Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Đánh giá hiện trạng môi trường nông thôn trên địa bàn xã Thuỷ An – huyện Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.74 KB, 58 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Môi trường đang trở thành một vấn đề nan giải mà xã hội quan tâm
hiện nay. Để giải quyết những vấn đề đó cần có những công trình nghiên cứu
về xử lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm khi thải ra môi trường góp phần gìn giữ và
bảo vệ môi trường. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở
nước ta trong những năm gần đây phát triển rất nhanh. Dân số đã tăng lên
nhanh chóng đặc biệt là các khu vực đô thị, các thành phố lớn. Sự gia tăng
dân số đã kéo theo việc sử dụng nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất, lượng
rác thải, khói bụi và tiếng ồn ngày càng tăng. Ô nhiễm môi trường tại các đô
thị đang trở thành một vấn đề đáng quan tâm.
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, xã Thuỷ
An là xã thuần nông thuộc huyện Đông Triều, nông dân chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp và chăn nuôi số hộ được sử dụng nước sạch còn thấp. Việc thu
gom, xử lý rác thải từ trước tới nay do từng hộ nông dân xử lý, xã chưa có lực
lượng thu gom thường xuyên. Vì vậy tình trạng rác thải vứt bừa bãi, hôi thối
gây ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đời sống của các hộ nông dân trong xã mà
còn ảnh hưởng đến mỹ quan chung của huyện. Nhận thức của người dân về
việc thu gom, xử lý rác thải trong quá trình chăn nuôi và sinh hoạt lại chưa
cao, xác súc vật chết đều đổ ra khe, suối gần nhà và quanh vườn; Nhà tiêu
không đảm bảo vệ sinh…đây là những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi
trường, phát sinh dịch bệnh trên địa bàn xã thời gian qua, ảnh hưởng sức khoẻ
cộng đồng, phá huỷ cân bằng môi trường.
Trong những năm qua, quá trình đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến
môi trường của xã, gây ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất ở các mức
độ khác nhau. Ngoài nguyên nhân khách quan (như vị trí địa lí, điều kiện tự


nhiên), nguyên nhân chủ quan là sự gia tăng của các hoạt động kinh tế - xã
hội, dân cư, thiếu quy hoạch không gian lãnh thổ và thiếu quan tâm trong
công tác quản lý môi trường của các cơ quan quản lý cấp cơ sở.


Do đó cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để ngăn ngừa,
hạn chế, khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhất là khi quá trình đô
thị hóa diễn ra ngày càng mạnh, nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách bền
vững.
Đây cũng là lý do để em tiến hành đề tài: “Đánh giá hiện trạng chất
lượng môi trường khu vực trên địa bàn xã Thuỷ An – huyện Đông Triều –
tỉnh Quảng Ninh”
2. Mục tiêu của đề tài
- Điều tra, đánh giá chất lượng môi trường nông thôn tại xã Thuỷ
An – huyện Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất biện pháp bảo vệ và quản lý môi trường tại địa phương.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Nâng cao kiến thức, kĩ năng và rút ra nhiều kinh nghiệm thực tế phục
vụ cho công tác sau này.
- Vận dụng và phát huy các kiến thức đã học tập và nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được chất lượng môi trường trên địa bàn xã Thuỷ An, từ đó
rút ra những nhận xét, kết luận làm cơ sở cho các biện pháp quản lý, bảo vệ
môi trường, những định hướng xây dựng phù hợp và đảm bảo sự cân bằng
giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường


- Nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ môi trường làm
cơ sở lý thuyết cho các nhà quản lý, các nhà đầu tư và nghiên cứu.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở pháp lý

- Luật BVMT Việt Nam - Ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc Hội
Nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Quyết định số 104/2000/QĐ – TTg ngày 25/08/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh
nông thôn đến năm 2020.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y Tế số 08/2005/QĐ – BYT ngày
11/03/2005 về việc ban hành tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại nhà tiêu.
- Nghị định số 149/2004/NĐ – CP ngày 27/07/2004 của Chính phủ quy
định về việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước
thải vào nguồn nước.
- Thông tư của Bộ Y Tế số 15/2006/TT – BYT ngày 30/11/2006 hướng
dẫn việc kiểm tra vệ sinh nước sạch, nước ăn uống, nhà tiêu và hộ gia đình.
- Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5944-1995) Chất lượng nước - Tiêu
chuẩn chất lượng nước ngầm.
- Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5502:2003 nước cấp sinh hoạt – yêu cầu
chất lượng.
1.2. Cơ sở lý luận
Các khái niệm liên quan
- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và sinh vật.


- Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như
đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình
thái vật chất khác.
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng
phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện
môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo

vệ đa dạng sinh học.
- Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế
hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo
đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất
thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và
bảo vệ môi trường.
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người,
sinh vật .
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của
thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt
động của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy
thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.


