Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nghiên cứu đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên điạ bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng để sử dụng
để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn đầy đủ. Cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã
được chỉ rõ nguồn ngốc.

Sinh viên

Nguyễn Đức Tính

i


Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như trong quá trình thực hiện
đề tài, tôi đã nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo,
sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ khuyến nông huyện Anh Sơn và nhân dân
các xã Đức Sơn, Vĩnh Sơn, Phúc Sơn, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát
triển nông thôn, các thầy cô giáo trong trường đã truyền đạt cho tôi những
kiến thức bổ ích trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin bày tỏ biết ơn sâu sắc tới thầy giáo T.S Dương Văn Hiểu đã
nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ trạm khuyến nông huyện
Anh Sơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài, lấy
số liệu nhanh gọn và chính xác, cung cấp các thông tin bổ ích để đề tài được
hoàn thiện.
Tôi xin gửi tới bà con nông dân các xã: Đức Sơn, Vĩnh Sơn, Phúc Sơn
đã dành thời gian trao đổi, trả lời phỏng vấn tìm hiểu đề tài trong quá trình


điều tra ở địa phương
Tôi cũng xin gửi tới gia đình và bạn bè, những người đã tạo mọi điều
kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như
trong quá trình thực hiện đề tài - lời cảm ơn chân thành nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 2011
Sinh Viên

Nguyễn Đức Tính

ii


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Đầu tư công cho khuyến nông, khuyến ngư là nội dung quan trọng khi
thực hiện các chính sách đường lỗi chủ trương của đảng và nhà nước về phát
triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Từ khi thành lập đến nay hoạt
động khuyến nông đã có nhiều thành tựu đáng kể, thông qua các chương trình
dự án, các buổi trình diễn tập huấn đã hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển
kinh tế cải thiện đời sống cho người dân. Tuy nhiên, nhiều nơi việc phân bổ
sử dụng nguồn vốn đầu tư công cho hoạt động khuyến nông thiếu hợp lý,
công tác tổ chức hoạt động thiếu khoa học, còn chú trọng về thành tích, lợi
dụng thu hút dự án khuyến nông nhằm mục đích riêng,…dẫn đến hiệu quả sử
dụng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khuyến nông không hiệu quả. Vì vậy
hầu hết các kỹ thuật tiến bộ chuyển giao đều dừng lại ở mức độ mô hình, khả
năng mở rộng rất thấp, thậm chí bị cuốn gói ra đi khi không được đầu tư.
Hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Anh Sơn cũng không nằm ngoài
những nguyên nhân đó. Mặc dù quy mô vốn đầu tư còn thấp, nhưng do thiếu
khoa học trong việc quản lý, phẩn bổ sử dụng nguồn vốn và một số nguyên
nhân khác mà hiệu quả đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên địa bàn

huyện không cao, không đáp được sự kỳ vọng của các cấp ban ngành và nhân
dân. Xuất phát từ thực tế trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu
đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh
Nghệ An”
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và
thực tiễn về đầu tư công cho hoạt động khuyến nông; Đánh giá thực trạng đầu
tư và hiệu quả đầu tư công cho các hoạt động khuyến nông, phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công cho hoạt động khuyến nông, đề
xuất định hướng giải pháp nhằm tăng hiệu quả đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông của huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An

iii


Để tìm hiểu rõ thực trạng đầu tư công, hiệu quả của đầu tư công cho
hoạt động khuyến nông, tôi tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo: Tiếp cận đầu tư
công cho hoạt động khuyến nông theo nguồn vốn đầu tư; Tiếp cận đầu tư theo
nội dung hoạt động đầu tư tập huấn, đào tạo nghề, mô hình, tư vấn dịch vụ,…;
Tiếp cận phân bổ đầu tư theo ngành nghề, trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp
thủy sản. Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh
Nghệ An. Để thu thập số liệu sơ cấp phục vụ cho nghiên cứu, tôi tiến hành
nghiên cứu điều tra ba xã đại diện cho toàn huyện là: Đức Sơn, Vĩnh Sơn và
Phúc Sơn. Với mỗi xã tiến hành điều tra ngẫu nhiên 20 hộ theo tỷ lệ hộ
nghèo, cận nghèo, vượt nghèo của địa phương. Ngoài ra, Tôi còn tiến hành
phỏng vấn điều tra 5 trong số 6 cán bộ của trạm khuyến nông huyện Anh Sơn;
Đối với số liệu thứ cấp phục vụ cho nghiên cứu, tôi thu thập từ các báo cáo
hàng năm của trạm khuyến nông huyện, báo cáo thống kê của phòng thống kê
huyện. Sô liệu được thu thập trong vòng ba năm 2008, 2009, 2010
Qua nghiên cứu cho thấy đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên
địa bàn huyện Anh Sơn hiệu quả còn thập vì: Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư

công cho hoạt động khuyến nông huyện Anh Sơn còn thấp, bình quân mỗi
năm khoảng 300 đến 400 triệu đồng, và chủ yếu được đầu tư từ nguồn ngân
sách của nhà nước; Thứ hai, cơ chế phân bổ đầu tư cứng nhắc từ trên xuống.
Làm cho hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện thiếu sự chủ động, sáng
tạo. Nội dung không phù hợp với địa phương và điều kiện của người dân; Thứ
ba, hoạt động đầu tư thiếu sự quản lý, giám sát khoa học, hợp lý, chặt chẽ;
Thư tư, nội dung đầu tư quá chú trọng vào tập huấn, xây dựng mô hình. Nhiều
nội dung hoạt động quan trọng thiết thực chưa được quan tâm đầu tư đúng
mức; Thứ năm, nội dung các hoạt động khuyến nông được đầu tư chưa thật sự
xuất phát tư nhu cầu thực tế của nhân dân trong huyện

iv


Xuất phát tư thực trạng trên, tôi đưa ra một số định hướng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho hoạt động khuyến nông trên địa bàn
huyện như sau:
Thư nhất, về định hướng: Tăng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khuyến
nông; Nghiên cứu đưa ra một cơ chế quản lý, giám sát tình hình thực hiện triển
khai các hoạt động khuyến nông được đầu tư trong cả quá trình thực hiện và cả
kết quả đạt được sau khi kết thúc; Hoạt động khuyến nông được đầu tư cần phải
được phân cấp trao quyền cho cơ sở quyết định triển khai cả về khoa học kỹ
thuật chuyển giao và nội dụng hoạt động để chuyển giao; Tăng cường hơn nữa
các hoạt động khuyến nông mang tính chất thực tế hơn ít lý thuyết, thu hút được
sự tham gia của người dân; Chú trọng đẩy mạnh đầu tư cho các hoạt động
khuyến nông đào tạo nghề cho nông dân; Các hoạt động khuyến nông được đầu
tư cần có sự phân loại được nhu cầu của các nhóm hộ nông dân để đưa về các
mô hình mới phù hợp với từng nhóm nông dân
Thứ hai, về giải pháp thực hiện: Phải xem hoạt động đầu tư công cho
khuyến nông không chỉ là công việc, nguồn lực của chỉnh phủ mà là của toàn

xã hội; Trạm khuyến nông cần tăng cường liên kết với các tổ chức đoàn thể
xã hội trong huyện, các tổ chức cá nhân trong và ngoài huyện cùng hoạt động
vì mục đích hỗ trợ người nông dân, cùng tham gia đầu tư vào hoạt động
khuyến nông; Tăng cường sự tham gia của người dân vào hoạt động khuyến
nông tư việc đánh giá nhu cầu, lập kế hoạch đến xây dựng nội dung hoạt
động; Cần có một cơ chế phân bổ nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khuyến
nông một cách hợp lý, không cứng nhắc như hiện nay; tăng cương đầu tư cho
hoạt động đào tạo nghề cho nông dân

v


MỤC LỤC
3.2.5.1 Phương pháp thống kê mô tả...............................................................
3.2.5.2 Phương pháp so sánh...........................................................................
Đồ thị 4.1 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công cho hoạt động khuyến nông phân
theo nội dung đầu tư........................................................................
Đồ thị 4.2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng mô hình theo
ngành................................................................................................
Hộp 4.1 Khi được hỏi Bác Trần Văn Hà trưởng trạm cho biết.......................
Hộp 4.2 Bác Lê Văn Cương trạm phó khuyến nông huyện cho biết..............
Hộp 4.3 Bác Nguyễn Hữu Dung ở xóm 3 – Vĩnh Sơn – Anh Sơn – Nghệ
An cho biết khi hỏi về mức độ quan tâm tới nội dung tập huấn......
Hộp 4.4 Ý kiến của bác Nguyễn Công Bình xóm 15 xã Phúc Sơn Huyện
Anh Sơn Tỉnh Nghệ An...................................................................
Hộp 4.5 Bác Trần Văn Hùng xóm 15 xã Đức Sơn cho biết khi hỏi về mức
độ áp dụng kỹ thuật mới sau khi tập huấn.......................................
Hộp 4.6 Tâm sự của bác Võ khắc Hiền xóm 9 xã Vĩnh Sơn..........................
Hộp 4.7 Chỉ làm những mô hình phù hợp với gia đình...................................


vi


DANH MỤC BẢNG
3.2.5.1 Phương pháp thống kê mô tả...............................................................
3.2.5.2 Phương pháp so sánh...........................................................................
Đồ thị 4.1 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công cho hoạt động khuyến nông phân
theo nội dung đầu tư........................................................................
Đồ thị 4.2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng mô hình theo
ngành................................................................................................
Hộp 4.1 Khi được hỏi Bác Trần Văn Hà trưởng trạm cho biết.......................
Hộp 4.2 Bác Lê Văn Cương trạm phó khuyến nông huyện cho biết..............
Hộp 4.3 Bác Nguyễn Hữu Dung ở xóm 3 – Vĩnh Sơn – Anh Sơn – Nghệ
An cho biết khi hỏi về mức độ quan tâm tới nội dung tập huấn......
Hộp 4.4 Ý kiến của bác Nguyễn Công Bình xóm 15 xã Phúc Sơn Huyện
Anh Sơn Tỉnh Nghệ An...................................................................
Hộp 4.5 Bác Trần Văn Hùng xóm 15 xã Đức Sơn cho biết khi hỏi về mức
độ áp dụng kỹ thuật mới sau khi tập huấn.......................................
Hộp 4.6 Tâm sự của bác Võ khắc Hiền xóm 9 xã Vĩnh Sơn..........................
Hộp 4.7 Chỉ làm những mô hình phù hợp với gia đình...................................

