Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Thực trạng nguyên nhân và giải pháp biến động của lãi suất trong năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.17 KB, 7 trang )

Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp Biến động của lãi suất trong
1.

năm 2011
Thực trạng lãi suất Việt Nam năm 2011.
Bước sang năm 2011 lãi suất tiếp tục lên ở mức rất cao, lãi suất cho vay tiêu dùng

đã lên tới 25-30%, còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20% trong 2 tháng đầu
năm.
Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao Ngân hàng nhà
nước (NHNN) vẫn buộc phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. NHNN đã hạ mục tiêu
tăng trưởng tín dụng từ mức 23% xuống còn dưới 20%, tăng trưởng cung tiền cũng được
điều chỉnh giảm 15-16%.
Để thực hiện mục tiêu trên ngày 08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi
suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái chiết
khấu chỉ còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ ”siêu lạm phát” năm 2009.
Cùng với việc nâng lãi suất chính sách, chỉ trong vòng tháng 2 và tháng 3 vừa qua NHNN
đã hút về gần 80 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở.
Ngoài ra, NHNN vừa ban hành Thông tư 02 trong đó luật hóa trần huy động lãi
suất 14%. Điều này đã gây khó khăn cho rất nhiều ngân hàng nhỏ khi huy động vốn trên
thị trường. Thực tế thể hiện qua việc các ngân hàng lại ”chạy đua” tăng lãi suất không kỳ
hạn và lãi suất ngắn hạn 1-2 tuần lên gần bằng mức trần. Lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng cũng lên cơn sốt. Lãi suất qua đêm cao hơn các kỳ hạn dài hơn và có những
giao dịch lãi suất đã vượt mức 20%.
Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc
quyết định tăng dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ là 1
và 3%, với mức kỳ hạn là trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với khoảng thời
gian trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày 09/03/2011, NHNN vừa quyết định nâng dự trữ bắt
kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là với quy định Thông tư 13, các tổ chức tín dụng chỉ
được sử dụng không quá 80% số vốn huy động thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực tế cao hơn


rất nhiều so với con số chính thức trên.


Theo Reuters, 372,000 tỷ đồng là tổng số tiền huy động của toàn hệ thống ngân
hàng đến tháng 7/2011, trong đó huy động trong 7 tháng năm 2011 là 35,600 tỷ đồng.
Tuy nhiên 80% nguồn vốn huy động được cho vay chỉ áp dụng đối với nguồn vốn từ thị
trường 1 (huy động từ dân cư), các NHTM có thể đã lách quy định bằng cách tăng cường
vay nợ trên thị trường lien ngân hàng với kỳ hận trên 3 tháng để bổ sung 20% nguồn vốn
này, hay nói cách khác nguồn vốn huy động từ thị trường 1 đã không bị trích dự phòng
20%. Do vậy, mặc dù bị giới hạn mức tỷ lệ 25% từ nguồn vốn từ các Tổ chức tín dụng
thấp hơn nhưng với lãi suất thấp hơn, các NHTM đẩy mạnh sử dụng vốn liên ngân hàng
để thay thế và do đó thực tế tỷ lệ cho vay/ nguồn vốn huy động từ dân cư của các NHTM
là 100%.

Đồ thị tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng


Qua đồ thị thể hiện tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng, chúng ta có thể thấy
thế thượng phong đang thuộc về các ngân hàng lớn, đã có uy tín hoạt động nhiều năm, và
có thể coi là “đại gia” trong ngành ngân hàng Việt Nam. Chỉ riêng 7 ngân hàng này đã
chiếm 77,61% tỷ lệ vốn được huy động trong năm qua. Theo số liệu cập nhật đến cuối
năm 2011, Việt Nam có tất cả 62 ngân hàng dưới tất cả các hình thức. Như vậy 55 ngân
hàng còn lại chiếm tỷ lệ huy động vốn chỉ là 22,39%, chưa bằng ngân hàng có tỷ lệ huy
động vốn lớn nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (26, 09%). Các
ngân hàng có tỷ lệ huy động vốn lớn tiếp theo lần lượt là Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam BIDV (14,21%), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam VCB
(13,66%), Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Vietinbank (10,58%),
Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu ACB (5,59%), Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn Thương Tín Sacombank (4,01%) và Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương
Techcombank (3,47%).

2.