- Tai biến môi trường là điều kiện, yếu tố, hiện tượng, quá trình xảy ra
trong môi trường sống, gây nguy hiểm và tổn hại cho tính mạng, sức khỏe, tài
sản, hoạt động của con người và các chức năng của môi trường (Đào Đoàn
Mạnh,2012) [1].
- Chất gây ô nhiễm là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi
trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm.
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
- Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy,
dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
- Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm

thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải
- Phế liệu là sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu
dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất
- Sức chịu tải của môi trường là giới hạn cho phép mà môi trường có
thể tiếp nhận và hấp thụ các chất gây ô nhiễm.
- Kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của Nhà
nước, các tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối
với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do
ô nhiễm môi trường gây nên (La Thị Cẩm Vân, 2013) [3].
- Quan trắc môi trường là quá trình theo dõi có hệ thống về môi
trường, các yếu tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin phục vụ
đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối
với

môi

trường.

- Thông tin về môi trường bao gồm số liệu, dữ liệu về các thành phần môi


trường; về trữ lượng, giá trị sinh thái, giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; về các tác động đối với môi trường; về chất thải; về mức độ môi
trường bị ô nhiễm, suy thoái và thông tin về các vấn đề môi trường khác.
- Đánh giá môi trường chiến lược là việc phân tích, dự báo các tác
động đến môi trường của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
- Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động
đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi
trường khi triển khai dự án đó.

- Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo
đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc
gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
- Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm
của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là
chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi
trường.
- Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa,
lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo
quy định của pháp luật.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
1.3.1.1. Ô nhiễm không khí
Nguồn gây ra ô nhiễm bao gồm hai loại chính là nguồn tự nhiên và
nguồn nhân tạo. Đối với nguồn nhân tạo, chúng rất đa dạng nhưng chủ yếu do


các hoạt động công nghiệp, quá trình đốt cháy các nguyên liệu hóa thạch, hoạt
động của các phương tiện giao thông vận tải và nông nghiệp (Quyền Thị
Dung, 2013)[4].
*Do sản xuất công nghiệp
Phát sinh chủ yếu từ các ống khói nhà máy, đặc biệt với các nhà máy
chưa có bộ phận xử lý chất thải sau quá trình sản xuất. Tùy từng loại hình
công nghiệp có thể thải ra bụi, khí, và hơi. Lượng thải và mức độ độc hại rất
khác nhau, tùy thuộc vào quy mô công nghiệp công nghệ áp dụng, nguyên
liệu sử dụng và phương pháp đốt.
*Do giao thông vận tải

Nguồn gây ra ô nhiễm do giao thông vận tải sinh ra gần 2/3 khí CO 2 và
1/3 khí CO cùng với khí NO. Đặc điểm nổi bật của các nguồn này là tuy
nguồn gây ô nhiễm tính theo đơn vị phương tiện giao thông vận tải có quy mô
nhỏ nhưng lại tập trung suốt dọc tuyến đường giao thông nên tác hại rất lớn,
nguồn gây ô nhiễm thấp, di động, khả năng khuyếch tán phụ thuộc các chất ô
nhiễm phụ thuộc chủ yếu vào địa hình và kiến trúc các phố hai bên đường.
Tại Hà Nội, các nhà khoa học cho rằng hoạt động giao thông vận tải là một
nguồn gây ô nhiễm rất lớn.
*Do hoạt động sản xuất nông nghiệp
Ô nhiễm do hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu do đốt rừng làm
rẫy, làm cho khí CO2 tăng lên, khí CH4 tạo ra do sựu phân hủy chất hưu cơ từ
các trang trại chăn nuôi hoặc từ các đống rác xử lý không đúng kỹ thuật.
Bên cạnh đó ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất nông
nghiệp còn gây ra bởi các hoạt động phun thuốc bảo vệ thực vật bằng bình


phun, vòi phun, máy bay. Phân gia súc phân hủy, phân bón gây mùi hôi thối
tạo điều kiện cho các loại sinh vật truyền bệnh phát triển như ruồi, nhặng…
*Ô nhiễm không khí trong nhà
Đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến
con người, nguồn gây ô nhiễm trong sinh hoạt chủ yếu là lò sưởi và bếp đun
sử dụng các nhiên liệu như than, củi dầu lửa, khí đốt… Nguồn gây ô nhiễm
này tuy nhỏ nhưng thường gây ô nhiễm cục bộ trong một không gian nhỏ nên
có thể để lại hậu quả lớn và lâu dài. Bên cạnh đó nguồn gây ô nhiễm trong
nhà còn có thể kẻ tới các khí sinh ra từ các nguồn thải sinh hoạt, khói thuốc
lá, các hợp chất hữu cơ bay hơi có nguồn gốc từ các loại sơn và các vật liệu
xây dựng. Đặc biệt tại các khu vực tập trung đông dân cư, diện tích sinh hoạt
nhỏ hẹp mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe con người lại càng lớn.
1.3.1.2. Ô nhiễm nước
*Nguồn nước mặt

