Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.94 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Dưới sức ép của
quy luật cạnh tranh, các doanh nghiệp khi tham gia thị trường buộc phải tìm
nhiều biện pháp nâng cao năng lực kinh doanh để tồn tại và phát triển trên thị
trường. Một trong những biện pháp nâng cao năng lực kinh doanh của các doanh
nghiệp trên thị trường đó là tập trung các nguồn lực kinh tế nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế. Những biện pháp nâng cao năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp
trên thị trường được gọi là tập trung kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, các hình thức, biện pháp tiến hành tập trung kinh tế diễn ra ngày
càng phổ biến và trở thành một phần quan trọng của quyền tự do kinh doanh
được pháp luật thừa nhận. Chính vì vậy cần có sự kiểm soát những hành vi này
để tránh tình trạng hình thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh khống chế thị

1


trường. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin tìm hiểu đề tài:“Thực trạng
pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế”. Do kiến thức còn nhiều
thiếu sót, em hy vọng sẽ nhận được sự góp ý từ phía thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về tập trung kinh tế
1. Khái niệm và đặc điểm
Trong khoa học kinh tế, tập trung kinh tế được nhìn nhận là chiến lược
tích tụ vốn và tập trung sản xuất hình thành các chủ thể kinh doanh có quy mô
lớn nhằm khai thác lợi thế nhờ quy mô.
Dưới góc độ pháp luật, tập trung kinh tế được pháp luật của nhiều nước


hướng vào việc xác định các dấu hiệu cũng như hình thức thực hiện tập trung
kinh tế mà không đưa ra quy định giải thích tập trung kinh tế là gì. Pháp luật
cạnh tranh Việt Nam cũng không đưa ra khái niệm mang tính khái quát để định
nghĩa hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức tập trung kinh tế.
Theo Điều 16 Luật cạnh tranh 2004:

2


“Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
5. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật”.
Hành vi tập trung kinh tế có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế là các doanh nghiệp
theo Luật cạnh tranh 2004. Đối với từng hình thức tập trung kinh tế, chủ thể
thực hiện phải đáp ứng những yêu cầu nhất định. Các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế có thể là doanh nghiệp hoạt động trên cùng hoặc không trên cùng
một thị trường liên quan. Tuy nhiên, theo quy định của Luật cạnh tranh, hiện
nay Luật mới chỉ tập trung kiểm soát những hành vi tập trung kinh tế giữa các
doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan.
Thứ hai, hành vi tập trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức
nhất định theo quy định của pháp luật. Bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp, hợp
nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp.
Thứ ba, hậu quả của hành vi tập trung kinh tế là làm thay đổi tương quan
cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời dễ hình thành các doanh nghiệp có
sức mạnh thị trường, có ảnh hưởng tới cạnh tranh.
2. Các hình thức tập trung kinh tế

Theo Khoản 1, Điều 17 Luật cạnh tranh 2004:
“Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một

3


doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp
nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một
phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình
để hình thành một doanh nghiệp mới”.
II. Thực trạng pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
1. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế
* Tự do tập trung kinh tế
Các doanh nghiệp sẽ được tự do tập trung kinh tế mà không chịu sự kiểm
soát của cơ quan cạnh tranh trong các trường hợp:
- Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp trên thị
trường liên quan thấp hơn 30%
- Doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo
quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng

cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong trường hợp này sự tập trung kinh tế chưa có khả năng tạo ra vị trí
thống lĩnh cho doanh nghiệp hình thành sau khi tập trung. Lúc này, việc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh chỉ đơn giản là các biện pháp cơ cấu lại

4


kinh doanh hoặc đầu tư vốn bình thường nên chưa chứa đựng những nguy cơ đe
dọa đến trật tự cạnh tranh trên thị trường.
* Tập trung kinh tế có sự kiểm soát
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50%
trên thị trường liên quan thì sẽ chịu chịu sự kiểm soát của cơ quan cạnh tranh.
* Tập trung kinh tế bị cấm
Theo Điều 18 Luật cạnh tranh 2004 thì các trường hợp tập trung kinh tế bị
cấm:
“Luật cạnh tranh có quy định cấm thực hiện tập trung kinh tế đối với các
trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh
nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan và doanh nghiệp hình
thành sau hoạt động tập trung kinh tế không thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và
vừa theo quy định của pháp luật”.
Theo đó, những trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn mang bản
chất hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, việc tập trung kinh tế đã hình
thành một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên
thị trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều đó đã làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường.
Với cách xác định này thì trường hợp tập trung kinh tế mà các doanh

nghiệp trong vụ việc này có thể chỉ có thị phần kết hợp trên 50% tại một thị
trường liên quan nào đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu doanh thu của các bên
thì nếu các bên muốn thực hiện vụ việc sáp nhập mà lại không thuộc diện được
hưởng miễn trừ thì cũng không thể thực hiện được.
Như vậy, Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm
tập trung kinh tế và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các
trường hợp tập trung kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm
căn cứ để kiểm soát tập trung kinh tế cho thấy, Luật cạnh tranh của Việt Nam