Nguyên nhân:
Trên các góc độ khác nhau có rất nhiều cách giải thích cho diễn biến tăng lãi suất

gần đây của khu vực ngân hàng. Các cách giải thích khác nhau dẫn đến các chính sách
khác nhau và các cách ứng xử khác nhau trên cả vĩ mô và vi mô...
a. Trong nước:
• Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc.

Phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền gửi của các
tổ chức và tiền tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy phải trả lãi suất cao hơn
nhưng có ưu điểm là nguồn này có tính ổn định, vững chắc.


Bên cạnh đó, tiền gửi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty lớn (từ
hàng chục đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không kỳ hạn hoặc ngắn hạn,
bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột.
Một chi nhánh ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội có hơn 3.000 tỷ vốn
huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một Tổng công ty nhà nước. Ngân
hàng này luôn nơm nớp lo vì lí do nào đó Tổng công ty này rút số tiền trên thì lập tức
nguồn vốn huy động của chi nhánh này giảm 1/3 và hậu quả của nó đối với việc cân đối
vốn thì ai cũng rõ.
Chất lượng thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn còn là một mối quan ngại
thường trực trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng bất thường trong những năm qua và
chức năng quản lí rủi ro vẫn còn tương đối yếu.


Thu hút kiều hối về nước.
Bên cạnh đó, để thu hút nguồn kiều hối về nước, các ngân hàng cũng đồng loạt


tăng lãi suất ngoại tệ. Với khoảng hơn 9 tỷ USD kiều hối được chuyển về trong năm
2011, Việt Nam là một trong 10 quốc gia nhận nhiều kiều hối nhiều nhất thế giới.


Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh.
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn cho các ngân hàng. Trong giới ngân

hàng có câu: “Ai có nguồn vốn lớn, người ấy chiếm lĩnh thị trường”.
Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số ngân hàng
thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không thiếu vốn nhưng họ vẫn
phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền sang các ngân hàng khác có lãi suất
cao hơn.
Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nói: “Qua theo dõi tình
hình hiện nay, tôi thấy cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế xã hội và
dân cư lớn thì chi nhánh đó đỗ lãi vì lãi suất huy động cao, cho vay lại khó khăn, vốn
thừa vẫn phải trả lãi cho tiền gửi. Nhưng tính chung cả hệ thống thì chúng tôi vẫn phải


tăng lãi suất vì sự sụt giảm tiền gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà
còn mất khách hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
Quan sát hành vi đầu tư hiện nay cho thấy, người dân Việt Nam đã khá nhạy cảm
với lạm phát. Nếu có dấu hiệu lạm phát, nhiều người sẽ rút tiền ngân hàng đi mua vàng,
mua USD. Ngân hàng thương mại cũng tham chiếu chỉ số lạm phát dự tính để quyết định
mức lãi suất cho vay. Khi đó lạm phát dự tính (hoặc khuynh hướng lạm phát) sẽ quyết
định lãi suất ở khu vực ngân hàng. Tính toán gần đây của một số chuyên gia cho rằng khi
lạm phát năm 2010 là 8 - 9% thì lãi suất huy động ít nhất phải là 12% và như vậy lãi suất
cho vay khoảng từ 15% trở lên chưa tính đến các yếu tố rủi ro khác.



Bù đắp rủi ro cho hoạt động tín dụng.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế

thế giới, rủi ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên
bảng cân đối của các ngân hàng thương mại phần lớn dưới mức 5%/tổng dư nợ, nhưng
các khoản nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ quá cơ cấu lại
thời hạn trả nợ trong thời hạn nợ đã cơ cấu lại…) đang có xu hướng tăng. Một vài ngân
hàng thương mại Nhà nước tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 đã trên mức 20% tổng dư nợ cho
vay.
Theo phản ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanh nghiệp
nhà nước đang có dấu hiệu tiếp tục tăng do khối xây dựng, giao thông đã hết thời hạn cơ
cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ. Nợ xấu cũng xuất hiện tại một số doanh
nghiệp xuất khẩu nhạy cảm với những biến động của thị trường. Bên cạnh đó nợ đọng
cho vay trong lĩnh vực bất động sản cũng không phải là ít.
Tình hình này cũng có thể là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng
tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ đọng và đảm bảo khả
năng thanh khoản của mình.
b. Thế giới:


Khu vực ngân hàng Việt Nam ở trong thế dễ bị tổn thương trước những biến động
của thị trường tài chính toàn cầu, hoặc trực tiếp qua kênh khủng hoảng nợ của một số
quốc gia châu Âu, hoặc trực tiếp thông qua kênh suy thoái kinh tế. Nợ xấu của khu vực
ngân hàng châu Âu và Trung Á đã gia tăng mạnh mẽ sau khi tốc độ phát triển kinh tế trở
nên xấu đi trong năm 2008 và 2009.
Ngoài ra việc tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài cũng đang trở nên khó khăn
hơn, lí do này khiến các ngân hàng phải tìm mọi cách để huy động nguồn tiền từ trong
nước. Và điều đó khiến họ phải đồng loạt gia tăng lãi suất huy động tiền gửi.
3.


Giải pháp.
Việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ kéo dài cộng với những biến động trong

và ngoài nước gần đây đang gây áp lực cho hệ thống ngân hàng. Nhiều biện pháp hành
chính vẫn tiếp tục được sử dụng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ và chính các
biện pháp hành chính này lại là gánh nặng cho hệ thống ngân hàng. Nhiều ngân hàng
đang trong tình trạng thiếu thanh khoản, và tình trạng thiếu vốn vẫn là một vấn đề nổi
cộm của hệ thống ngân hàng. Chất lượng tài sản danh mục đầu tư cũng vấn là mối quan
ngại lớn do tăng trưởng tín dụng cao bất thường trong những năm qua, lãi suất cho vay
tăng, và năng lực quản lí rủi ro của hệ thống ngân hàng tương đối yếu.
Một kế hoạch hành động nhằm tái cơ cấu và kiện toàn hệ thống ngân hàng hiện
đang được soạn thảo. Năng lực của Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng đã được nâng
lên đáng kể nhờ các hoạt động hỗ trợ kĩ thuật. Một bước đi quan quan trọng hướng tới hệ
thống ngân hàng minh bạch hơn là ban hành thông tư về tăng cường công bố thông tin
nhằm cải thiện công tác phổ biến thông tin vầ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước
Việt Nam.
Vấn đề tái cơ cấu và kiện toàn khu vực ngân hàng đang được tích cực thảo luận và
chính phủ đang xây dựng một kế hoạch hành động nhằm giải quyết các thách thức kể
trên. Nhiều định chế tài chính có quy mô nhỏ, hoạt động ở thành thị và có tốc độ tăng
trưởng danh mục cho vay rất cao. Mặc dù đã hỗ trợ cho các ngân hàng yếu thông qua
tăng thêm thanh khoản, song Ngân hàng Nhà nước cũng có ý cho biết rằng có thể sẽ phải


có những động thái kiện toàn lại nếu như các ngân hàng yếu kém hoạt động không tuân
thủ theo đúng quy định hiện hành.
Chính phủ cũng đang nỗ lực củng cố khuôn khổ thanh tra, giám sát và thực
thi tốt các quy định của ngành tài chính. Công tác thanh tra giám sát ngân hàng đã
được các đối tác phát triển chú trọng hỗ trợ trong năm vừa qua, và năng lực của Cơ
quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng (BSA) đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, việc
thực thi giám sát vẫn còn yếu và cần được tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với Luật về

các tổ chức tín dung (2010). Việc lệ thuộc vào các biện pháp hành chính vẫn còn phổ
biến và sẽ phải giảm dần để nhường chỗ cho các cơ chế dựa vào thị trường.
Một bước đi quan trọng là hướng đến một môi trường minh bạch hơn của hệ
thống ngân hàng là đi đến việc công khai và cung cấp thông tin của ngân hàng
trung ương. Đó là khởi đầu tốt nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa để các báo cáo và
quy trình công khai như vậy tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế. Trong các năm
tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục tăng cường tính minh bạch thông qua
việc công khai thêm các chỉ số lành mạnh tài chính (FSIs) và các số liệu thống kê
khác về toàn ngành ngân hàng (và của từng ngân hàng) như các nước láng giềng
trong khu vực.
Chính sách tiền tệ của Việt Nam cần được bổ sung bằng một loạt các biện pháp
hành chính, như hạn chế cho vay bằng ngoại tệ, quy định trần lãi suất huy động, tiền
đồng và đô-la, và kiểm soát việc mua bán ngoại tệ. Các biện pháp này có thể giải quyết
một số bất ổn vĩ mô trước mắt.



×