Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đánh giá chất lượng môi trường nông thôn trên địa bàn xã Vạn Thọ Huyện Đại Từ Tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.8 KB, 53 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện nay vẫn còn là một nước sản xuất chủ yếu về nông
nghiệp với trên 70% dân số cả nước số tập trung ở các vùng nông thôn. Ở
nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống, phân bố trên địa bàn rộng
lớn, có nhiêu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác biệt.
Hiện nay, quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi
cả nước. Ở tầm vĩ mô, một mặt đô thị hóa là một trong những giả pháp quan trọng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp
ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác đô thị hóa cũng là một
trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy
nhiên bên cạnh những tác động tích cực, vẫn còn không ít những bất cập, tồn tại
đặt ra cần phải giả quyết. Nhiều tác động đang diễn ra hằng ngày, hang giờ làm
thay đổi tận gốc nếp làm ăn, nếp sống, nếp nghĩ của người dân nông thôn, cũng
như môi trường sống của họ theo cả chiều tốt và xấu.
Do đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hộ, cho nên
các có nét đặc thù riêng và chất lượng môi trường sống của họ theo cả chiều
tốt vùng nông thôn việt nam và chiều xấu.
Nông thôn xã Vạn Thọ, huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên không nằm
ngoài quy luật đó. Môi trường nông thôn xã Vạn Thọ đang dần bị thay đổi.
Do tập quán sinh hoạt và nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường, điều
kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo, rác thải sinh hoạt và chất thải chăn nuôi
ngày càng nhiều hơn, chất lượng môi trường sẽ ngày càng suy giảm nếu không có
biện phát ngăn ngừa và khắc phục. vì vậy để xuấ các giải pháp nhằm cải thiện và
nâng cao điều kiện vệ sinh môi trường cho vùng nông thôn xã Vạn Thọ là cần
thiết song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của xã.
SV: Nhâm Tiến Linh Lớp:
1
2
Xuất phát từ vấn đề đó, Được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường,


ban chủ nhiệm khoa Môi Trường – trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên,
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô Th.S Dương Thị Thanh Hà, em tiến hành
đề tài: “Đánh giá chất lượng môi trường nông thôn trên địa bàn xã Vạn
Thọ - Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Điều tra, đánh giá môi trường nông thôn trên địa bàn xã Vạn Thọ- Huyện
Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá hiểu biết của người dân về môi trường.
- Nâng cao hiểu biết của người dân về vấn đề bảo vệ môi trường.
- Đề xuất các giải pháp bảo vệ và quản lý môi trường tại địa phương.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nắm bắt được những thông tin về điều kiện tự nhiên của xã Vạn Thọ
cũng như sức ép của sự phát triển kinh tế và xã hội đối với môi trường.
- Cung cấp thông tin về các hiện tượng môi trường của xã, Các hậu quả
của ô nhiễm môi trường, tự hoạt động của sản xuất của người dân nông thôn, từ
đó giúp cho các nhà quản lý thấy thấy rõ tầm quan trọng và đề ra những giải pháp
khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu và phòng chống ô nhiễm môi trường
tại địa phương.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Đối tượng được lựa chọn phỏng vấn đại diện các tầng lớp, các lứa tuổi
làm việc ở nhiều ngành nghề khác nhau.
- Số liệu thu thập phải chính xác, khách quan, trung thực.
- Tiến hành điều tra theo bộ câu hỏi; bộ câu hỏi phải dễ hiểu đầy đủ các
thông tin cần thiết cho việc đánh giá.
- Các kiến nghị đưa ra phải phù hợp với tình hình địa phương và có
tính khả thi cao.
1.5 Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
3

Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút kinh nghiêm thực tế phục vụ
cho công tác sau này
Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập vào thực tế.
- Ý nghĩa trong thực tiễn:
Xác định được hiện trạng môi trường nông thôn tại xã Vạn Thọ
và đề xuất giải pháp khắc phục, phòng chống ô nghiễm.
Nâng cao nhận thức, ý thức về bảo vệ môi trường của người dân
trong xã.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận
- “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại, sự phát triển
của con người và sinh vật” ( luật Bảo vệ Môi Trường, 2005)[2].
- “ Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người,
sinh vật (Luật bảo vệ môi trường, 2005)[2].
- Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách
kinh tế, kỹ thuật xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường số và
phát triển bền vũng kinh tế xã hội quốc gia ( Lê Văn Khoa, 2000)[7].
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong
sạch,phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố
môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng
sinh học.( phạm ngọc quế 2003 )[11]
- Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và địn hướng đến năm
2020 chính là “ tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý hức và trách nhiệm
BVMT” cho cộng đồng và “ đâyỷ mạnh xã hội hoá công tác BVMT” ( Bộ Tài

Nguyên và Môi Trường, 2008)[1].
2.1.2. Cơ sở pháp lý
- Luật BVMT Việt Nam – ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc Hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Quyết định số 104/2000/QĐ – TTg ngày 25/08/2000 của thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh
nông thôn đến năm 2020.
5
- Quyết định số 51/2008/QĐ – BNN của bộ Nông Nghiệp và phát triển
nông thôn về ban hành bộ chỉ số theo dõi và đánh giá nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y Tế số 08/2005/QĐ – BYT ngày
11/03/2005 về việc ban hành tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại nhà tiêu.
- Nghị định số 149/2004/NĐ – CP ngày 27/07/2004 của chính phủ quy
định về việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước
thải vào nguồn nước.
- Thông tư của Bộ Y Tế số 15/2006/TT – BYT ngày 30/11/2006
hướng dẫn việc kiểm tra vệ sinh nước sạch, nước ăn uống, nhà tiêu và hộ gia
đình.
- Tiêu chuẩn Việt Nam(TCVN 5942-1995) Giá trị giới hạn cho phép
các thông số và nồng độ chất ô nhiễm cơ bản trong nước mặt.
- Tiêu chuẩn Việt Nam(TCVN 5944-1995) Giá trị giới hạn cho phép
các thông số và nồng độ chất ô nhiễm cơ bản trong nước ngầm.
- Tiêu chuẩn Việt Nam(TCVN 5502-2003) nước cấp sinh hoạt – yêu
cầu chất lượng.
- Tiêu chuẩn Việt Nam(TCVN 5945-2005) Giá trị giới hạn cho phép
các thôn số và nồng độ chất ô nhiễm cơ bản trong nước thải.
2.2. Một số đặc điểm về hiện trạng và xu thế diễn biến môi trường trong nước
2.2.1. Tình trạng chung của môi trường việt nam
Việt Nam đang ra sức xây dựng nông thôn mới. Trong tiến trình này,