Do nhiều lý do khác nhau, các nguồn nước trên Trái đất ngày càng cạn
kiệt. Ước tính có khoảng 1/3 dân số thế giới đang sống trong tình trạng thiếu
nước trầm trọng. Trong khi đó, dân số gia tăng với tốc độ chóng mặt. Quá
trình đô thị hoá, hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đang khiến cho
các nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Nguồn nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ con người.
Gần 5 triệu người chết hàng năm ở các nước đang phát triển có liên quan đến
vấn đề thiếu nước sạch.
Những chất gây ô nhiễm chủ yếu trong nước là các mầm bệnh sinh ra
từ chất thải của con người (vi khuẩn và virus), kim loại nặng và hoá chất từ
chất thải công nghiệp, nông nghiệp. Uống nước đã bị ô nhiễm hoặc ăn thức ăn


chế biến bằng nước nhiễm độc là hình thức phơi nhiễm phổ biến nhất. Ăn cá
bắt từ nguồn nước bị ô nhiễm cũng có thể nguy hiểm vì chúng có thể mang
mầm bệnh và tích luỹ các chất độc hại như kim loại nặng và các chất hữu cơ
bền thông qua quá trình tích luỹ sinh học. Ngoài ra, con người cũng có thể bị
ảnh hưởng bởi cây trồng được tưới bằng nước ô nhiễm hoặc do đất bị nhiễm
bẩn bởi các dòng sông ô nhiễm dâng lên.
*Nước ngầm
Nước ngầm là nguồn nước nằm ở dưới bề mặt lớp đất sỏi và trong
những tầng địa chất thấm qua được. Nước ngầm là một nguồn rất quan trọng
của nước sạch, chiếm 97% lượng nước ngọt trên Trái đất. Khoảng 2 tỉ người,
cả ở thành phố và nông thôn đang phụ thuộc vào lượng nước này cho những
nhu cầu sống hằng ngày. Nhưng nguồn nước này giờ đây cũng đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng do nhiều lý do khác nhau.
Ở đô thị, các nguồn gây ô nhiễm nước ngầm chính là các bãi chôn lấp
rác thải không hợp vệ sinh. Ngoài ra nước thải từ hoạt động sản xuất công
nghiệp, khai thác khoáng sản đều có khả năng bị rò rỉ và ngấm vào tầng chứa
nước nước ngầm. Hoạt động sản xuất nông nghiệp với việc sử dụng quá nhiều

thuốc trừ sâu và phân bón cũng là nguồn đe doạ lớn đối với nguồn nước
ngầm.
Các quá trình hình thành địa chất tự nhiên là nguồn giải phóng kim loại
nặng vào nước ngầm, trong đó phổ biến nhất là ô nhiễm Asen. Một nghiên
cứu mới đây cho thấy nguồn nước ngầm của nhiều quốc gia thuộc khu vực
Nam Á và Đông Nam Á có hàm lượng Asen rất cao. Cao nhất là Băng-la-đét.
Hiện có 1/15 dân số nước này đang phải uống nước có hàm lượng Asen cao
hơn 5 lần mức cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).


Nước ngầm rất khó xử lý, do đó việc bảo vệ nguồn nước đó là cực kỳ
quan trọng. Một số biện pháp ngăn chặn cơ bản là tăng cường kiểm soát đối
với việc xả thải, xây dựng hệ thống thoát nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, cho
đến nay ở các nước đang phát triển các biện pháp này được tiến hành rất
chậm chạp, trong khi hệ thống nước ngầm đang ngày càng bị nhiễm bẩn
nghiêm trọng (Quyền Thị Dung, 2013) [4].
1.3.1.3. Ô nhiễm đất
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất là nông dược và phân hóa học
chúng tích lũy dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là việc sử dụng hóa chất
bảo vệ thực vật trong nông nghiệp đang gây ô nhiễm đất nghiêm trọng, làm
vỡ kết cấu đất, xói mòn đất (Quyền Thị Dung, 2013) [4].
Ô nhiễm đất do nông dược và phân hóa học. Ô nhiễm đất xảy ra chủ
yếu ở nông thôn. Trước hết là do sự bành trướng của kĩ thuật canh tác hiện
đại. Nông nghiệp hiện nay phải sản xuất một lượng lớn thức ăn trong khi đất
trồng trọt tính theo đầu người ngày càng giảm vì dân số tăng và cũng vì sự
phát triển thành phố, kỹ nghệ và những sử dụng phi nông nghiệp. Người ta
cần phải thâm canh hơn, dẫn tới việc làm xáo trộn dòng năng lượng và chu
trình vật chất trong hệ sinh thái nông nghiệp.
Phân hóa học chắc chắn đã gia tăng năng suất, nhưng việc sử dụng lặp
lại, với liều rất cao gây ra sự ô nhiễm đất do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa,

Nitrat và photphat rải một cách dư thừa sẽ chảy theo nước mặt và làm ô
nhiễm các mực thủy cấp. Cũng thế, nông dược và vô cơ hay hữu cơ cũng có
thể làm ô nhiễm đất và sinh khối.
Thâm canh không ngừng của nông nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều
các chất nhân tạo như phân hóa học và nông dược… làm cho đất ô nhiễm tuy
chậm nhưng chắc, không hoàn lại (irreversible), đất sẽ kém phì nhiêu đi.


