những quyền lợi được nêu ra trong Công ước này đối với trẻ em
thuộc quyền tài phán của họ mà không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào, bất
kể trẻ em, cha mẹ hay người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc màu
da, giới tính, ngôn ngữ, chính kiến nào khác, nguồn gốc quốc gia, dân tộc hay xã
hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những mối tương quan khác.
* Yêu cầu của việc thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ trẻ em và thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh ở Việt Nam
Phê chuẩn Công ước LHQ về Quyền trẻ em, thực hiện cam kết tham gia các
Công ước số 182 và 138 về lao động trẻ em của ILO, phòng ngừa, khắc phục và
tiến tới xoá bỏ lạm dụng lao động trẻ em là một yêu cầu tất yếu khách quan để
Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ trẻ em.
Hơn nữa, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa,
mà “trẻ em là lớp măng non, là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân
tộc...” [44, tr.11]. Các em sẽ là lớp người xây dưng và bảo vệ tổ quốc sau này, là
người thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện tốt các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ đổi
mới và kế tục sự nghiệp thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, Người nói: ”Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì
vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân” [27,
tr.467-468]. “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải


25

trồng người” [27, tr.222]. Để xây dựng một đất nước phát triển, một xã hội công
bằng và văn minh, yêu cầu khách quan phải chọn cho mình một con đường phát
triển bền vững, tránh khủng hoảng, nợ nần và những nguy cơ trong bối cảnh toàn
cầu hóa, và phải gắn bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em với chiến lược đào tạo,
bồi dưỡng và phát triển cho trẻ em.
Phòng ngừa và khắc phục lạm dụng lao động trẻ em, tiến tới xóa bỏ lao
động trẻ em không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan để thực quyền trẻ em ở Việt
Nam theo các cam kết quốc tế mà còn là góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
* Phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em là vấn đề
tất yếu do những hệ luỵ của tình trạng lao động trẻ em
Những phân tích về hệ luỵ và hậu quả của tình trạng lao dộng trẻ em tại tiểu
mục 1.1.1.3 cũng cho thấy phòng ngừa, khắc phục tiến tới xoá bỏ tình trạng lao
động trẻ em bị lạm dụng hay lạm dụng lao động trẻ em là yêu cầu tất yếu của mọi
quốc gia.
* Phòng ngừa và khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em là một
trong những cách tốt nhất tiến tới xoá bỏ lao động trẻ em
Phòng ngừa lạm dụng lao động trẻ em là việc sử dụng các biện pháp ngăn
ngừa lạm dụng lao động trẻ em và loại trừ các nguyên nhân phát sinh lạm dụng lao
động trẻ em. Khắc phục lạm dụng lao động trẻ em là việc hỗ trợ, giải quyết giúp
cho trẻ em đã rơi vào tình trạng bị lạm dụng, bóc lột lao động và bị xâm hại do

bóc lột lao động, được tái hòa nhập cộng đồng, được lao động trong khung khổ
của pháp luật. Khắc phục tình trạng lạm dụng lao động trẻ em còn bao gồm cả
việc xử lý những tác nhân, tổ chức vi phạm Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em, lạm
dụng lao động trẻ em.


×