bảo vệ môi trường là một trong những tiêu chí cần phải đạt được. Tuy nhiên,
ở nhiều vùng nông thôn, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn chưa được giải
quyết có hệ thống, nhất là ở các làng nghề và trong sản xuất nông nghiệp.
Cả nước có trên 1.300 làng nghề đã được công nhận và 3.200 làng có
nghề, tập trung nhiều nhất ở miền Bắc, chiếm khoảng 60%. Kết quả khảo sát
52 làng nghề điển hình trong cả nước cho thấy 46% làng nghề có môi trường
bị ô nhiễm nặng, 27% ô nhiễm vừa. Những đánh giá trong thời gian gần đây
cho thấy mức độ ô nhiễm của các làng nghề không giảm mà còn có xu hướng
6
gia tăng. Hàm lượng kim loại nặng trong đất ở một số làng nghề đã xấp xỉ
hoặc vượt tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết chất thải phát sinh từ các làng nghề
như chế biến lương thực, thực phẩm, tái chế kim loại, giấy, nhựa,… chưa
được thu gom và xử lý triệt để, nhiều làng nghề xả thải bừa bãi gây tác động
xấu tới cảnh quan môi trường; gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và
đất; làm gia tăng người mắc bệnh có liên quan đến ô nhiễm; thậm chí làm
giảm tuổi thọ trung bình của người dân sống trong và bên cạnh làng nghề.
Nhiều bộ, ngành, địa phương đã tích cực nghiên cứu, xây dựng, chuyển giao
và có biện pháp nhân rộng một số mô hình quản lý, xử lý chất thải làng nghề,
góp phần cải thiện môi trường tại một số địa phương như công nghệ hầm
biogas đối với chất thải ở các làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc; mô hình
quản lý chất thải nguy hại làng nghề… Một số địa phương đã triển khai quy
hoạch tập trung các khu công nghiệp, cụm công nghiệp để di dời các cơ sở
gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư đối với làng nghề dệt nhuộm,
giấy tái chế,… hoặc quy hoạch quản lý theo hình thức phân tán đối với từng
hộ gia đình tại các làng nghề truyền thống ít ô nhiễm; công tác xã hội hoá bảo
vệ môi trường làng nghề (chủ yếu là thu gom chất thải rắn) đã được hình
thành và hoạt động có hiệu quả tại một số địa phương. Thủ tướng Chính phủ
cũng vừa ban hành Quy định số 577/QĐ-TTg ngày 11/4/2013 phê duyệt Đề
án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030, trong đó xác định các trọng tâm ưu tiên bảo vệ môi trường làng

nghề giai đoạn 2013 - 2015 và 2016 - 2020 nhằm từng bước xử lý các làng
nghề hiện đang bị ô nhiễm môi trường và ngăn chặn tình trạng phát sinh các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường mới.( Đình Lâm, 2013)[9]
Tuy nhiên, nhìn chung tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
vẫn đang gia tăng và trở thành một vấn đề môi trường cấp bách hiện nay, các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chậm được xử lý do thiếu
nguồn lực cũng như thiếu quy định về trách nhiệm cụ thể.
Ô nhiễm môi trường nông thôn ở Việt Nam đang ở mức báo động
7
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều nông thôn đang ở mức báo
động, đã và đang gây ra những tác động mạnh mẽ và lâu dài đến sức khoẻ
cộng đồng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Ở nhiều nơi, do các
làng nghề gây ra, ở nhiều nơi thì do nước thải, chất thải từ sản xuất nông
nghiệp như sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, rác thải sinh hoạt. Mỗi năm, khu
vực nông thôn phát sinh trên 1.300 triệu m3 nước thải; 6,6 triệu tấn rác thải
sinh hoạt, hơn 14.000 tấn bao bì hoá chất bảo vệ thực vật, phân bón các loại,
76 triệu tấn rơm rạ và khoảng 74 triệu tấn chất thải chăn nuôi,… Ước tính
tổng lượng phân bón vô cơ sử dụng trong canh tác nông nghiệp vào khoảng
2,5 - 3,0 triệu tấn, trong đó có đến 50 - 70% không được cây trồng hấp thụ,
thải ra gây ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường.
Theo một báo cáo môi trường, tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại khu
vực nông thôn khoảng 40-55%, trong đó khoảng 60% số thôn hoặc xã tổ chức
thu dọn định kỳ; trên 40% thôn, xã đã hình thành các tổ thu gom rác thải tự
quản. Nhiều xã không có quy hoạch các bãi rác tập trung, không có bãi rác
công cộng, không quy định chỗ tập trung rác thải, không có người và không
có phương tiện chuyên chở rác. Do đó, các bãi rác tự phát đã hình thành ở rất
nhiều nơi, làm cho tình trạng chất thải rắn sinh hoạt nông thôn trở thành vấn
đề nan giải khó xử lý.
Tình hình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khỏe