vii


DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 4.1 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công cho hoạt động khuyến nông
phân theo nội dung đầu tư........................................................................46
Đồ thị 4.2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng mô hình
theo ngành................................................................................................52


DANH MỤC HỘP
Hộp 4.1 Khi được hỏi Bác Trần Văn Hà trưởng trạm cho biết............54
Hộp 4.2 Bác Lê Văn Cương trạm phó khuyến nông huyện cho biết. . .55
Hộp 4.3 Bác Nguyễn Hữu Dung ở xóm 3 – Vĩnh Sơn – Anh Sơn –
Nghệ An cho biết khi hỏi về mức độ quan tâm tới nội dung tập huấn.58
Hộp 4.4 Ý kiến của bác Nguyễn Công Bình xóm 15 xã Phúc Sơn
Huyện Anh Sơn Tỉnh Nghệ An............................................................64
Hộp 4.5 Bác Trần Văn Hùng xóm 15 xã Đức Sơn cho biết khi hỏi về
mức độ áp dụng kỹ thuật mới sau khi tập huấn....................................66
Hộp 4.6 Tâm sự của bác Võ khắc Hiền xóm 9 xã Vĩnh Sơn...............69
Hộp 4.7 Chỉ làm những mô hình phù hợp với gia đình........................71

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt
BQ
BQLĐ
CB
CBKN
CC
CNH – HĐH

Ý nghĩa
Bình quân
Bình quân lao động
Cán bộ
Cán bộ khuyến nông
Cơ cấu
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

viii



CN – TTCN – XD
ĐVT
GTSX
KHCN
KHKT
KNV
LĐNN
MH
NATESC
NN
PTNT
SL
SX
SXNN
TBKT
TG
UBND

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng
Đơn vị tính
Giá trị sản xuất
Khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Khuyến nông viên
Lao động nông nghiệp
Mô hình
Trung tâm dịch vụ khuyến nông và kỹ thuật Trung Quốc
Nông nghiệp

Phát triển nông thôn
Số lượng
Sản xuất
Sản xuất nông nghiệp
Tiến bộ kỹ thuật
Tham gia
Ủy ban nhân dân

ix


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Vai trò của nông nghiệp đối với đất nước là hết sức quan trọng. Nông
nghiệp tạo ra 85% việc làm cho cư dân nông thôn và là nguồn sinh kế kiếm sống
của hơn 70% dân số cả nước. Hàng năm ngành nông nghiệp cung cấp cho cả
nước lương thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước. Không những
thế, ngành nông nghiệp còn sản xuất ra các mặt hàng nông sản có giá trị xuất
khẩu cao mang về một lượng ngoại tế lớn cho đất nước. Vai trò là thế nhưng,
nông nghiệp, nông thôn, nông dân nước ta nơi có hơn 76% dân số và 72% lực
lượng lao động xã hội của cả nước vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Hiện nay,
90% số người nghèo của nước ta đang sống ở nông thôn.
Nền tảng của phát triển kinh tế đất nước là phát triển bền vững nông
nghiệp. Nhận thức được vai trò đó, chính phủ đã thành lập và xây dựng hệ thống
khuyến nông từ trung ương đến tận các thôn bản. Nhằm mục đích tiếp cận với
người nông dân tốt hơn; giúp họ phát triển kinh tế, làm giàu trên mảnh đất của
chính họ; góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn theo hướng hàng hóa hiện đại
Khuyến nông được hình thành năm 1993 và phát triển gắn liền với sản
xuất nông nghiệp. Mục tiêu, tầm quan trọng của hoạt động khuyến nông được

nêu rõ trong Nghị định 02/2010/NĐ – CP ngày 08/01/2010 của thủ tướng chính
phủ: “Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất
lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm; thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; huy động nguồn lực từ
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào công tác khuyến nông”.

1


Khuyến nông Anh Sơn được hình thành, hoạt động và phát triển từ năm
1995 đến nay theo quyết định số 179 QĐ/ UB ngày 18 tháng 12 năm 1995 của
UBND huyện. Được sự quan tâm và đầu tư của cả tỉnh và huyện, hoạt động
khuyến nông trên địa bàn đã góp phần vào phát triển kinh tế cho hộ nông dân,
phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế huyện nói chung. Mặc
dù nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện còn thấp
nhưng việc sử dụng nguồn vốn đó còn hạn chế. Vì vậy hiệu quả hoạt động
khuyến nông chưa cao, chưa đáp ứng được sự mong đợi của các ban ngành và
nhân dân trong huyện
Nguồn vốn đầu tư hàng năm cho hoạt đông khuyến nông huyện chủ yếu
được trích từ ngân sách nhà nước, phân bổ cho các hoạt động một cách cứng
nhắc từ trên xuống, ít tham khảo đề xuất của địa phương và của người dân. Đây
là vẫn đề đầu tiên làm cho nguồn vốn đầu tư không được sử dụng hiệu quả. Các
hoạt động được đầu tư không sát với thực tế, không phù hợp với bà con và điều
kiện kinh tế của địa phương. Do đó mà các chương trình, các mô hình sau khi
chuyển giao không được người dân đón nhận và áp dụng vào thực tế sản xuất
Nguồn vốn đầu tư chủ yếu tập trung đầu tư cho hoạt đông tập huấn và xây
dựng mô hình trình diễn với gần 90% tổng số vốn đầu tư. Trong khi đó các hoạt
động khác khá quan trong như đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho CBKN, Dạy nghề
cho nông dân,… lại không được đầu tư thực hiện. Việc đầu tư quá tập trung vào