1.4. Thực trạng môi trường trên Thế giới và Việt Nam
1.4.1. Thực trạng môi trường trên Thế giới
Viện Blacksmith, một tổ chức nghiên cứu môi trường quốc tế có trụ sở
tại New York (Mỹ), vừa công bố danh sách 10 thành phố thuộc 8 nước được
coi là ô nhiễm nhất thế giới năm 2006.
Tại các thành phố này, hơn 10 triệu người có nguy cơ bị nhiễm trùng,
ung thư phổi và giảm tuổi thọ. Trẻ em bị lở loét do ảnh hưởng của các chất
gây ô nhiễm môi trường.10 thành phố này gồm:
+ Thành phố Dzerzhinsk ở Nga, từng là khu vực sản xuất vũ khí hoá
học lớn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
+ Thành phố Lâm Phần, Trung tâm công nghiệp than của Trung Quốc.
+ Thành phố Kabwe ở Zambia, khu vực khai thác mỏ và luyện kim
loại, trong đó có cả chì.
+ Thành phố Haina ở Cộng hoà Dominica, nơi tái chế và nấu chảy pin,
người dân nơi đây có nồng độ chì trong cơ thể rất cao.
+ Thành phố Ranipet ở Ấn Độ, nơi hơn ba triệu người bị ảnh hưởng bởi
chất thải từ các xưởng thuộc da.
+ Thành phố Chernobyl ở Ukraine, một khu vực nổi tiếng bởi thảm hoạ
phóng xạ 20 năm trước.
+ Thành phố Mayluu-Suu ở Kyrgyzstan.
+ Thành phố La Oroya ở Peru.
+ Thành phố Norilsk ở Nga.

+ Thành phố Rudnaya ở Nga.


Theo báo cáo của Viện này, các khu vực ô nhiễm nhất thế giới là những
khu vực hẻo lánh cách xa thủ đô và các khu du lịch của các nước. Những
nước có các thành phố bị ô nhiễm môi trường, phần lớn là các nước đang phát
triển, thiếu các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, cộng thêm sự thiếu hiểu biết của
chính quyền địa phương và sự bất lực của người dân trong việc giải quyết các
tình trạng ô nhiễm.
Cũng theo báo cáo, đa số ô nhiễm của các khu vực này xuất phát từ chì
không được kiểm soát, mỏ than hoặc các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân
chưa được lọc sạch. Ô nhiễm môi trường ở những thành phố này gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ người dân và gia tăng nạn nghèo đói.
Những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất của ô nhiễm môi trường là nơi con
người sinh sống có tuổi thọ thấp nhất, trẻ sơ sinh bị khuyết tật, tỉ lệ hen trẻ em
trên 90% và chậm phát triển trí tuệ.
Nghiên cứu do các cơ quan của Liên hiệp quốc tiến hành cho thấy
khoảng 20% trường hợp chết sớm trên toàn thế giới là do các nhân tố ô nhiễm
môi trường gây nên.
*Tại Chernobyl, báo cáo ước tính 5,5 triệu người vẫn bị đe doạ bởi vật
liệu phóng xạ tiếp tục thấm vào mạch nước ngầm và đất cách đây 20 năm sau
thảm hoạ nổ nhà máy điện hạt nhân.
*Người dân ở Lâm Phần, trung tâm tỉnh Sơn Tây, nơi chuyên khai thác
than của Trung Quốc, thường bị viêm phế quản, viêm phổi, ung thư phổi do
chất lượng không khí kém.
*Khoảng 300.000 người ở Dzherzhinsk (thuộc Nga), một khu vực sản
xuất vũ khí hoá học trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, tuổi thọ chỉ bằng một nửa
so với dân của các nước giàu nhất. Tuổi thọ của đàn ông ở Dzherzhinsk là 47
và của phụ nữ là 42.



Trên thực tế, Viện Blacksmith đã tham gia các chương trình khắc phục
tình trạng gây ô nhiễm môi trường ở 5 trong số 10 thành phố nói trên có môi
trường bị ô nhiễm. Trước hết là lắp đặt các nhà máy lọc nước, đồng thời tiến
hành giáo dục mọi người, đặc biệt là trẻ em, tích cực tham gia các hoạt động
bảo vệ môi trường, thực hiện các biện pháp khắc phục có hiệu quả tình trạng
ô nhiễm nói trên trong điều kiện có thể.
Theo cảnh báo của Viện Blacksmith, ngoài 10 thành phố trên bị coi là ô
nhiễm nhất thế giới, còn có 25 thành phố khác trên toàn cầu cần sớm triển
khai nhanh các hoạt động bảo vệ môi trường.
*Ô nhiễm nước:
Các mầm bệnh trong nước ô nhiễm có thể gây ra hàng loạt các bệnh
liên quan đến đường ruột, đặc biệt nguy hiểm và có thể gây tử vong đối với
trẻ em và những người có thể trạng nhạy cảm. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
cho biết ô nhiễm nguồn nước là một trong những nguyên nhân gây tử vong
lớn nhất trong số các vấn đề về môi trường. Những chất độc tích luỹ trong cá
và các loại thức phẩm khác ít có nguy cơ gây độc cấp tính nhưng lại có thể để
lại hậu quả lâu dài.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước mặt hiện đang diễn ra với hầu hết các con
sông lớn ở các nước đang phát triển, điển hình như Trung Quốc và Ấn Độ.
Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá một cách ồ ạt đã khiến cho nguồn nước
cung cấp cho sinh hoạt hằng ngày của người dân trở nên tồi tệ. Theo dự đoán,
trong một vài thập kỷ tới, có tới 2/3 dân số thể giới sẽ phải sống trong cảnh
thiếu nước.
Trong thời gian qua, các quốc gia cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc
giải quyết vấn đề ô nhiễm nước mặt, tuy nhiên kết quả mang lại còn hạn chế.
Ấn Độ đã tốn hàng trăm triệu rupi cho kế hoạch Hành động sống Hằng thực