con người, là nguyên nhân gây ra các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun
sán… Các bệnh này gây suy dinh dưỡng, thiếu sắt, thiếu máu, kém phát triển,
gây tử vong nhất là trẻ em. Có 88% trường hợp tiêu chảy là do thiếu nước
sạch, VSMT kém. Có thể thấy, nguyên nhân gây tình trạng ô nhiễm môi
trường và nguồn nước ở nông thôn do các nguyên nhân cơ bản sau:
8
+ Đầu tiên phải kể đến là tình trạng sử dụng hóa chất trong nông nghiệp
như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật… một cách tràn lan và không có
kiểm soát.
Nhìn chung, lượng phân bón hóa học ở nước ta sử dụng còn ở mức
trung bình cho 1ha gieo trồng, bình quân 80-90 kg/ha (cho lúa là 150-180
kg/ha), so với Hà Lan 758 kg/ha, Trung Quốc 390 kg/ha. Tuy nhiên, việc sử
dụng này lại gây sức ép đến môi trường nông nghiệp và nông thôn với 3 lý
do: Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón thấp: bón phân
không cân đối, nặng về sử dụng phân đạm; chất lượng phân bón không đảm
bảo, các loại phân bón NPK, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng do các cơ sở nhỏ
lẻ sản xuất trôi nổi trên thị trường không đảm bảo chất lượng đăng ký, nhãn
mác, bao bì nhái, đóng gói không đúng khối lượng đang là áp lực chính cho
nông dân và môi trường đất rộng rãi, len lỏi trong mọi hoạt động sản xuất và
sinh hoạt thường nhật của người dân nông thôn. Và quan trọng nhất, hiện
trạng trên tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng nông thôn và hậu quả là lâu
dài không những đối với thế hệ hiện tại mà cả thế hệ mai sau (Lê Văn Khoa,
2004) [8].
Theo Phạm Ngọc Quế (2003) hiện tại số hộ ở nước ta chăn nuôi gia súc
gia cầm là rất phát triển nhưng phương thức chăn nuôi lạc hậu (thả rông, làm
chuồng dưới nhà sàn, phân để trong chuồng lâu không được xử lý hoặc dọn
rửa chuồng xả bừa bãi vào các nguồn nước…) đã làm cho môi trường
nông thôn ngày càng ô nhiễm. Ngoài lượng phân, còn có nước tiểu, thức
ăn thừa cũng chiếm một khối lượng đáng kể trong tổng số chất thải do
chăn nuôi đưa đến. Rõ ràng nếu lượng phân này không được xử lý tốt

chắc chắn sẽ tạo ra một sự ô nhiễm đáng kể đối với vệ sinh môi trường.
+ Nguyên nhân thứ hai gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn là do chất
thải rắn từ các làng nghề và sinh hoạt của người dân. Hiện nay cả nước có
khoảng 1450 làng nghề, phân bố trên 58 tỉnh thành và đông đúc nhất ở đồng
bằng Sông Hồng, vốn là cái nôi của làng nghề truyền thống, với tổng số 472
9
làng nghề các loại tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Hà Tây (nay thuốc Hà
Nội), Thái Nình, Bắc Ninh,… Trong đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình
độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ sản xuất lạc hậu chiếm phần lớn
(trên 70%). Do đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nông thôn,
tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí, sức khỏe của người dân
làng nghề (Phạm Ngọc Quế, 2003) [11].
Ô nhiễm môi trường nước
Ô nhiễm môi trường nước làm suy yếu sức khoẻ con người, từ đó dẫn
đến giảm năng suất lao động, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, sự
suy thoái của chất lượng môi trường sẽ làm giảm hiệu năng các nguồn tài
nguyên cho sản xuất như sự tổn thất trong nghề cá (do ô nhiễm nước). Diện
tích đất để canh tác bị suy giảm và thu hẹp. Nước sạch cung cấp cho phát
triển công nghiệp ngày càng thiếu. Mặt khác, chi phí dành cho y tế cũng như
chi phí để khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường nước không ngừng tăng
lên.
Bên cạnh đó,
Hàng năm, Nhà nước dành 1% tổng chi ngân sách nhà nước
(tương đương 4.000 tỷ đồng) để chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, chưa kể
đến kinh phí cho các dự án đầu tư xử lý chất thải và vệ sinh môi trường đô thị.
Nhu cầu tài chính cho bảo vệ môi trường hiện hành rất lớn. Tính riêng nhu
cầu cho các đề án tổng thể cải tạo môi trường và chương trình xử lý ô nhiễm
nước ở các làng nghề, khu công nghiệp, các hệ thống sông vào khoảng 17.678
tỷ đồng/năm. Nếu tính cả nhu cầu đầu tư xử lý chất thải sinh hoạt tại các khu
vực dân cư tập trung, đầu tư phục hồi môi trường trong khai thác khoáng

sản thì nhu cầu tài chính cho bảo vệ môi trường còn cao hơn nữa
Hơn một phần ba dân số Việt Nam đang nhiễm các bệnh có liên quan
đến việc sử dụng nguồn nước không an toàn và các điều kiện vệ sinh không
đảm bảo. Không được tiếp cận đầy đủ nước và vệ sinh còn gây ra những vấn
đề nghiêm trọng cho sức khỏe trẻ em (44% trẻ em nhiễm bệnh giun sán và
27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng). Với sự tăng, phát triển của các
10
ngành công nghiệp tại địa phương, các nguồn nước sẽ bị ô nhiễm nếu không
tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi
trường, 2008) [1].
Ô nhiễm môi trường không khí
Mặc dù đất nước chúng ta nền công nghiệp chưa phát triển nhưng ô
nhiễm không khí đã xãy ra ở nhiều nơi. Ở Hà Nội, tại khu vực nhà máy dệt
8–3, nhà máy cơ khí Mai Động. Khu công nghiệp Thượng Đình, khu công
nghiệp Văn Điển, nhà máy Rượu…không khí đều đã bị ô nhiễm nặng. Ở Hải
Phòng , ô nhiễm nặng ở khu nhà máy Xi măng, nhà máy Thủy Tinh và Sắt
tráng men…Ở Việt Trì, ô nhiễm nặng xung quanh nhà máy Supe phốtphát
Lâm Thao, nhà máy Giấy, nhà máy Dệt. Ở Ninh Bình và Phả Lại ô nhiễm
nặng do nhà máy Nhiệt điện, các nhà máy vật liệu xây dựng, lò vôi. Ở thành
phố Hồ Chí Minh và cụm công nghiệp Biên Hòa không khí cũng bị ô nhiễm
bởi nhiều nhà máy. Hầu như tất cả các nhà máy hóa chất đều gây ô nhiễm
không khí. Dân cư sống ở các vùng nói trên thường mắc các bệnh đường hô
hấp, da và mắt.
Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong làng nghề là than, củi. Do đó lượng
bụi và các lượng khí CO, CO
2
, SO
2
, và NO
x

