Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận: ĐÔNG NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ VÀ TRUNG QUỐC TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH. LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.04 KB, 21 trang )

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ PHỤNG HOÀNG

ĐÔNG NAM Á TRONG
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA MỸ VÀ TRUNG QUỐC
TỪ SAU CHIẾN TRANH
LẠNH.
LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ

Đoàn Thị Yến Xuân
K38.608.039

1


2

ĐÔNG NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ VÀ TRUNG
QUỐC TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH.
Mục lục :
Khái quát về bức tranh địa-chính trị
Những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ và Trung
Quốc
A. Chính sách của Mỹ
B. Chính sách của Trung Quốc
III. Cục diện cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc
1. Lợi ích và mục tiêu cạnh tranh chiến lược Mỹ- Trung Quốc
2. Các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu giữa Mỹ và Trung Quốc
3. . Quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc và tác động đến Đông Nam Á
I.
II.



IV Nhận xét và kết luận

Lịch sử quan hệ quốc tế


3

I. Khái quát về bức tranh địa-chính trị Đông Nam Á
Đông Nam Á vốn có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ lịch sử thế giới, từ những
bước đi đầu tiên của lịch sử loài người do những điều kiện tự nhiên thuận lợi của
khu vực. Không phải ngẫu nhiên mà mối liên hệ của khu vực này với thế giới đã
được xác lập mấy chục thế kỉ qua. Trước đây, người ta thường hiểu tầm quan trọng
của Đông Nam Á là do chủ yếu vị trí địa lí của nó. Khu vực này được coi là hành
lang, cầu nối giữa phương Đông ( Trung Quốc, Nhật Bản, …) với phương Tây
( Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải…)
Từ xa xưa Đông Nam Á vốn là một chỉnh thể với những nét đặc trưng riêng của nó.
Đây là một khu vực khá rộng trải ra từ khoảng 92 0 kinh Đông đến 1040 kinh Đông
và từ khoảng 280 vĩ Bắc, chạy qua xích đạo đến 150 vĩ Nam. Vị trí này tạo cho
Đông Nam Á có những điều kiện tự nhiên độc đáo (là khu vực nhiệt đới gió mùa
duy nhất trên thế giới), thích hợp với sự sinh trưởng của cây cỏ, muông thú và sự
giàu có về sản vật, tài nguyên. Tuy nhiên, mãi đến cuối cuộc Chiến tranh thế giới
thứ hai người ta mới xem xét Đông Nam Á như một thực thể địa - chính trị, văn
hoá, lịch sử.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đông Nam Á bước vào một thời kỳ
phát triển mới với những nội dung lớn như: đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội đồng thời với quá trình xây dựng, thiết lập
các mối quan hệ khu vực để phát triển. Về tổng thể, những nội dung này diễn ra
đan xen với nhau trong sự phát triển của các nước Đông Nam Á.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đông Nam Á trở thành khu vực tranh

chấp giữa Nhật Bản với các nước đế quốc thực dân đang thống trị ở đây. “Chính
sách Muy-ních phương Đông” của phương Tây đã tạo điều kiện cho phát xít Nhật
nhanh chóng chiếm Đông Nam Á. Tiếp đó là sự phản công của Đồng minh phương
Tây. Thực tế này đã tạo ra một thời kỳ “hỗn mang” để các lực lượng dân tộc ở
Đông Nam Á phát triển nhanh chóng, các khu căn cứ cách mạng ra đời ở nhiều
nước, các lực lượng chính trị tích cực hoạt động (Việt Nam, Inđônêxia, Miến Điện,
Lào, Philippin, Malaixia...), chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới. Sau khi
Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, Inđônêxia, Việt Nam, Lào đã kiên quyết đứng lên
tuyên bố nền độc lập của mình.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, được sự hẫu thuẫn của các cường quốc, nhằm đè
bẹp làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á và không muốn mất
vùng đất giàu có phì nhiêu này, các đế quốc thống trị cũ đã sử dụng “chính sách
Lịch sử quan hệ quốc tế


4

pháo hạm” để quay lại thống trị Đông Nam Á. Thực dân Pháp trở lại Đông Dương,
Hà Lan trở lại Inđônêxia, Mĩ trở lại Philippin, Anh trở lại Miến Điện, Malaixia. Sự
ngoan cố của các đế quốc thực dân, ý chí đấu tranh giành độc lập của nhân dân
Đông Nam Á cùng với sự chi phối của mối quan hệ quốc tế lưỡng cực, làm cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Đông Dương, trở
nên hết sức quyết liệt, đẫm máu.
Những ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của Liên Xô từ sau Chiến thế giới thứ hai
và thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949, làm cho các nước đế quốc
Đông Nam Á hết sức lo ngại về “sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản” ở khu vực
này. Do vậy chúng tìm cách thay đổi chính sách thực dân, đặc biệt là từ sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954 của Việt Nam. Chủ nghĩa thực dân cũ chuyển dần
sang chủ nghĩa thực dân mới, các quốc gia Đông Nam Á lần lượt tuyên bố độc lập:
Philippin (4-7-1946), Miến Điện (4-1-1948), Inđônêxia (27-12-1949), Mãlaixia