hiện từ những 1980 nhằm giảm ô nhiễm trên dòng sông này, nhưng hầu như

không mang lại kết quả.
Trung Quốc mặc dù đã cải thiện đáng kể chất lượng nước ở sông
Hoàng Phố chảy qua thành phố Thượng Hải bằng khoản đầu tư hàng tỉ USD
trong 20 năm cùng với việc đóng cửa các cơ sở gây ô nhiễm nhưng hoạt động
công nghiệp và sự phát triển đô thị lại đang gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn
nước sông Dương Tử, con sông lớn nhất quốc gia này.
Một thực tế cho thấy, các chương trình phục hồi chất lượng nước mặt là
có thể thực hiện được nhưng rất tốn kém. Và điều đó dường như đồng nghĩa
với việc những người dân nghèo sống xung quanh các lưu vực bị ô nhiễm vẫn
tiếp tục phải ăn uống và sinh hoạt bằng những nguồn nước chết người đó.
*Ô nhiễm không khí:
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm không khí ở các nước đang phát
triển là do việc đốt than và các chất đốt sinh học (gỗ, phân động vật và rơm
rạ) để nấu ăn, sưởi ấm và chiếu sáng. Hơn 50% dân số thế giới dùng năng
lượng để đun nấu theo cách này, hầu hết họ đều sống ở các nước nghèo.
Trong khi đa số người dân ở các nước có thu nhập cao đã chuyển sang
dùng các sản phẩm từ dầu mỏ và điện để đun nấu, thì ở các nước đang phát
triển như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Châu Phi cận Sahara, tới 80% các
gia đình ở thành phố và hơn 90% các hộ dân ở nông thôn vẫn đun nấu bằng
các nguồn nhiên liệu truyền thống này.
Nhiên liệu sinh học được đốt chủ yếu bằng các bếp thô sơ, do đó chúng
thường không được đốt cháy hoàn toàn. Điều này vừa gây ra sự lãng phí
nguyên liệu vừa gây ô nhiễm không khí. Cùng với hệ thống thông gió không
đảm bảo đã làm cho hàm lượng bụi và khói độc trong nhà cao, rất có hại cho
sức khoẻ con người. Trong đó những người bị ảnh hưởng nhiều nhất là phụ


nữ - những người thường xuyên nấu ăn và trẻ nhỏ thường xuyên được địu trên
lưng mẹ.
Sự đốt cháy nguyên liệu sinh học tạo thành các hạt. Các hạt với đương

kính nhỏ hơn 10 micro (PM10) và đặc biệt nhỏ hơn 2.5 micro (PM2.5) có thể
xuyên sâu vào phổi. Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã khuyến cáo
rằng hàm lượng trung bình 24 giờ của PM10 không nên vượt quá 150 µg/m 3.
Trong khi đó, nếu đun nấu với nguyên liêu sinh học truyền thống hàm lượng
PM10 trong không khí trong nhà có thể đạt từ 300 đến 3000 µg/ m 3, cao gấp
hơn 20 lần lượng cho phép. Thậm chí vào thời điểm đun nấu con số này có
thể lên tới 30.000 µg/ m3, gấp 200 lần hàm lượng cho phép.
Ô nhiễm không khí gây ra 3 triệu ca tử vong mỗi năm và là nguyên
nhân cho 4% căn bệnh trên toàn thế giới, tập trung chủ yếu ở các nước có thu
nhập thấp. Hàng năm, nhiều chương trình đã được thực hiện trên toàn thế giới
để giảm thiểu mối đe doạ bởi ô nhiễm không khí. Phần lớn chúng đều tập
trung vào việc giới thiệu những loại bếp sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, trong những năm tới những nỗ lực này cần được bổ sung bằng những
cách tiếp cận toàn diện hơn bao gồm cải thiện hệ thống lưu thông gió, thay
đổi cách sống và một loạt các giải pháp truyền thông khác.
1.4.2. Hiện trạng môi trường ở Việt Nam
Nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là
kéo theo đô thị hoá. Theo kinh nghiêm của nhiều nước, tình hình ô nhiễm môi
trường cũng gia tăng nhanh chóng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong vòng
10 năm tới tăng bình quân khoảng 7%/năm, trong đó GDP công nghiệp
khoảng 8-9%/năm, mức đô thị hoá từ 23% năm lên 33% năm 2000, thì đến
năm 2010 lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên gấp 2,4 lần so với


bây giờ, lượng ô nhiễm do nông nghiệp và sinh hoạt cũng có thể gấp đôi mức
hiện nay.
Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường
ngày càng nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gây ra. Tại thành phố Hồ Chí Minh có

25 khu công nghiệp tập trung hoạt động với tổng số 611 nhà máy trên diện
tích 2298 ha đất. Theo kết quả tính toán, hoạt động của các khu công nghiệp
này cùng với 195 cơ sở trọng điểm bên ngoài khu công nghiệp, thì mỗi ngày
thải vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai tổng cộng 1.740.000 m 3 nước thải
công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130 tấn BOD 5 (làm
giảm nhu cầu ôxy sinh hoá), 1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy hoá học),
104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô
nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh
vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá trình phân huỷ và làm sạch
các dòng sông.