thải ra trong quá trình sản xuất
trong làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra tại các làng nghề sản xuất gạch
đỏ (Khai Tái – Hà Tây), vôi (Xuân Quan – Hưng Yên) hàng năm sử dụng
khoảng 6000 tấn than, 100 tấn củi nhóm lò đã sinh ra nhiều loại bụi như CO,
CO
2
, SO
2
, NO
x
và nhiều loại thải khác gây nguy hại tới sức khỏe của người
dân trong khu vực và làm ảnh hưởng hoa mầu, sản lượng cây trồng của nhiều
vùng lân cận. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây các vụ xung đột,
khiếu kiện như ở Thái Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên,… (Lê Văn Khoa, Hoàng
Xuân Cơ, 2004) [8].
Ô nhiễm môi trường đất
Kết quả điều tra 30 mô hình thu gom rác thải tại 10 tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng của Viện Nước, tưới tiêu và môi trường những năm gần đây, chỉ
có hai địa phương có kế hoạch triển khai thu gom vỏ bao thuốc bảo vệ thực
11
vật, nhưng đều không thành công do không có kinh phí thực hiện và công tác
tuyên truyền chưa sâu sát. Người dân vẫn nghĩ vỏ thuốc bảo vệ thực vật là
loại rác thông thường nên vứt bỏ ở đâu không quan trọng.
Theo tính toán, riêng năm 2010, khoảng 60-65% lượng phân đạm (tương
đương 1,77 triệu tấn), 55-60% lượng lân (2,07 triệu tấn và 55-60% kali (344
nghìn tấn) được bón vào đất nhưng cây trồng không hấp thụ, tác động tiêu cực
đến nông nghiệp và có thể gây đột biến gen đối với một số loại cây trồng.
Trong chăn nuôi, khoảng 60% chất thải rắn chưa qua xử lý đổ thẳng ra môi
trường, xuống hệ thống thoát nước, kênh mương. Số lượng phân không được
xử lý và tái sử dụng chính là nguồn gốc cung cấp khí CO2, N2O làm trái đất

nóng lên. Chưa kể nguồn chất thải phát tán của vật nuôi gây lây lan dịch bệnh
trên đàn gia súc, gia cầm ở nhiều địa phương trong thời gian qua.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự xuống cấp của môi trường nông thôn
là do tổ chức trong lĩnh vực VSMT nông thôn còn phân tán. Sự phối hợp các
bộ nghành chưa tốt. Nhà nước chưa có chính sách huy động sự tham gia đóng
góp của các thành phần kinh tế để cùng với người sử dụng xây dựng công
trình vệ sinh mà vẫn áp dụng cách tiếp cận dựa vào cung cấp là chính. Về
pháp chế vẫn còn thiếu các quy định và hướng dẫn cụ thể để có thể quản lý tốt
trong lĩnh vực vệ sinh môi trường. Đa số hộ chưa có nhà vệ sinh đạt tiêu
chuẩn, nhất là vùng bị ngập lụt, vùng ven biển nơi có mật độ ngư dân cao
(Phạm Ngọc Quế, 2003) [10].
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm
bẩn môi trường đất bởi các chất ô nhiễm. Chất ô nhiễm sau khi thấm vào đất
sẽ lưu lại trong đó. Hiện tượng này khác xa với hiện tượng ô nhiễm nước
sông, ở đây chỉ cần chất ô nhiễm ngừng xâm nhập thì khả năng tự vận động
của không khí và nước sẽ nhanh chóng tống khứ chất ô nhiễm ra khỏi chúng.
Ðất không có khả năng này, nếu thành phần chất ô nhiễm quá nhiều, con
người muốn khử ô nhiễm cho đất sẽ gặp rất nhiều khó khăn và tốn nhiều công
sức.
12
2.2.2 Tình hình Môi Trường ở tỉnh Tuyên Quang
Môi Trường nước thải
Hiện nay trên địa bàn Tuyên Quang chưa có nhiều các công trình xử lý
nước thải hoàn chỉnh. Hầu hết các loại nước thải thường được thu gom thông
qua hệ thống các đường ống cống, xử lý sơ bộ bằng hệ thống các hố ga, hồ
lắng sau đó xả trực tiếp vào hệ thống sông suối, ao hồ.Các nguồn phát sinh
nước thải chính ở Tuyên Quang chủ yếu là nước thải sinh hoạt, tuyển quặng,
sản xuất công nghiệp, chăn nuôi và nước thải bệnh viện
Hiện tại các nhà máy nước ở Tuyên Quang và các công trình nước tự
chảy đang cung cấp 191.620m

3
/ngđ phục vụ nhu cầu sản xuất và nhu cầu
sinh hoạt của địa phương (trong đó nước mặt là 72.289m
3
/ ngđ, nước ngầm
là 119.331m
3
/ ngđ), tương đương 69.941.300m
3
/năm. Ngoài ra, các công
trình nước cấp còn cung cấp được 1.069.000m
3
/năm cho sản xuất công
nghiệp. Nếu tính tổng lượng nước thải sau sử dụng bằng 80% tổng lượng
nước cấp thì hằng năm trên địa bàn Tuyên Quang có tối thiểu 56.808.240
m
3
/năm, tương đương 155.639 m
3
/ngđ nước thải chưa được xử lý triệt để
thải vào môi trường.
Theo tiêu chuẩn về nhu cầu sử dụng nước hiện nay là 100l/người/ngày,
thì tổng lượng nước được sử dụng hằng ngày phục vụ nhu cầu ăn uống, sinh
hoạt của nhân dân tỉnh Tuyên Quang là 74.495,2 m
3
/ngày, tương đương
26.818.272 m
3
/năm. Nếu tính tổng lượng nước thải sinh hoạt bằng 80% tổng
lượng nước cấp thì hằng năm trên địa bàn Tuyên Quang có tối thiểu