5


chỉ quan tâm đến các trường hợp tập trung kinh tế theo chiều ngang. Vì vậy việc
sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp không cùng thị
trường liên quan không chịu sự kiểm soát của Luật cạnh tranh. Đây cũng chính
là một hạn chế khi kiểm soát hành vi tập trung kinh tế chỉ căn cứ vào yếu tố thị
phần mà không dựa trên đánh giá tác động của hành vi tập trung kinh tế trên thị
trường. Đồng thời các số liệu chứng minh về thị phần chỉ phản ánh năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp ở quá khứ hoặc hiện tại. Nếu chỉ dựa vào chúng để
đánh giá tác động của tập trung kinh tế đến tương lai của thị trường cạnh tranh
có nghĩa là chúng ta đang đặt thị trường trong trạng thái tĩnh.
* Trường hợp tập trung kinh tế được miễn trừ
Theo Điều 19 Luật cạnh tranh thì các trường hợp miễn trừ đối với tập
trung kinh tế bị cấm bao gồm:
“1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị
giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
Ở trường hợp thứ nhất, quy định “Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung
kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản” được

giải thích tại Điều 36 Nghị định 116/2005/NĐ-CP:
“1. Doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải thể là doanh nghiệp thuộc
trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của doanh
nghiệp nhưng chưa tiến hành thủ tục giải thể hoặc đang tiến hành thủ tục giải
thể nhưng chưa có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
2. Doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của Luật
Phá sản.”
Theo đó thì phá sản là tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Mất khả năng

6


thanh toán là việc doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Ở trường hợp thứ hai, việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất
khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Theo
đó, để có thể được hưởng cơ chế miễn trừ các bên có liên quan phải chứng minh
rằng kết quả của giao dịch mua bán sáp nhập có tác dụng tốt đối với xã hội
thông qua việc mở rộng xuất khẩu hoặc phát triển kinh tế xã hội hoặc góp phần
phát triển tiến bộ khoa học kĩ thuật. Vậy kết quả như thế nào mới là đáp ứng
được yêu cầu của Khoản 2, Điều 19 thì lại phụ thuộc vào sự đánh giá của cơ
quan cạnh tranh. Việc này có thể dẫn tới sự dễ dãi trong việc cho hưởng miễn
trừ hoặc trường hợp không cho hưởng miễn trừ mặc dù có thể giao dịch mua bán
sáp nhập có nhiều lợi ích đối với nền kinh tế hơn là những tác hại mà chúng
mang lại.
Như trường hợp sáp nhập Công ty Cổ phần Chuyển mạch tài chính Quốc
gia Việt Nam (Banknetvn) và Công ty Cổ phần Dịch vụ thẻ Smartlink
(Smartlink) đã được Thủ tướng chính phủ chấp thuận cho hưởng miễn trừ tập

trung kinh tế do thấy được những lợi ích sau sáp nhập mang lại là giúp các ngân
hàng tiết kiệm nguồn lực, chi phí đầu tư hạ tầng. Các giao dịch thanh toán,
chuyển tiền của khách hàng sẽ thuận tiện và nhanh chóng hơn, không còn tình
trạng phân biệt nội mạng và ngoại mạng. Khách hàng cũng có cơ hội hưởng
nhiều tiện ích thanh toán hiện đại hơn.. Thời hạn được hưởng miễn trừ tập trung
kinh tế là 5 năm và tự động gia hạn sau mỗi 5 năm nếu các bên tham gia tập
trung kinh tế không vi phạm các điều kiện và nghĩa vụ cho hưởng miễn trừ. 1
Như vậy, Luật cạnh tranh cũng đã cân nhắc đến các yếu tố về tính hiệu
quả của các trường hợp tập trung kinh tế bằng cách đặt ra những trường hợp có
thể được miễn trừ. Có nhiều trường hợp xét về hình thức, hành vi tập trung kinh
1