một nội dụng hoạt động khuyến nông như thế gây ra việc láng phí đầu tư mà
hiệu quả không cao. Xây dựng mô hình là thiết thực nhưng chi phí cao, khả năng
để mọi đối tượng người dân đều tham gia thấp, còn tập huấn tuy có thể thu hút
tất cả mọi người tham gia nhưng thiếu thực tế.
Hoạt động đầu tư cho khuyến nông trên địa bàn huyện thiếu một cơ chế
giám sát hợp lý, chặt chẽ. Đây cũng là một lý do quan trọng làm cho việc đầu tư

2


thiếu hiệu quả. Hàng năm, cơ quan thẩm quyền là trung tâm KN tỉnh, sở KHCN
chỉ giám sát thông qua các văn bản, các báo cáo định kỳ, ít đi thăm qua thực tế.
Do đó khả năng giám sát rất thấp gây thất thoát nguồn vốn đầu tư, là yếu tố cho
tham ô láng phí xuất hiện. Việc hỗ trợ cho hoạt động đầu tư khi gặp khó khăn
không kịp thời.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đầu
tư công cho hoạt động khuyến nông trên điạ bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An”
nhằm tìm hiểu tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư công cho hoạt động khuyên
nông. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của đầu tư công cho
hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu thực trạng đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An, khuyến nghị các định
hướng và giải pháp hợp lý nhằm tăng cường tính hiệu quả đầu tư công cho hoạt
động khuyến nông trên địa bàn huyện.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông
- Đánh giá thực trạng đầu tư và hiệu quả đầu tư công cho các hoạt động

khuyến nông ở huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông tại huyện Anh Sơn
- Đề xuất định hướng giải pháp nhằm tăng hiệu quả của đầu tư công cho
hoạt động khuyến nông của huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An

3


1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận nào về vẫn đề đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên
địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An?
- Thực trạng đầu tư công cho khuyến nông trên địa bàn huyện Anh Sơn
tỉnh Nghệ An những năm qua như thế nào?
- Nhân tố nào ảnh hưởng tới đầu tư công cho hoạt động khuyến nông trên
địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An?
- Giải pháp nào để tăng cường tính hiệu quả của đầu tư công cho hoạt
động khuyến nông trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An
1.4 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư công cho hoạt động khuyến nông, cơ
chế phân bổ đầu tư công cho khuyến nông và kết quả, hiệu quả của đầu tư công
cho hoạt động khuyến nông tại huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung phân tích tìm hiểu thực trạng đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông và hiệu quả của các hoạt động khuyến nông được đầu tư đối với
nông dân tại huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An
1.4.2.2 Phạm vi về không gian
Nghiên cứu tại huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An

1.4.2.3 Phạm vi về thời gian
Thời gian nghiên cứu từ 05/01/2011 đền 26/05/2011
Số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập qua các tài liệu đã được công bố
trong các năm 2008, 2009 và 2010.

4


PHẦN II MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
ĐẦU TƯ CÔNG CHO HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
2.1 Cơ sở lý luận về đầu tư công cho hoạt động khuyến nông
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Đầu tư là gì?
Trong kinh tế học vĩ mô, đầu tư công là chỉ việc gia tăng tư bản nhằm tăng
cường năng lực sản xuất tương lai. Đầu tư, vì thế còn được gọi là hình thành tư
bản hoạc là tích lũy tư bản. Tuy nhiên, chỉ có tăng tư bản làm tăng năng lực sản
xuất vật chất mới được tính. Còn tăng tư bản trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và
kinh doanh bất động sản thì bị loại trừ. Việc gia tăng tư bản tư nhân (tăng thiết bị
sản xuất) được gọi là đầu tư tư nhân. Việc gia tăng tư bản xã hội được gọi là đầu
tư công cộng.
Theo cách hiểu của Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phượng (2007, kinh
tế đầu tư): đầu tư là sự từ bỏ các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm tha về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, có thể là
tài nguyên thiên nhiên, là lao động, là trí tuệ…
Các hoạt động bỏ tiền ra xây dựng công trình giao thông, thông tin… làm
tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu
tư trên giác độ nền kinh tế. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều nguồn lực. Theo
nghĩa hẹp thì nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa
rộng thì nguồn lực đầu tư phát triển bao gồm tiền vốn, đất đai, lao động, máy

móc, thiết bị, tài nguyên, khoa học công nghệ…
Như vậy, có thể hiểu rằng đầu tư bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong

5


tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
2.1.1.2 Đầu tư công là gì
Khái niệm đầu tư công được xây dựng theo các tính chất của quan hệ sở
hữu vốn, khu vực đầu tư, hiệu quả đầu tư và đối tượng đầu tư.
Cách thứ nhất: theo đối tượng sở hữu vốn, hoạt động đầu tư sử dụng vốn
thuộc sở hữu nhà nước được gọi là đầu tư công, thuộc sở hữu tư nhân gọi là đầu
tư tư nhân. Đây cũng chính là cách tiếp cận đầu tư công của dự thảo luật đầu tư
công (8/2007) thì “đầu tư công là đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước vào các
ngành, các lĩnh vực phục vụ lợi ích chung, không nhăm lợi ích kinh doanh”. Như
vậy, định nghĩa này tiếp cận đầu tư công theo góc độ chủ thể quản lý nhà nước,
nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với hoạt động đầu tư công.
Cách thứ hai: Theo khu vực đầu tư, nền kinh tế bao gồm hai khu vực là
công cộng và tư nhân. Hoạt động đầu tư thuộc khu vực công cộng gọi là đầu tư
công, còn đầu tư thuộc khu vực đầu tư tư nhân gọi là đầu tư tư nhân.
Cách thứ ba: Nhìn từ góc độ hiệu quả của đầu tư, kinh tế học vĩ mô cho
rằng: Đầu tư làm gia tăng tư bản xã hội gọi là đầu tư công cộng hay còn gọi là
đầu tư công. Cách tiếp cận trên nhìn từ góc độ quy mô tác động, hiệu quả của
đầu tư.
Cách thứ tư: Xem xét đối tượng hưởng thụ đầu tư và đầu ra của đầu tư,
các hoạt động sản xuất ra hàng hóa công cộng gọi là đầu tư công, các hoạt động
sản xuất ra hàng hóa tư nhân gọi là đầu tư tư nhân. Tiếp cận theo góc độ này,
kinh tế công cộng cho rằng: Đặc trưng chủ yếu của hàng hóa, dịch vụ công là
hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội, cộng đồng, việc tiến

hành hoạt động cung cấp hàng hóa ấy có thể do nhà nước trực tiếp đảm nhận,
trao quyền cung cấp hàng hóa công cho các ca nhân hoạc nhà nước tài trợ công
cho khu vực tư để cung cấp hàng hóa công (Nguyễn Văn Song, 2006). Theo

6


cách tiếp cận này, đầu tư công là hoạt động đầu tư cung cấp hàng hóa công, có
thể do nhà nước hoạc tư nhân đảm nhiệm dưới sự quản lý, hỗ trợ và định hướng
của nhà nước nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của xã hội, cộng đồng.
Điều 70, chương VII, luật đầu tư 2005 của nước ta quy định: “Tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng tham gia sản xuất, cung ứng
sản phẩm dịch vụ công ích, trừ trường hợp đặc biệt do chính phủ quy định.
Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ các hoạt động công ích và danh mục sản
phẩm, dịch vụ công ích”. Điều nay có nghĩa là nhà nước không độc quyền trong
lĩnh vực đầu tư cung cấp hàng hóa dịch vụ công, nhà nước có thể xã hội hóa hoạt
động này bằng việc trao một phần đầu tư cung cấp hàng hóa công cho khu vực
phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng, dù tiếp cận theo góc độ nào thì đầu tư công đều là hướng
đến mục tiêu chung là đầu tư phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội, của
cộng đồng, nhà nước có trách nhiệm đảm bảo, quản lý, điều tiết và giám sát các
hoạt động đầu tư này. Trong đề tài này, khái niệm đầu tư công được xem xét,
nhìn nhận theo cách thứ tư.
Như vậy, đầu tư công có thể hiểu: Là những hoạt động đầu tư nhằm phục
vụ nhu cầu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, do nhà nước trực tiếp
đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân đảm nhiệm.
2.1.1.3 Khái niệm về khuyến nông
Khuyến nông là một thuật ngữ khó định nghĩa một cách chính xác, vì
khuyến nông được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau, để phục vụ nhiều mục
đích rộng rãi, do đó có nhiều quan niệm và định nghĩa về khuyến nông, nhưng từ

những sự hiểu biết khác nhau đó, chúng ta cũng có thể thống nhất được những
quan điểm chung của khuyến nông.
Theo nghĩa chữ Hán, “khuyến” có nghĩa là khuyên ngươi ta cố gắng sức

7


trong công việc, còn “khuyến nông” nghĩa là khuyên mở mang phát triển trong
nông nghiệp.
Thuật ngữ “extension” có nguồn gốc ở Anh, sau đó được mở rộng tới các
hội giáo dục khác ở Anh và các nước khác. “extension” với nghĩa ban đầu là
“triển khai” hay “mở rộng”, khi ghép với từ “Agriculture” thành “Agriculture
extension” thì dịch là khuyến nông
“khuyến nông là phương pháp động, nhận thông tin có lợi tới người dân
và giúp họ thu được những kiến thức, kỹ năng và những quan điểm cần thiết
nhằm sử dụng một cách có hiệu quả thông tin hoạc kỹ thuật này” (B.E.Swanson
và J.B.Claar)
“Khuyến nông, khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm
giúp nông dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn”
(A.W.Van den ban và H.S Hawkins – khuyến nông, 1988).
“Khuyến nông, khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe những
khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự giải quyết vấn đề của chính họ” (Malla – A
Manual for training Field Workes, 1989).
Tóm lại thì có thể hiểu khuyến nông theo hai nghĩa:
Khuyến nông hiểu theo nghĩa rộng, là khái niệm chung để chỉ tất cả những
hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn. Khuyến nông là
ngoài việc hướng dẫn cho nông dân tiến bộ kỹ thuật mới, còn phải giúp hộ liên
kết với nhau để chống lại thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, hiểu biết các chính sách,
luật lệ nhà nước, giúp nông dân phát triển khả năng tự quản lý, điều hành, tổ
chức các hoạt động xã hội như thế nào cho ngày càng tốt hơn.