.

Các loại ô nhiễm thường thấy tại các đô thị Việt Nam là ô nhiễm nguồn
nước mặt, ô nhiễm bụi, ô nhiễm các khí sulfure, cacbonic, nitrit, ô nhiễm chì
(Pb), chất thải rắn (trong sinh hoạt, bệnh viện). Giáo sư Lâm Minh Triết (Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) trong buổi hội thảo “Bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững ở Việt Nam” đã nhấn mạnh: “Nồng độ các chất
ô nhiễm trong nước mặt thường rất cao như là chất rắn lờ lững, nhu cầu ôxy
sinh hoá, nhu cầu ôxy hoá học, nitơrit, nitơrat... gấp từ 2-5 lần, thậm chí tới
10-20 lần trị số tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước mặt loại B, chỉ số
E.Coli vượt tiêu chuẩn cho phép hàng trăm lần. Ngoài các chất ô nhiễm hữu


cơ trên, môi trường nước mặt đô thị ở một số nơi còn bị ô nhiễm kim loại
nặng và chất độ hại như là chì, thuỷ ngân, asen, clor, phenol...”
* Môi trường nước
Vấn đề đầu tiên phải kể đến về hiện tượng môi trường sống của người
dân ở các vùng nông thôn Việt Nam đang bị tàn phá nghiêm trọng là nước

sạch và vệ sinh môi trường (VSMT) nông thôn.
Nếu như chúng ta quan niện nước sạch chỉ đơn giản la nước mưa, nước
giếng khoan qua xử lý bằng bể lọc đơn giản chứ không phải nước sạch như
đã được xử lý ở các thành phố lớn thì tỉ lệ ngươi dân nông thôn, nhất là khu
vực miền núi còn rất thấp.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khỏe, là
nguyên nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán… các bệnh
này gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, kém phát triển gây tử vong nhất ở trẻ em.
Có đến 80% trường hơp bị tiêu chảy la do thiếu nước sạch, VSMT kém. Có
thể thấy, nguyên nhân gây ra tinh trạng ô nhiễm môi trường và nguồn nước ở
nông thôn do các nguyên nhân cơ bản sau :
- Đầu tiên phải kể đến tình trạng sử dụng hóa chất trong nông nghiệp nhu
phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan mà không có kiêm soát.
Nhìn chung lượng phân bón hóa học ở nước ta sử dụng còn ở mức
trung bình cho 1(ha) gieo trồng, bình quân 80-90 kg/ha (cho lúa là 150180kg/ha), so với Hà Lan 758 kg/ha, Nhật 430 kg/ha, Hàn Quốc 467 kg/ha,
Trung Quốc 390 kg/ha. Tuy nhiên việc sử dụng này lại gây sức ép đến môi
trường nông nghiệp và nông thôn với 3 lý do: sử dụng không đúng kỹ thuật
nên hiệu lực phân bón thấp; bón phân không cân đối; nặng về sử dụng phân
đạm; chất lượng phân không đảm bảo, các loại phân bón N-P-K, hữu cơ vi
sinh, hữu cơ khoáng do các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên thị trường


không đảm bảo chất lượng đăng ký, nhãn mác bao bì nhái, đóng gói không
đúng khối lượng đang là áp lực chính cho ngươi nông dân và môi trường đất.
Ngoài ra, ở miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tâp quán sử dụng phân bắc,
phân chuồng tươi vào canh tác. Ở đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi được
coi là nguồn thức ăn cho cá, gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh hưởng
đến sức khỏe con người.
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm;
thuốc trừ chuột; thuốc trừ bệnh; thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất

độc với mọi sinh vật; Tồn dư lâu dài trong môi trường đất – nước gây ra ô
nhiễm; Tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa gây chết tất cả các sinh vật
có hại và có lợi trong môi trường đất, nước.
Hiện nay, nước ta chưa sản xuất được thuốc BVTV mà phải nhập khẩu
để gia công hoặc nhập khẩu thuốc thành phẩm bao gói lớn để sang chai đóng
gói nhỏ tại các nhà máy trong nước.
Nguyên nhân tình trạng trên là do việc quản lý thuốc BVTV còn nhiều
bất cập và gặp nhiều khố khăn. Hàng năm khoảng 10% thuốc được nhập lậu
theo đường tuyển ngạch. Số này rất đa dạng và chủng loại, chất lượng không
đảm bảo mà vẫn lưu hành trên thị trường. Thứ hai là việc sử dụng còn tùy
tiện, không tuân thủ các yêu càu kĩ thuật theo nhãn mác, không đảm bảo thời
gian cách ly của từng loại thuốc. Thứ ba là do một lượng lớn thuốc BVTV tồn
đọng tại các kho thuốc cũ, hết hạn sử dụng còn nằm rải rác tại các tỉnh thành
trên cả nước. Theo trung tâm công nghệ xử lý môi trường, cán bộ tư lệnh hóa
học (2004), trong khoảng hơn 300 tấn thuốc BVTV có nhiều chất nằm trong
12 chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Và cuối cùng là viêc bảo quản thuốc
BVTV trong nhà, trong bếp và trong chuồng nuôi gia súc.