21.454.618 m
3
/năm, tương đương 59.596 m
3
/ngđ nước thải sinh hoạt chưa
được xử lý triệt để thải vào môi trường.
Bàn Thị Mỳ (2012),[10]
Ngoài ra, hàng ngày trên địa bàn còn khoảng 306m
3
nước thải bệnh viện
và khoảng 385m
3
nước thải từ các trại chăn nuôi thải vào môi trường.
13
Nhu vậy có thể thấy, lượng nước thải hàng ngày xả vào môi trường trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang là khá lớn. Trong thực tế, phần lớn lượng nước thải
này chưa được xử lý hoặc chỉ mới được xử lý sơ bộ và đều được thải vào hệ
thống các sông chính hoặc vào các ao hồ lớn trong khu vực.
Hiện trạng Môi Trường không khí
Các nguồn thải chính gây ô nhiễm môi trường không khí ở Tuyên
Quang chủ yếu là từ bụi và khí thải của các ngành công nghiệp và vận tải.
Công nghiệp ở Tuyên Quang hiện có 3 ngành sản xuất chính: công
nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp điện, nước. Trong đó:
- Công nghiệp khai thác: tập trung chủ yếu vào khai thác quặng kim loại,
khai thác đá và các mỏ khác.
- Công nghiệp chế biến: tập trung chủ yếu vào chế biến thực phẩm, sản
xuất kim loại, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất chế biến sản phẩm từ than,
dệt may, sản xuất đồ da…
- Công nghiệp điện: tập trung chủ yếu vào xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang.
Môi trường không khí tại Tuyên Quang giai đoạn 2005-2009 theo kết

quả quan trắc các năm là tương đối tốt thành phần các khí độc trong không
khí có nồng độ thấp hầu hết đều nằm trong QCVN05:2009, riêng chỉ nồng độ
bụi vượt quá quy chuẩn nhưng ở mức thấp. Có thể nói môi trường không khí
tại tỉnh Tuyên Quang đang bị ô nhiễm nhẹ và chưa ảnh hưởng nhiều tới sức
khoẻ của người dân. Song trong những năm tới các dự án lớn đầu tư tại tỉnh
sẽ đi vào hoạt động như: Nhà máy xi măng Tân Quang, nhà máy phôi thép
Hằng Nguyên, Nhà máy giấy An Hoà và nhiều dự án đầu tư tại các cụm công
nghiệp cũng hoàn thành đi vào hoạt động. Hoạt động của các nhà máy này sẽ
thải ra lượng khí thải không nhỏ vào môi trường. Bàn Thị Mỳ (2012),[10]
Các nguồn phát sinh bụi, khí thải tuy không nhiều nhưng lại ảnh hưởng
trực tiếp đến người dân và người lao động trực tiếp. Khu vực có nguồn bụi và
khí thải cao là nhà máy xi măng, nhà máy đường, một số khu khai thác mỏ,
14
nghiền quặng và đá xây dựng, lò nung gạch ngói,… Mặc dù trong quá trình
hoạt động, các nhà máy đều đã xây dựng báo cáo ĐTM, đề ra các biện pháp
khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, song thực tế các biện pháp giảm
thiểu ô nhiễm môi trường đề ra thường không được thực hiện triệt để. Vì vậy
vấn đề ô nhiễm môi trường do khói, bụi công nghiệp vẫn còn xảy ra ở một số
khu dân cư gần các cơ sở công nghiệp, các công trường khai thác và các
phương tiện giao thông gây ra. Tiếng ồn cao nhất ở các điểm đo giao động
53,5 - 87,5 dBA, trung bình là 72,7 dBA. Nơi có tiếng ồn vượt quá TCCP là
trong các xưởng nghiền chế biến quặng, nghiền đá
Hiện trạng môi trường đất
Sử dụng phân bón hóa học trong canh tác, s ản xuấ
t
nông nghiệp
Canh tác nông nghiệp được xem là thế mạnh của
t
ỉnh Tuyên Quang,
đặc biệ

t
để gia tăng mùa v ụ canh tác,
t
ừ đó gia tăng lượng phân bón nhằm
cung ứng dưỡng chấ
t
cho cho cây trồng cũng như bù lạ
i
dinh dưỡng cho
đất. Tuy nhiên, vi ệc bón phân không đúng liều lượng, kỹ thuậ
t
và hiện
tượng bón quá mức mộ
t
số nguyên
t
ố sẽ gây nên mấ
t
cân bằng dinh dưỡng
trong đất.
15
Phân đạm và phân lân là ha
i
loạ
i
phân bón thi ế
t
yếu cho cây trồng. Đố
i
với phân đạm, tác dụng phụ quan trọng của việc bón không đúng kỹ

t
huật,
li
ều lượng sẽ gây chua đấ
t
hoặc sự thẩm thấu
và rửa trôi của NO
3
-
, nguyên
t
ố gây bệnh vàng da trên trẻ sơ sinh. Ngoà
i
ra, ô nhi ễm đấ
t
cũng
phả
i
kể
đến sự tích
t
ụ nguyên
t
ố kim loạ
i
nặng Cadmium – loạ
i
nguyên
t
ố có trong

phân lân. Sự tích lũy của N v à P trong đất
t
ừ việc sử dụng phân hữu cơ và
phân vô cơ m ất cân đối có thể đưa đến hiện tượng phú dưỡng. Bàn Thị Mỳ
(2012),[10]
Ô nhiễm đấ
t
do thuốc bảo vệ
t
hực vật
Bên cạnh phân bón, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng
liều lượng cũng được đặc biệ
t
quan tâm. Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
chỉ có mộ
t
phần nhỏ của hóa chấ
t
là thực sự được sử dụng, còn
l

i
phần
l
ớn
sẽ bị hòa loãng bở
i
các vậ
t


li
ệu trong đấ
t
và các
ti
ến trình chuyển đổi, phân
hủy khác nhau. Lượng
t
huốc quá nhiều có thể làm
t
ổn hạ
i
đến cây
t
rồng và
có thể để
l
ại dư lượng trong đấ
t
cho các vụ trồng
ti
ếp theo. Đặc biệt,
những nhóm thuốc có độc tính mạnh và thờ
i
gian phân giải lâu như Lindan,
Malathion, chúng
có độ bền hóa học
l
ớn nên thuốc dễ lưu lại trong đất đai,
cây trồng, nông thực phẩm.