Khuyến nông hiểu theo nghĩa hẹp, là một tiến trình giáo dục không chính
thức mà đối tượng của nó là hộ nông dân. Tiến trình này đem đến cho nông dân
những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải quyết vấn đề hoạc

8


những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông hỗ trợ phát triển các hoạt động
sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không ngừng cải tiện chất lượng cuộc
sống của nông dân và gia đình họ. Khuyến nông là sử dụng các cơ quan nông
lâm ngư, các trung tâm khoa học nông lâm ngư để phổ biến, mở rộng các kết quả
nghiên cứu tới nông dân bằng các phương pháp thích hợp để họ có thể áp dụng
nhằm thu lại nhiều sản phẩm hơn.
Trên cơ sở đúc kết hoạt động khuyến nông ở Việt Nam, ta có thể định
nghĩa về khuyến nông như sau: Khuyến nông là cách đào tạo và rèn luyện tay
nghề cho nông dân, đồng thời giúp họ hiểu được những chủ trương, chính sách
về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, thông tin thị
trường, để họ có đủ khả năng tự giải quyết được những vấn đề của gia đình và
cộng đồng nhằm đầy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, góp
phần xây dựng và phát triển nông thôn.
Như vậy, có thể hiểu khuyến nông là bao gồm tất cả các hoạt động với
mục đích sát cánh cùng người nông dân, cùng làm với họ và hỗ trợ họ bao gồm
cả vật chất và tinh thần, kinh nghiệm quản lý, cách thức tổ chức sản xuất kinh
doanh để họ có thể tự mình giải quyết được vấn đề của chính họ và của cộng
đồng.
2.1.1.4 Hoạt động khuyến nông?
Hoạt động là một chuỗi các công việc có liên quan chặt chẽ đến nhau
nhằm mang lại mục đích nhất định trong đời sống xã hội.
Như vậy, hoạt động khuyến nông là chuỗi những công việc có hệ thống và
liên quan chặt chẽ với nhau nhằm mục đích đem kiến thức đến cho người nông

dân và giúp đỡ họ sử dụng kiến thức đó, giúp họ có thể tự giải quyết được chính
vấn đề của bản thân và của gia đình họ. Ngoài ra còn nhằm tuyên truyền những
chủ trương đường lỗi chính sách của đảng và nhà nước về sự phát triển nông
nghiệp và nông thôn.

9


*Nội dung hoạt động khuyến nông
Theo Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 08/01/2010 của chính phủ về khuyến
nông quy định hoạt động khuyến nông Việt Nam có những nội dung chủ yếu
sau:
Một là thông tin tuyên truyền:
- Phổ biến chủ trương đường lỗi của đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước thông qua hệ thống truyền thông đại chúng và các tổ chức chính trị xã hội
Với chức năng nhiệm vụ là chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật
đến bà con nông dân, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp thì công tác thông
tin tuyên truyền được xác định là một nội dung hoạt động quan trọng của công
tác khuyến nông không thể thiếu, góp phần không nhỏ vào thành tựu chung của
sản xuất nông nghiệp cả nước.
Hoạt động thường xuyên phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng
tuyên truyền phổ biến những chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước về
nông nghiệp, nông thôn và các tiến bộ KHKT thông qua các chương trình tuyên
truyền
- Phổ biến tiến bộ khoa học và công nghệ, các điển hình tiên tiến trong sản
xuất kinh doanh thông qua hệ thống thông tin đại chúng, tạp chí khuyến nông, tài
liệu khuyến nông, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ, triển lãm, diễn đàn và các
hình thức thông tin tuyên truyền khác; xuất bản và phát hành ấn phẩm khuyến
nông.
Thông qua hệ thống truyền thông, tạp chí khuyến nông, khuyến nông nều

lên những gương sản xuất giỏi trong nông lâm ngư nghiệp với những tiến bộ
khoa học công nghệ trong sản xuất đến với nông dân để người nông dân học hỏi
và tin tưởng với những tiến bộ khoa học đưa vào sản xuất, áp dụng vào thực tế
sản xuất của họ. Ngoài ra khuyến nông còn tổ chức các buổi hội nghị, hội thảo,