- Nguyên nhân thứ hai gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn là do chất
thải rắn từ các làng nghề và sinh hoạt của người dân. Hiện cả nước có khoảng
1.450 làng nghề, phân bố ở 58 tỉnh thành và đông đúc nhất là khu vực đồng
bằng Sông Hồng, vốn là cái nôi của làng nghề truyền thống Thái Bình và Bắc
Ninh,... trong đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị
cũ và công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%). Do đó, đã và đang nảy
sinh nhiều vấn đề nông thôn, tác động xấu đến lượng môi trường đất, nước,
không khí và sức khỏe của người dân làng nghề.kết quả phân tích chất lượng
nước thải của làng nghề dệt nhuộm tại Thái Bình cho thấy, đa số các chỉ tiêu
phân tích đều vượt tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là BOD 5, COD đều vượt tiêu
chuẩn từ 2-5 lần (Hoàng Thị Thanh Hiền, 2013) [2].

* Môi trường không khí:
Về ô nhiễm không khí, ngoài tác động của sản xuất công nghiệp, hoạt
động giao thông vận tải cũng là nguồn thải rất quan trọng. Chỉ tính riêng ở
thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm các phương tiện vận tải trên địa bàn thành
phố tiêu thụ khoảng 210.000 tấn xăng và 190.000 tấn dầu Dizel. Như vậy đã
thải vào không khí khoảng 1100 tấn bụi, 25 tấn chì, 4200 tấn CO 2, 4500 tấn
NO2, 116.000 tấn CO, 1,2 triệu tấn CO2, 13200 tấn Hydrocacbon và 156 tấn
Aldehyt. Chính vì thế, tại nhiều khu vực trong các đô thị có nồng độ các chất
ô nhiễm lên khá cao. Tại Hà Nội, vào những năm 1996-1997 ô nhiễm trầm
trọng đã xảy ra ở xung quanh các nhà máy thuộc khu công nghiệp Thượng
Đình với đường kính khu vực ô nhiễm khoảng 1700 mét và nồng độ bụi lớn
hơn tiêu chuẩn cho phép khoảng 2-4 lần; xung quanh các nhà máy thuộc khu
công nghiệp Minh Khai – Mai Động, khu vực ô nhiễm có đường kính khoảng
2500 mét và nồng độ bụi cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại
khu công nghiệp Thượng Đình, kết quả đo đạc các năm 1997-1998 cho thấy
nồng độ SO2 trong không khí vượt tiêu chuẩn cho phép 2-4 lần.


Năm 1990 Việt Nam mới có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ, đến năm 2000
đã tăng tới 694 đô thị các loại, trong đó có 4 thành phố trực thuộc Trung
ương, 20 thành phố trực thuộc tỉnh, 62 thị xã và 563 thị trấn. Dân số đô thị
Việt Nam năm 1990 là khoảng 13 triệu người (chiếm tỷ lệ 20%), năm 1995 tỷ
lệ dân số đô thị chiếm 20,75%, năm 2000 chiếm 25%, dự báo đến năm 2010
tỷ lệ dân số đô thị ở Việt Nam chiếm 33%, năm 2020 chiếm 45%. Sự phát
triển các đô thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gấp áp lực rất lớn
đến môi trường đô thị. Bên cạnh sự phát triển mạnh ngành công nghiệp một
mặt góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng môi
trường nghiêm trọng.
Ở hầu hết các đô thị đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm ở mức độ
trầm trọng. Các nơi bị ô nhiễm nặng nhất là khu dân cư gần nhà máy xi măng

Hải Phòng, nhà máy Vicasa Biên Hoà, KCN Tân Bình, nhà máy tuyển than
Hòn Gai... Ở một số khu dân cư gần các KCN nồng độ khí sulffure vượt chỉ
số tiêu chuẩn cho phép nhiều lần (khu dân cư gần nhà máy xi măng Hải
Phòng nồng độ khí sulfure trung bình ngày là 0,407 mg/m 3 gấp 1,4 lần tiêu
chuẩn cho phép, cụm công nghiệp Tân Bình nồng độ sulfure trung bình là
0,338 mg/m3 (gấp 1,1 lần tiêu chuẩn cho phép). Tính trung bình lượng chất
thải rắn sinh hoạt thải ra ở các thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
thành phố Hồ Chí Minh) từ 0,6 – 0,8 kg/người/ngày, chất thải rắn trong bệnh
viện (cơ sở y tế) được thải ra ước tính từ 50-70 tấn/ngày. Chất thải rắn này
ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đô thị..
Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than. Do đó, lượng
bụi và các khí CO, CO2, SO2 và NOx thải ra trong quá trình sản xuất trong
nhiều làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra tại các làng nghề sản xuất
gạch đỏ (Khai Thái – Hà Tây); vôi (Xuân Quan – Hưng Yên) hàng năm sử
dụng khoảng 6.000 tấn than, 100 tấn củi nhóm lò; 250 tấn bùn; 10m 3 đá sinh