Theo />
7


tế của các doanh nghiệp đã cấu thành đủ các dấu hiệu để kết luận là vi phạm
Luật cạnh tranh, song chúng lại có nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của
kinh tế – xã hội. Những lợi ích đó có thể góp phần giúp cho một bên của giao
dịch thoát khỏi nguy cơ bị phá sản, hoặc nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp quốc nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế… Khi đó, vấn đề
miễn trừ sẽ được đặt ra. Tuy nhiên trên thực tế, với các tiêu chí được qui định tại
Điều 19 Luật cạnh tranh 2004 đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho cả doanh nghiệp
và cơ quan cạnh tranh trong quá trình áp dụng cơ chế miễn trừ.
2. Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế
2.1. Thủ tục thông báo tập trung kinh tế
Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50%
trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải
thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.

Trường hợp không phải thông báo:
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp
hơn 30% trên thị trường liên quan.
- Doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế
Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ thông báo việc
tập trung kinh tế, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo bằng văn
bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ về tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ; trường hợp hồ
sơ chưa đầy đủ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm chỉ rõ những nội
dung cần bổ sung.
Bước 3: Trả lời thông báo về hồ sơ tập trung kinh tế
Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ thông báo tập
trung kinh tế, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản

8


cho doanh nghiệp nộp hồ sơ. Văn bản trả lời của cơ quan quản lý cạnh tranh
phải xác định tập trung kinh tế thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm;
- Tập trung kinh tế bị cấm; lý do cấm phải được nêu rõ trong văn bản trả
lời.
Trường hợp việc tập trung kinh tế có nhiều tình tiết phức tạp, thời hạn trả
lời có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không
quá 02 lần, mỗi lần không quá 30 ngày và phải thông báo bằng văn bản cho
doanh nghiệp nộp hồ sơ chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày hết hạn trả
lời thông báo, nêu rõ lý do của việc gia hạn.
Bước 4: Thực hiện tập trung kinh tế
Đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thuộc

diện phải thông báo chỉ được làm thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp sau khi được cơ
quan quản lý cạnh tranh trả lời bằng văn bản về việc tập trung kinh tế không
thuộc trường hợp bị cấm.
Quy định nghĩa vụ phải thông tin chính xác về thị phần của các bên tham
gia tập trung kinh tế là một khó khăn cho doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh
nghiệp chỉ có thể biết và chịu trách nhiệm về doanh số của mình mà không có
nghĩa vụ phải nắm được doanh số của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường,
trong khi đây lại là căn cứ để tính toán thị phần của các bên tham gia tập trung
kinh tế. Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thu thập một khối lượng lớn thông tin
liên quan đến thị trường và thị phần tạo một áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp
mong muốn thực hiện thủ tục thông báo tập trung kinh tế.
2.2. Thủ tục miễn trừ tập trung kinh tế
Bước 1: Nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp trên 50% trên thị
trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải nộp hồ sơ

9


đề nghị hưởng miễn trừ tới cơ quan cạnh trạnh. Hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ
phải theo quy định tại Điều 29 Luật cạnh tranh 2004.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ đề nghị
hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định hoặc
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách
nhiệm thông báo bằng văn bản cho bên nộp hồ sơ về tính đầy đủ của hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm chỉ
rõ những nội dung cần bổ sung.
Bước 3: Trả lời thông báo về hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ

* Trường hợp tập trung kinh tế thuộc thẩm quyền cho hưởng miễn trừ
của Bộ trưởng Bộ Công thương thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, Bộ trưởng Bộ Công thương ra một
trong các quyết định sau đây:
- Chấp thuận các bên được hưởng miễn trừ;
- Không chấp thuận các bên được hưởng miễn trừ.
Trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp, thời hạn ra quyết định có thể được
gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá ba mươi ngày.
* Trường hợp tập trung kinh tế thuộc thẩm quyền cho hưởng miễn trừ của
Thủ tướng Chính phủ, thời hạn ra quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận
cho hưởng miễn trừ là 90 ngày, kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ đề nghị hưởng
miễn trừ; trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định là một
trăm tám mươi ngày.
Bước 4: Thực hiện tập trung kinh tế
Đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế được
hưởng miễn trừ chỉ được làm thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp sau khi có quyết định
cho hưởng miễn trừ của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Công thương.