Ô nhiễm môi trường đất do các hoạt động khai thác khoáng sản
Tuyên Quang là tỉnh có tiềm năng lớn về khoáng sản, phong phú cả về
kim loại và phi kim loại; trong đó có những khoáng sản có giá trị kinh tế như:
sắt, chì- kẽm, thiếc, mangan, antimont, barite, cao lanh- felspat
Trong thời gian qua, hoạt động khai thác khoáng sản không đúng quy
trình, khai thác trái phép vẫn còn diễn ra hầu hết trên địa bàn tỉnh. Công tác
khai thác khoáng sản thường làm biến dạng bề mặt địa hình, tạo ra các ô
trũng, gò đống làm xáo trộn cấu trúc các tầng đất, thúc đẩy quá trình xói
mòn, rửa trôi, trượt lở đất. Quá trình bốc xúc, tuyển rửa quặng làm tăng cao
cơ hội phát tán các chất độc hại vào môi trường. Việc sử dụng các hoá chất
độc hại trong khâu tuyển quặng, nhất là trong hoạt động khai thác và tuyển
16
vàng (sử dụng thủy ngân, xianua) là nguy cơ đe doạ nghiêm trọng tới môi
trường đất.
2.2.3.Hiện trạng Môi Trường tỉnh Vĩnh Phúc
Môi trường không khí
Môi trường không khí tại hai khu đô thị lớn nhất của tỉnh Vĩnh Phúc là
thị xã Vĩnh Yên và Phúc Yên đang bị ô nhiễm nặng và mức độ ô nhiễm ngày
càng tăng theo
thời gian. Tại Phúc Yên, hàm lượng bụi vượt 4,0 ÷ 4,8 lần so với TCVN 5937
- 1995,
tiếng ồn luôn vượt 1,02 ÷ 1,09 lần so với TCVN 5949 - 1998.
Tại khu công nghiệp Hương Canh và thị trấn Hương Canh nồng độ bụi
vượt từ 7,1 đến 8,1 lần so với TCVN 5937-1995.
Các khu vực nông thôn (tại thị trấn) và làng nghề cũng đang bị ô nhiễm bụi ở
mức độ trung bình (vượt 1,15 ÷ 1,7 lần TCVN 5937 - 1995); tiếng ồn vượt
1,03 lần TCVN 5949 - 1998 và có xu hướng ngày càng tăng theo thời gian.
Môi trường không khí bị ô nhiễm là do một số nguyên nhân sau: Hầu hết các
cơ sở sản xuất không lắp đặt hệ thống xử lý khí thải, xả trực tiếp ra môi
trường xung quanh; Sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng giao thông trong khi số

lượng các phương tiện tham gia giao thông gia tăng và Cả tỉnh Vĩnh Phúc như
là một đại công trường xây dựng do quá trình đô thị hoá nhanh.(Nguyễn Kiên
Dũng)[6]
Môi trường nước
17
Phần lớn các hồ thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trong đó có Đầm Vạc và hồ Đại
Lải phải tiếp nhận nhiều nguồn thải: sinh hoạt, công nghiệp và y tế. Các
nguồn thải này đã gây nên sự quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị
(hệ thống cấp nước, thoát nước, hệ thống giao thông, hệ thống thu gom, xử lý
rác và chất thải sinh hoạt).
Cho đến nay, hệ thống cấp nước và thoát nước còn đơn giản, chưa được
xây dựng quy mô, đồng bộ. Nước thải tại khu dân cư, các cơ quan, nhà máy,
bệnh viện trên địa bàn thị xã, thị trấn được đổ trực tiếp vào các mương thoát
nước mưa ven các đường giao thông nội thị, sau đó thải ra các ao, hồ, đầm.
Kết quả phân tích cho thấy: Hồ Đại Lải và Đầm Vạc đang ô nhiễm
nặng và xu hướng ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt tại Đầm Vạc, nhiều chỉ
tiêu vượt tiêu chuẩn loại B của TCVN 5942-1995, cụ thể: COD vượt 1,4 lần;
BOD vượt 1,5 lần; NH
4
+
vượt khoảng 5,9 lần; và Cu vượt từ 2,3 ÷ 2,7 lần.
Chất lượng nước sông Phan và sông Cà Lồ trên địa bàn tỉnh hiện cũng
đang ô nhiễm ở mức độ tương đối nặng và có xu thế tăng dần theo thời gian.
Các chất hữu cơ, dinh dưỡng và coliform trong nước sông đều vượt tiêu
chuẩn loại B của TCVN 5942-1995 (COD vượt 1,2 lần, coliform vượt 1,2 ÷ 2
lần, NH3 vượt 1,6 ÷ 4,3 lần); các kim loại nặng đạt tiêu chuẩn loại B nhưng
vượt tiêu chuẩn loại A của TCVN 5942-1995.
Nước dưới đất tại hai đô thị lớn của tỉnh Vĩnh Phúc đang bị ô nhiễm Mn và
Fe ở mức độ trung bình, cụ thể: hàm lượng Mn vượt từ 1,2 ÷ 3,6 lần so với
TCVN 5944-1995 và TCBYT-02.

18
Nước dưới đất tại Công ty phanh NISSIN (xã Quất Lưu, huyện Hương
Canh) và nhà máy bia HENIGER đang bị ô nhiễm Cu, Mn và Fe, cụ thể: hàm
lượng Cu vượt TCVN 5944-1995 là 1,16 lần; hàm lượng Fe vượt 7,4 lần so
với TCBYT-02; hàm lượng Mn vượt từ 1,5 ÷ 5,8 lần so với TCVN 5944-1995
và TCBYT-02. .(Nguyễn Kiên Dũng)[6]
Môi trường đất
Kết quả phân tích cho thấy: Dư lượng thuốc BVTV trong đất trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung đều vượt quá mức cho phép từ 10 – 15%; trong
đó huyện Mê Linh vượt trên 18%, Yên Lạc, Vĩnh Tường vượt trên 20%.
TBVTV họ Clo là loại thuốc khó phân hủy, tồn tại rất lâu trong môi trường
đất nhưng đã phát hiện có trong 10 mẫu, chiếm 23,03%.
Tình trạng ô nhiễm môi trường đất do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
đang gia tăng nhanh chóng, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân và môi
trường trước mắt cũng như lâu dài.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm môi trường đất là do thuốc
BVTV và phân bón hoá học sử dụng không đúng quy cách, bao bì, vỏ chai
vứt bừa bãi trên đồng ruộng; trong khi đó phân chuồng từ chăn nuôi lại xả
trực tiếp ra môi trường (điển hình là xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc), nhiều
nơi còn sử dụng nước thải không qua xử lý để tưới. .(Nguyễn Kiên Dũng)[6]
2.3. Hiện trạng Môi Trường Tỉnh Thái Nguyên
19
Môi trường đất:
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất là nông dược và phân bón hóa
học chúng tích lũy dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là việc sử dụng hóa
chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp đang gây ô nhiễm đất nghiêm trọng,
Làm vỡ kết cấu đất, xói mòn đất…
Ô nhiễm đất do nông dược và phân hóa học, Ô nhiễm đất xảy ra chủ
yếu ở nông thôn. Trước hết là do sự bành trướng của kỹ thuật canh tác hiện
đại. Nông nghiệp hiện nay phải sản xuất một lượng lớn thức ăn trong khi đất