10


hội thi, hội chợ triển lãm nông nghiệp cho người nông dân để họ có thể chia sẻ
kinh nghiệm, trao đổi học hỏi lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, đây cũng là
một cách để những tiến bộ trong sản xuất nhanh chóng được áp dụng và triển
khai trong cuộc sống.
- Xây dựng và quản lý dữ liệu thông tin của hệ thống thông tin khuyến nông.
Hai là bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo:
- Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chính sách, pháp luật,tập
huấn truyền nghề cho nông dân về kỹ năng sản xuất, tổ chức, quản lý sản xuất
kinh doanh trong các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp.
- Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người hoạt động
khuyến nông, khuyến ngư.
- Tổ chức tham quan khảo sát, học tập trong và ngoài nước.
Ba là xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ:
- Xây dựng mô hình trình diễn và các tiến bộ khoa học công nghệ phù hợp
với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của ngành, các
mô hình sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng các mô hình công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nông nghiệp
hiệu quả và bền vững.
- Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ từ các mô hình trình diễn,
điển hình sản xuất tiên tiến.
Bốn là tư vấn và dịch vụ khuyến nông:

- Tư vấn và dịch vụ về các lĩnh vực:
+ Chính sách và pháp luật liên quan đền phát triển nông nghiệp, nông thôn.
+ Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức, quản lý để nâng cao
năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành, nâng cao sức

11


cạnh tranh của sản phẩm.
+ Khởi nghiệp cho chủ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ để lập dự án
đầu tư, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, tuyển dụng và đào tạo lao
động, lựa chọn công nghệ, và tìm kiếm thị trường.
+ Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng sản xuất, kinh doanh.
+ Cung ứng vật tư nông nghiệp.
- Tư vấn và dịch vụ khác liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Năm là hợp tác quốc tế về khuyến nông:
- Tham gia các hoạt động khuyến nông trong các chương trình hợp tác
quốc tế.
- Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, các cá nhân nước
ngoài và các tổ chức quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Nâng cao năng lực, trình độ ngoại ngữ cho người làm công tác khuyến
nông thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và các chương trình học tập,
khảo sát trong và ngoài nước.
Như vậy, nội dung hoạt động khuyến nông là rất rộng rãi liên quan đến rất
nhiều mặt của cuộc sống như kinh tế, xã hội và môi trường. Khuyến nông làm tốt
nội dung này sẽ giúp người nông dân phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực. Tuy
nhiên, hoạt động khuyến nông có hiệu quả hay không còn phụ thuộc nhiều đền
việc nghiên cứu để từ đó đưa ra những kỹ thuật tiến bộ mới phù hợp với điều
kiện sản xuất, tập quán canh tác của nông dân địa phương, để họ đến với hoạt
động khuyến nông một cách hoàn toàn tự nguyện.

2.1.1.5 Đầu tư công cho hoạt động khuyến nông là gì?
Theo nghĩa chung nhất, đầu tư công cho hoạt động khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư là quá trình sử dụng nguồn lực của công (của chính phủ, cộng
đồng và xã hội) trong và ngoài nước để hỗ trợ cho quá trình phát triển nông

12


nghiệp, nông thôn và nông dân theo hướng hiện đại bền vững, và là một lĩnh vực
chủ yếu của chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Đầu tư công cho khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư là nội dung quan trọng
khi thực hiện các chính sách đường lỗi chủ trương của đảng và nhà nước về phát
triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Mặt khác, đầu tư công còn được hiểu
không chỉ là nguồn lực của chính phủ của các cấp chính quyền mà còn là của xã
hội của cộng đồng.
Bản chất của đầu tư công cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư là thể hiện tăng cường năng lực cho người nông dân vươn lên tiếp
cận được với các nguồn lực, các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Qua đó giúp hộ
nông dân có thể tự tìm ra cách giải quyết vấn đề của chính hộ, góp phần phát
triển kinh tế hộ nói riêng và phát triển kinh tế nông thôn nói chung. Là bàn tay
hữu hình của chính phủ điều tiết khắc phục những thất bại của cơ chế thị
trường, hỗ trợ người nông dân phát triển sản xuất thu hút đầu tư của tư nhân
phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung và khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư nói riêng
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, nội dung của đầu tư công cho hoạt động
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư tập trung vào các hoạt động sau: Thông
tin tuyên truyền đường lỗi chủ trương chính sách của chính phủ và các tiến bộ
khoa học kỹ thuật thông qua hệ thống thông tin đại chúng và các tạp chí ấn
phẩm,…; Tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao tay nghề cho nông dân cũng
như bồi dưỡng năng lực trình độ cho người làm công tác khuyến nông; Thực

hiện xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ tiến bộ phù hợp đến
với nông dân; Tư vấn và dịch vụ khuyến nông cho người nông dân nhằm mục
đích giúp người nông dân tự giải quyết vấn đề của chình họ và biết cách thức tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế hộ gia đình và phát triển
nông nghiệp nông thôn bền vững.