10


Như vậy, cần phải thấy rằng cơ chế miễn trừ không đương nhiên áp dụng.
Thủ tục miễn trừ được coi như điều kiện đủ để các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế rơi vào trường hợp bị cấm
nhưng thỏa mãn đủ điều kiện được miễn trừ được thực hiện các thỏa thuận, các
hành vi tập trung kinh tế. Điều đó có nghĩa là các hành vi hạn chế cạnh tranh
được miễn trừ không mặc nhiên được thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện do
luật định về mặt nội dung mà phải có được quyết định cho hưởng miễn trừ của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chúng luôn có giá trị trong một thời hạn nhất

định hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp
luật.
Theo Báo cáo của Cục quản lý cạnh tranh năm 2012 2 thì Chính phủ đã có
một số biện pháp để thực hiện sáp nhập một số doanh nghiệp nhà nước để hoạt
động có hiệu quả hơn, cụ thể là:
- Sáp nhập EVN Telecom vào Viettel
- Chuyển giao vốn nhà nước tại Jetstar Pacific sang Vietnam Airlines
quản lý
- Sáp nhập 3 Tổng công ty dịch vụ Cảng hàng không tại 3 miền
Những trường hợp này về bản chất là thuộc trường hợp được miễn trừ
theo quy định của Luật cạnh tranh (nếu thị phần kết hợp trên 50%) vì đều được
Thủ tướng Chính phủ quyết định. Như trường hợp của EVN Telecom và Viettel,
Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết số 2151/2011/QĐ-TTg ngày
05/12/2011 về việc điều chuyển Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực (EVN
Telecom) từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sang Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel). Đây là quyết định hành chính mà không phải quyết định cho
hưởng miễn trừ theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Vậy câu hỏi đặt ra là
quyết định hành chính này có thay thế được cho thủ tục miễn trừ tập trung kinh
2

Theo “Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam 2012” của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương
/>
11


tế hay không? Và việc sáp nhập hai công ty này có vi phạm quy định về thủ tục
miễn trừ đối với trường hợp tập trung kinh tế bị cấm hay không?
3. Xử lý vi phạm
Vi phạm quy định của pháp luật về tập trung kinh tế có thể bao gồm:
- Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm

- Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm
- Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm
- Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm
- Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế
Theo Nghị định số 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật cạnh tranh về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, các doanh nghiệp vi phạm
quy định về tập trung kinh tế có thể phải chịu các hình thức xử lý vi phạm sau:
Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, doanh
nghiệp nhận sáp nhập có thể bị buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập; doanh
nghiệp hợp nhất có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và
biệp pháp khắc phục hậu quả: thu hồi giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp đã
cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, buộc chia, tách doanh nghiệp hợp nhất; doanh
nghiệp mua lại có thể bị buộc phải bán lại phần tài sản mà doanh nghiệp đã mua;
doanh nghiệp liên doanh có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật
Các quy định kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế phải đảm bảo sự
bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ hoàn
toàn hiện tượng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác.

12


Thứ nhất, phải thống nhất và làm rõ các quy định và khái niệm. Cần phải
quy định các tiêu chí cụ thể để dễ dàng hơn trong việc xác định thế nào là “mở
rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ”. Theo đó, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh khi tiến hành xem xét
một giao dịch mua bán sáp nhập có rơi vào các trường hợp miễn trừ hay không
sẽ có những tiêu chí cụ thể. Trên cơ sở đó cơ quan cạnh tranh sẽ cân nhắc trong

từng trường hợp cụ thể. Mặt khác, các doanh nghiệp tham gia vào các giao dịch
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn trong việc thuyết phục cơ
quan cạnh tranh về khả năng được hưởng miễn trừ.
Thứ hai, nên quy định kiểm soát tập trung kinh tế không chỉ dựa trên yếu
tố thị phần mà cần xem xét đến cả đánh giá tác động của hành vi tập trung kinh
tế đến thị trường. Bởi mức thị phần chỉ biểu thị cho quá khứ và hiện tại, còn cái
cần kiểm soát lại chính là sức ảnh hưởng do hành vi tập trung kinh tế ở tương
lai.
Đồng thời, pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những
trường hợp tập trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và
những trường hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế. những chuẩn mực rõ
ràng và hợp lý của pháp luật cạnh tranh là cần thiết để các chủ thể trên thị
trường có thể nhận dạng được một cách đúng đắn và chính xác những hoạt động
tập trung kinh tế nào có tác động tích cực tới nền kinh tế và ngược lại, qua đó sẽ
điều chỉnh và xây dựng chiến lược kinh doanh cho phù hợp và đem lại hiệu quả
thực sự cho doanh nghiệp nói riêng, đóng góp cho nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, Các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó
khăn cho doanh nghiệp, không cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp
pháp của doanh nghiệp. Theo đó, các thủ tục cần phải được minh bạch, công
khai, không tạo nên sự “khó hiểu” cho doanh nghiệp. Như trường hợp sáp nhập
EVN Telecom vào Viettel ở trên thông qua quyết định hành chính của thủ tướng
Chính phủ như một ngoại lệ sẽ gây ra tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh

13


nghiệp, nhất là giữa doanh nghiệp Nhà nước và những doanh nghiệp khác. Mà
đây lại chính là hành vi bị cấm theo Khoản 2, Điều 6 Luật cạnh tranh 2004:
“Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp”. Chính vì vậy, để khắc phục tình
trạng này cũng như hoàn thiện quy định của pháp luật thì cần phải bổ sung quy

định về ngoại lệ đối với thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế. Tức là với những
trường hợp ngoại lệ này các doanh nghiệp sẽ thực hiện hành vi tập trung kinh tế
thông qua quyết định hành chính. Khi đó cho phép các trường hợp tập trung
kinh tế do Chính phủ tiến hành được thực hiện không cần phải tuân theo thủ tục
của pháp luật cạnh tranh nhằm tránh sự chồng chéo không cần thiết.
Đồng thời, nên nghiên cứu xem xét điều chỉnh Luật Cạnh tranh theo
hướng quy định thủ tục thông báo tập trung kinh tế đối với những trường hợp
tập trung kinh tế có khả năng làm thay đổi cấu trúc thị trường liên quan, hình
thành doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, hoặc ảnh hưởng đến môi
trường cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ chủ động tiến hành điều tra,
thẩm định để yêu cầu doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hưởng miễn trừ để Thủ tướng
Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Công thương xem xét ra quyết định cho phép
hoặc cấm thực hiện tập trung kinh tế. Quan trọng hơn, cơ chế này sẽ tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp khi họ không cần phải tự chịu trách nhiệm tính toán thị
phần của mình trên thị trường liên quan khi nộp hồ sơ thông báo – một yếu tố
quan trọng mà các doanh nghiệp đang lúng túng trong việc xác định có thuộc
diện phải nộp hồ sơ thông báo hoặc hồ sơ xin hưởng miễn trừ tập trung kinh tế
hay không. Cơ chế này cũng làm cho cơ quan quản lý cạnh tranh nắm được một
cách đầy đủ, chính xác con số và giá trị các giao dịch tập trung kinh tế để làm cơ
sở cho việc kiểm soát có hiệu quả, góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh, tránh những nguy cơ thao túng thị trường, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường có thể xảy ra.

KẾT LUẬN
14


Để vừa tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh, vừa quản lý được thị trường
dưới góc độ tập trung kinh tế và các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh,
cũng như là động lực thúc đẩy các giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, liên

doanh của Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa, chúng ta cần Luật hóa và chi tiết
hóa các căn cứ pháp lý hơn nữa. Cạnh tranh sẽ là động lực tốt để chúng ta hoàn
thành việc xây dựng nền kinh tế thị trường. Và hoạt động tập trung kinh tế chính
là một trong những yếu tố góp phần phát triển nó.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Luật cạnh tranh 2004

2.

Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật cạnh tranh 2004

3.

Nghị định số 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật cạnh tranh về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh

4.

Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa.

5.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. CAND,
2011


6.

Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam 2012” của Cục Quản lý cạnh tranh
– Bộ Công Thương

7.

Tập trung kinh tế dưới góc độ của luật cạnh tranh Việt Nam năm 2004/
Trần Thị Bảo Ánh. Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 11/2007, tr. 3
–8

15


8.

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh năm 2004 - Khả
năng thực thi và định hướng hoàn thiện/ Nguyễn Như Phát. Khoa học pháp
lý. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 2/2012, tr. 10 - 19

9.

/>
10.
11.

/> />
12.

/>%91i-v%E1%BB%9Bi-cac-giao-d%E1%BB%8Bch-mua-ban-sap-nh

%E1%BA%ADp-doanh-nghi%E1%BB%87p-b%E1%BB%8B-c%E1%BA
%A5m-theo-phap-lu%E1%BA%ADt-c/

16



×