trông trọt tính theo đầu người ngày càng giảm vì dân số tăng và cũng vì sự
phát triển thành phố. Người ta cần phải thâm canh hơn, dẫn tới việc làm xáo
trộn dòng năng lượng và chu trình vật chất trong hệ sinh thái nông nghiệp.
Phân hóa học chắc chắn đã gia tăng năng suất, nhưng việc sử dụng lặp
lại, với liều lượng cao gây ra sự ô nhiễm đất do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa,
Ntrat và photphat rải một cách dư thừa sẽ chảy theo nước mặt và làm ô nhiễm
các mực thủy cấp. Cũng thế, nông dược và vô cơ hay hữu cơ cũng có thể làm
ô nhiễm đất và sinh khối.
Thâm canh không ngừng của nông nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều
các chất nhân tạo như phân hóa học và nông dược…làm cho đất ô nhiễm tuy
chậm nhưng chắc, không hoàn lại, đất sẽ kém phì nhiêu đi.
Môi trường nước:
Nguồn nước mặt: Do nhiều lý do khác nhau, các nguồn nước trên Trái
đất ngày càng cạn kiệt. Ước tính có khoảng 1/3 dân số thế giới đang sống
trong tình trạng thiếu nước trầm trọng. Trong khi đó, dân số gia tăng với tốc
độ chóng mặt. Quá trình đô thị hóa, hoạt động sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp đang khiến cho các nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Nguồn nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người.
Gần 5 triệu người chết hang năm ở các nước đang phát triển liê quan đến vấn
đề thiếu nước sạch.
Những chất gây ô nhiễm chủ yếu trong nước là các mầm bệnh sinh ra
từ chất thỉa của con người (vi khuẩn và vi rút), kim loại nặng và hóa chất từ
20
chất thải công nghiệp, nông nghiệp. Uống nước đã bị ô nhiễm hoặc ăn thức ăn
chế biến bằng nước nhiễm độc là hình thức phơi nhiễm phổ biến nhất. Ăn cá
bắt từ nguôn nước bị ô nhiễm cũng có thể nguy hiểm vì chúng có thể mang
mầm bệnh và tích lũy các chất độc hại như kim loại nặng và các chất hữu cơ
bền thông qua quá trình tích lũy sinh học. Ngoài ra, con người cũng có thể
ảnh hưởng bởi cây trồng được tưới bằng nước ô nhiễm hoặc do đất bị nhiễm
bẩn bởi các dòng song ô nhiễm dâng lên.

Nước ngầm: Nước ngầm là nước nằm ở dưới bề mặt lớp đất sỏi và
trong những tầng địa chất thấm qua được. Nước ngầm là một nguồn rất quan
trọng của nước sạch, chiếm 97% lượng nước ngọt trên Trái đất. Khoảng 2 tỷ
người, cả ở thành phố và nông thôn đang phụ thuộc vào lượng nước này cho
những nhu cầu sống hang ngày. Nhưng nguồn nước này giờ đây cũng đang bị
ô nhiễm nghiêm trọng do nhiều lý do khác nhau.
Ở đô thị, các nguồn gây ô nhiễm nước ngầm chính là các bãi chon lấp
rác thải không hợp vệ sinh. Ngoài ra nước thải từ hoạt động sản xuất công
nghiệp, khai thác khoáng sản đều có khả năng bị rò rỉ và ngấm sâu vào tầng
chứa nước ngầm. Hoạt động sản xuất nông nghiệp với việc sử dụng quá nhiều
thuốc trừ sâu và phân bón cũng là nguồn đe dọa lớn đối với các nguồn nước
ngầm.
Các quá trình hình thành địa chất tự nhiên là nguồn giải phóng kim loại
nặng vào nước ngầm, trong đó phổ biến nhất là ô nhiễm Asen. Một nghiên
cứu mới đây cho thấy nguồn nước ngầm của nhiều quốc gia thuộc khu vực
Nam Á và Đông Nam A có hàm lượng Asen rất cao. Cao nhất là Băng- la-
đét. Hiện có 1/15 dân số nước này đang phải uống nước có hàm lượng Asen
cao hơn 5 lần mức cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Nước ngầm rất khó xử lý, do đó việc bảo vệ nguồn nước đó là cực kỳ
quan trọng. Một số biện pháp ngăn chặn cơ bản là tăng cường kiểm soát đối
với việc xa thải, xây dựng hệ thống thoát nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, cho
đến nay ở các nước đang phát triển các biện pháp này được tiến hành rất
21
chậm chạm, trong khi hệ thống nước ngầm đang ngày càng bị nhiễm bẩn
nghiêm trọng.
Môi trường không khí
Nguồn gây ra ô nhiễm bao gồm hai loại chính là nguồn tự nhiên và
nguồn nhân tạo. Đối với nguồn nhân tạo, chúng rất đa dạng nhưng chủ yếu do
các hoạt động công nghiệp, quá trình đốt cháy các nguyên liệu hóa thạch, hoạt
động của các phương tiện giao thông vận tải và nông nghiệp…