13


2.1.2 Vai trò của đầu tư công cho hoạt động khuyến nông
- Đẩy mạnh, tăng cường hoạt động khuyến nông có hiệu quả, mang lại lợi
ích cho người nông dân, góp phần phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại,
phát triển nông thôn bền vững. Lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn là
một lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro mang lại hiệu quả thấp. Do đó, việc thu hút
đầu tư tư nhân vào lĩnh vực nông nghiệp là khó khăn. Đặc biệt là trong hoạt
động khuyến nông. Hiện nay, công tác khuyến nông ở một số địa phương trong
cả nước hoạt động chưa có hiệu quả cao mà nguyên nhân một phần là do kinh
phí hoạt động còn hạn hẹp. Trong khi đó nguồn vốn tư nhân đầu tư cho lĩnh vực
này là ít, vì vậy mà việc nhà nước đầu tư ngân sách sẽ góp phần đẩy mạnh công
tác khuyến nông có hiệu quả hơn. Tăng cường năng lực cho người nông dân tiếp
cận được với các nguồn lực phát triển sản xuất. Góp phần vào thực hiện chính
sách chủ trương của đảng và nhà nước phát triển nông nghiệp, nông thôn và
nông dân theo hướng hiện đại bền vững
- Đầu tư công vào công tác khuyến nông sẽ góp phần giúp đảng và nhà
nước tiếp cận được với nông nghiệp, nông dân, nông thôn sâu sắc và sát với thực
tế hơn. Từ đó giúp nhà nước có đươc cái nhìn tổng quát và có những chính sách,
định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, bền vững có hiệu quả.
Hoạt động khuyến nông ngoài nhiệm vụ chuyển giao khoa học kỹ thuật còn có
nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương đường lỗi của Đảng và chính sách của nhà
nước. Người làm công tác khuyến nông luôn ở cũng dân, nói dân hiểu và hiểu

những gì nông dân nói. Hay nói cách khác, khuyến nông còn là một tổ chức thay
chính phủ làm công tác dân vận, giúp chính phủ và Đảng tiếp cận nông dân sâu
sắc hơn
- Đầu tư công cho hoạt động khuyến nông góp phần phát triển kinh tế
nông thôn bền vững, phân phối lại thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giảm

14


khoảng cách giàu nghèo. Hoạt động khuyến nông với mục đích hỗ trợ nông dân
tổ chức quản lý nguồn lực làm kinh tế, chuyển giao những tiến bộ khoa học đến
người nông dân, cùng với nông dân bàn cách làm giàu ngay trên chính mảnh đất
của họ. Do đó, hoạt động khuyến nông sẽ góp phần phát triển kinh tế nông thôn
bền vững, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Ngoài ra, đầu tư cho hoạt
động khuyến nông là một trong những công cụ đầu tư hỗ trợ của chính phủ đối
với người nghèo và hoạt động xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Với ý nghĩa
đó, hoạt động đầu tư công cho khuyến nông là một trong những ngón tay hữu
hình của chính phủ nhằm khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường, phân
phối lại thu nhập giữa nông thôn và thành thi, giảm khoảng cách giàu nghèo
- Hoạt đông khuyến nông làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, làm
tăng sản lượng cây trồng góp phần ổn định đảm bảo an ninh lương thực. Với
xu hướng đất nông nghiệp đang dần bị thu hẹp, dân số ngày càng tăng thì hoạt
động khuyến nông cùng với các cơ quan tổ chức khác trong lĩnh vực nông
nghiệp nghiên cứu thử nghiệm cây con mới có năng suất sản lượng cao và
nhân rông ra thực tế, góp phần tăng sản lượng lương thực đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia.
- Đưa ra các khuyến nghị cho định hướng chiến lược, chính sách, định
hướng giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả của đầu tư công cho hoạt động khuyến
nông nói riêng và cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung.
Thông qua các kinh nghiệm đúc rút được từ những hoạt động đầu tư công cho

khuyên nông sẽ giúp chính phủ các địa phương có những chính sách hợp lý cho
phát triển nông nghiệp nông dân nói chung và tăng hiệu quả của công tác khuyến
nông nói riêng.

15


2.1.3 Đặc điểm của đầu tư công cho hoạt động khuyến nông
2.1.3.1 Đầu tư công mang tính chất xã hội
Mục đích của đầu tư công cho hoạt động khuyến nông là phục vụ lợi ích
chung cho toàn xã hội, không vì mục tiêu kinh doanh hay phân biệt tầng lớp, tôn
giáo, dân tộc trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
2.1.3.2 Đầu tư công cho hoạt động khuyến nông cung cấp dịch vụ công loại
hàng hóa đặc biệt
Là hàng hóa do nhà nước cung ứng hoạc ủy nhiệm cho tổ chức thực hiện,
đáp ứng yêu cầu xã hội, không mang tính loại trừ, tính cạnh tranh. Mọi đội tượng
từ tổ chức kinh tế kinh doanh nông nghiệp đến những người nông dân đều có
quyền ngang nhau trong việc tiếp cận hàng hóa công này
2.1.3.3 Đối tượng sử dụng nguồn đầu tư công
Đối tượng sử dụng nguồn đầu tư công gồm các chương trình, dự án đầu tư
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân; Các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ; các dự án đầu tư và hoạt động chuyển giao, các mô hình, giao
dục không chính thức nhăm mục đích phát triển kinh tế hộ nông dân, phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.1.3.4 Nguồn vốn của đầu tư công cho hoạt động khuyến nông
Chủ yếu là tư ngân sách nhà nước, bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư công
cho hoạt động khuyến nông còn huy động từ sự đóng góp của cộng đồng, từ các
tổ chức tư nhân trong và ngoài nước. Đầu tư công chủ yếu là do nhà nước cấp
vốn và thực hiện nhằm mục đích sâu xa là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao thu nhập và đời sông của người dân nông thôn, thực hiện công

bằng xã hội nhất là ở các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới hải đảo.

16


×