ra nhiều loại bụi , SO2, CO2, CO, NOx, và nhiều loại chất thải nguy hại khác,
gây ảnh hưởng tới sức khỏe người dân trong khu vực và làm ảnh hưởng tới
hoa màu, sản lượng cây trồng của nhiều vùng lân cận. Đây cũng là một trong
các nguyên nhân gây ra các vụ xung đột, khiếu kiện như ở Thái Bình, Bắc
Ninh và Hưng Yên .
* Ô nhiễm đất
Hiện trạng ô nhiễm đất ở Việt Nam
Sản xuất nông nghiệp: áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu tăng lương
thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải tăng cường khai thác độ phì nhiêu
của đất bằng nhiều biện pháp cụ thể: tăng cường sử dụng hóa chất như phân
vô cơ, thuốc trừ sâu, diệt cỏ: sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm
thất thoát và tạo nguồn lợi cho thu hoạch; mơ rộng các hệ tưới tiêu.
Sản xuất nông nghiệp: thải ra nhiều chất gây ô nhiễm như kim loại

nặng, các loại dầu mỡ, hóa chất độc hại… Ví dụ: nước thải nhà máy pin Văn
Điều chứa Zn, Hg, Cd gây ô nhiễm đất và trồng rau khu vực xung quanh nhà
máy; Làng ung thư ở Nông Thao (Phú Thọ).
Ô nhiễm rác thải của các khu vực đô thị: rác thải được thu gom và chôn
lấp ở vùng ngoại thành, gây ô nhiễm đất đai. Ví dụ: Việc ô nhiễm đất đai khu
vực xung quanh bãi chôn lấp rác của Hà Nội như: Mễ Trì, Tây Mỗ, Văn Điển.
Việc nhập khẩu rác từ nước phát triển: theo báo cáo hiện trạng môi
trường quốc gia 2005 cho thấy:
- Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kĩ
thuật trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50%
lượng đạm, 50% lượng kali và sấp xỉ 80% lượng phân dư thừa trực tiếp hay
gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chưa


xủ lý như K2SO4, KCl, superphotphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo
kiệt các cation kiềm và xuất hiện các độc tố trong môi trương đất như ion
Al3+, Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.
- Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất
độc với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất – nước, tác dụng
gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những vi sinh vật có hại và
có lợi trong môi trường đất. Theo các kết quả nghiên cứu, hiên nay, mặc dù
khối lượng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam còn ít, trung bình từ 0,51,0kg/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật trong đất.
- Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt động công nghiệp: kết
quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các
khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây.


Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng môi trường khu vực xã Thuỷ An –
huyện Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Khu vực xã Thuỷ An – huyện Đông Triều – tỉnh
Quảng Ninh.
2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: UBND xã Thuỷ An – huyện Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh.
- Thời gian tiến hành: từ ngày 01/04/2014 đến ngày 20/05/2014
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Thuỷ An – huyện Đông Triều –
tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá chất lượng môi trường trên địa bàn xã Thuỷ An – huyện
Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh.
- Hiểu biết và thái độ của nhân dân xã Thuỷ An – huyện Đông Triều –
tỉnh Quảng Ninh về các vấn đề môi trường và hoạt động Bảo vệ môi trường.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý, tuyên truyền và cách thức giảm
thiểu ô nhiễm môi trường của địa phương.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa
- Thu thập các tài liệu khoa học, các tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu
và số liệu về các vấn đề cần nghiên cứu.


- Tham khảo, kế thừa các tài liệu, các đề tài đã được tiến hành trước đó
có liên quan đến khu vực tiến hành nghiên cứu.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Sử dụng các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội… trong báo
cáo quy hoạch sử dụng đất của địa phương.
- Tìm và thu thập các số liệu ở các văn bản, tạp chí, internet của tỉnh, huyện.
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

Trực tiếp xuống tiếp cận thực tế tại địa phương, đưa ra những đánh giá
và ghi lại các số liệu, hình ảnh tại khu vực nghiên cứu. Giúp đưa ra những
nhận xét đúng đắn về hiện trạng, chất lượng môi trường tại khu vực khảo sát.
*Dựa theo bộ câu hỏi
Sau khi tiến hành khảo sát thực địa tại khu vực nghiên cứu, dựa trên
những nhận xét bước đầu em tiến hành thành lập bộ câu hỏi phỏng vấn, cố
gắng tối đa trong việc đưa ra các câu hỏi phù hợp, dễ hiểu phát triển thêm các
câu hỏi mới từ bộ câu hỏi có sẵn.
Sau khi thành lập bộ câu hỏi phỏng vấn em đã tiến hành phỏng vấn đối
với các hộ gia đình tại các xóm trên địa bàn xã Thuỷ An – huyện Đông Triều
– tỉnh Quảng Ninh.
Tận dụng tối đa khả năng giao tiếp và sự giúp đỡ của chính quyền địa
phương em tiến hành phát phiếu điều tra và hướng dẫn người dân điền thông
tin vào phiếu.
2.4.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu sơ cấp: Số liệu trên phiếu điều tra được tổng hợp lại sau đó
được tính toán và xử lý thống kê trên Microsoft Excel.


×