Do sản xuất công nghiệp phát sinh chủ yếu từ các ống khói nhà máy,
đặc biệt với các nhà máy chưa có bộ phận xử lý chất thải sau quá trình sản
xuất. Tùy từng loại hình công nghiệp có thể thải ra bụi, khí , hơi. Lượng thải
và mức độ độc hại rất khác nhau, tùy thuộc vào quy mô công nghiệp công
nghệ áp dụng nguyên liệu sử dụng và phương pháp đốt cụ thể.
Do hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu do đốt rừng làm rẫy, làm
cho không khí co
2
tăng lên, khí CH
4
tạo ra do sự phân hủy chất hữu cơ từ các
trang trại chăn nuôi hoặc từ đống rác xử lý không đúng kỹ thuật.
Bên cạnh đó ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất nông
nghiệp còn gây ra bởi các hoạt dộng phu thuốc bảo vệ thực vật bằng bình
phun, vòi phu, máy bay. Phân gia súc phân hủy, phân bón hây mùi hôi thối
tạo điều kiện cho các lại sinh vật truyền bệnh phát triển như ruồi, nhặng…
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Người dân nông thôn và môi trường nông thôn tại xã Vạn Thọ, tập
chung chủ yếu vào các vấn đề sau:
+ Nước sinh hoạt của các hộ gia đình
+ Cơ sở hạ tầng: Nhà ở, chuồng trại, nhà về sinh, ao hồ…
+ Công tác quản lý, thu gom, xử lý rác thải trong quá trình sinh hoạt
22
+ Hoạt động nông nghiệp ảnh hưởng đến môi trường nông thôn như: Vấn
đề sử dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, vệ sinh dịch tễ…
+ Một số đối tượng khác như: Khái thác khoáng sản, phong tục
tập quán…

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Xã Vạn Thọ - Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguên
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Tại UBND Xã Vạn Thọ - Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên
- Thời gian: Từ ngày 2/2014 đến ngày 5/2014.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
* Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
- Khí hậu, thủy văn
- Nguồn tài nguyên
* Điều kiện kinh tế xã hội
- Thực trạng phát triển kinh tế
- Dân số lao động và việc làm
3.3.2. Đánh giá hiện trạng môi trường xã Vạn Thọ
- Hiện trạng sử dụng nước sinh hoạt.
- Hiện trạng nước thải.
- Hiện trạng về quản lý rác thải.
- Hiện trạng vệ sinh môi trường.
- Tình hình chăn nuôi, hiện trạng vệ sinh môi trường.
- Hiện trạng sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và công tác bảo
vệ môi trường.
- Một số vấn đề khác: phong tục tập quán, thói quen
- Công tác tuyên truyền và giáo dục vế sinh môi trường.
3.3.3. Đánh giá về sự nhận thức của người dân về môi trường.
3.3.4.Đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường
23
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu, thông tin thứ cấp
- Thu thập tài liệu liên quan

+ Các văn bản quy phạm pháp luật lien quan.
+ Các tài liệu về điều kiện tự nhiên.
+ các tài liệu kinh tế - xã hội.
+ Các tài liệu về cơ sở hạ tầng phục vụ quản lí, làm việc sản xuất…
+ Tài liệu về phương hướng phát triển chung của xã trong những năm
tới, các tài liệu hiện trạng sử dụng tài nguyên.
3.4.2. Phương pháp điều tra sơ cấp trực tiếp tại địa bàn nghiên cứu
- Đối với phương pháp quan sát trực tiếp: được tiến hành bằng hai
phương pháp:
+ Quan sát một cách tổng quát môi trường xung quanh địa bàn nghiên
cứu như nước mặt, rác thải bên đường, chuồng trại chăn nuôi, vỏ chai lọ
thuốc bảo vệ thực vật…
+ Quan sát cụ thể các đối tượng nghiên cứu bao gồm: nhà tiêu, giếng
nước của các hộ gia đình. Được tiến hành đồng thời trong quá trình đi điều tra
phỏng vấn từng hộ gia đình.
- Các chỉ tiêu quan sát:
+ Chuồng trại: Khoảng cách đến nhà ở, nền nhà, mùi, tình trạng sức
khỏe gia súc…
+ Nhà vệ sinh: Chất lượng nhà vệ sinh ( xi măng, hai ngăn, tự hoại…)
+ Giếng nước sử dụng: Số giếng, loại giếng, mầu nước, mùi vị.
+ Rác thải: Tình hình thu gom, quản lý…
3.4.3. Phương pháp điều tra phỏng vấn
- Đối với phương pháp điều tra phỏng vấn chọn bộ điều tra: Sử dụng
phiếu điều tra có sẵn bao gồm những câu hỏi đống và câu hỏi mở, tiến hành
phỏng vấn ngẫu nhiên các hộ gia đình trên toàn xã.
- Số hộ phỏng vấn: Khoảng 50 hộ (chọn đại diện các xóm, mỗi xóm
phỏng vấn 4 hộ).
24
3.4.4. Phương pháp lấy mẫu và chỉ tiêu theo dõi
Bảng 3.1. kết quả lấy mẫu nước

Loại mẫu Số mẫu Chỉ tiêu theo dõi Vị trí lấy
mẫu
Phương pháp
lấy mẫu
Nước mặt 01 PH,BOD
5
,
COD,colifrom
Ao hộ gia
đình
Lấy 2l/mẫu
được đựng
trong trai nhựa
3 lít, các mẫu
được bảo quản
và mang xuống
phòng thí
nghiệm phân
Nước ngầm 01 PH,BOD
5
,
As,Fe
Giếng
khoan hộ
gia đình
Khe suối 01 PH,COD,
BOD
5
,colifrom
Suối vai cày

Cơ quan phân tích: Tại viện khoa học sự sống trường đại học Nông
Lâm Thái Nguyên
Bảng 3.2. kết quả lấy mẫu đất
Loại mẫu Số mẫu Chỉ tiêu theo
dõi
Vị trí lấy mẫu Phương lấy
mẫu
Đất ruộng rau 01 pH,OM, P
2
O
5,
CEC, Cu,
Zn,pb, NO
3
-
Ruộng rau Mẫu đất được
lấy ở độ sâu
0-25cm,từ
25-50cm,50-
100cm với
khôi lượng
2kg/ mẫu.
Đất đồi chè 01 Đồi chè
Đất cạnh
chuồng trại
01 Cạnh chuồng
trại
3.4.5. Phương pháp tổng hợp xử lý số liệu
25
Dựa trên số liệu thu thập được, thông kê, tổng hợp và phân tích xử lý

bằng phần mềm Excel, So sánh mẫu nước sinh hoạt với QCVN.

×