(31-8-1957), Singapo (1963). ở Đông Dương cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
diễn ra hết sức quyết liệt và mang tính chất của cuộc chiến tranh cách mạng, đến
năm 1975 mới kết thúc thắng lợi, ở Brunây đến năm 1984 mới tuyên bố độc lập.
Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ở các nước Đông Nam Á được bắt đầu
từ những thời điểm khác nhau, do các nước trong khu vực giành độc lập ở những
thời điểm khác nhau. Giữa các nước cũng có sự khác nhau về con đường phát triển.
Các nước Đông Dương xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, trong
lúc đó các nước khác tìm cách dựa vào phương Tây, phát triển nền kinh tế thị
trường. Trong thế giới “lưỡng cực”, sự khác nhau giữa hai nhóm nước Đông Nam
Á đã được sử dụng để tạo ra sự đối đầu trong khu vực. Khi Liên Xô tan rã, xu thế
đối thoại trong khu vực cũng diễn ra với việc giải quyết vấn đề Campuchia (1991) .
Con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á vẫn được Việt Nam
lựa chọn và xu thế hoà nhập khu vực vẫn diễn ra. Điều này cho thấy những xung
đột giữa hai nhóm nước trong suốt hàng thập kỷ qua là biểu hiện của xung đột ý
thức hệ trong quan hệ quốc tế.
Xem xét sự phát triển của các nước Đông Nam Á người ta có thể thấy khu vực này
có những nét riêng, dường như là trái ngược, trong sự phát triển chung của thế giới.
Trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã trở
thành một trào lưu thống nhất, các nước đang phát triển đoàn kết chặt chẽ với nhau
về mục tiêu chung. Tuy nhiên, ở Đông Nam Á lúc bấy giờ bị phân hoá thành hai
nhóm nước đối địch nhau. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương người ta còn thấy
cả quân lính một số nước trong khu vực tham gia vào đạo quân xâm lược Mĩ,
chống phá cách mạng Đông Dương. Khi “chiến tranh lạnh” tan rã, ở nhiều nơi trên
thế giới đã diễn ra những xáo trộn, biến động to lớn bởi sự bùng nổ của vấn đề dân
Lịch sử quan hệ quốc tế


5

tộc, sắc tộc và xu hướng li khai. ở Đông Nam Á tình hình có vẻ như ngược lại.

Những tác động từ bên ngoài đã không gây ra một sự đảo lộn nào về chính trị trong
khu vực, công cuộc đổi mới của Việt Nam được tiến hành thận trọng và có kết quả,
ngay cả vấn đề Campuchia được xem là tiêu điểm số 1 của quốc tế lúc bấy giờ,
cũng diễn ra trong hoà bình, ổn định. Trên bình diện toàn khu vực, quá trình hoà
nhập giữa các dân tộc diễn ra mạnh mẽ. Sự kiện tháng 1 - 1992, khi Việt Nam và
Lào tham gia Hiệp ước Bali, trở thành quan sát viên của ASEAN đã mở đầu cho
quá trình đi đến sự hoà hợp giữa hai nhóm nước trong khu vực, tiến tới xây dựng
Đông Nam Á thành một khu vực thống nhất, ổn định và phát triển. Sự ổn định về
chính trị là tiền đề cho sự phát triển. Chính tổ chức ASEAN đã góp phần tạo ra sự
ổn định để các nước thành viên phát triển mạnh mẽ. Do vậy sự hoà hợp giữa các
quốc gia trong khu vực càng tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của khu vực.
Không phải ngẫu nhiên mà Đông Nam Á đang trở thành điểm thu hút đầu tư của
thế giới.
Bảng 6: Tăng trưởng và lạm phát ở các nước Đông Nam Á từ 1989 - 1993 (Đơn
vị:%)
Tên nước

1

Cămpuchia

Inđônêxia

Lịch sử quan hệ quốc tế

Tỷ lệ tăng trưởng

Tỷ lệ

Năm


GDP

Nông
nghiệp

Công
nghiệp

Dịch
vụ

2

3

4

5

6

7

1989

3,5

7,1


1,7

- 1,1

55,0

1990

1,2

1,2

- 2,1

2,7

141,8

1991

7,6

6,7

8,9

8,4

197,0


1992

7,0

1,9

15,6

11,2

75,0

1989

7,5

3,3

7,8

9,3

6,4

1990

7,1

2,0


9,7

7,3

7,4

1991

6,6

1,3

9,9

5,8

9,2

1992

5,8

3,6

7,5

5,8

7,5


1993

6,3

3,6

8,7

4,9

9,5

lạm phát


6

Lào

Malaixia

Myanma

Philippin

Xingapo

Lịch sử quan hệ quốc tế

1989


13,4

9,9

35,0

12,5

62,9

1990

6,7

8,7

16,2

- 2,2

35,1

1991

4,0

- 1,7

19,9


8,8

13,4

1992

7,0

8,3

7,5

3,8

9,8

1989

8,7

6,0

11,0

8,5

2,8

1990


9,7

0,3

13,2

11,8

3,1

1991

8,7

0,0

10,3

10,2

4,4

1992

8,0

22,6

8,5


10,2

4,7

1993

7,6

2,5

6,9

9,4

3,9

1989

3,7

4,4

15,4

- 0,4

27,2

1990


2,8

1,8

5,5

3,1

17,6

1991

- 1,0

- 2,4

0,1

0,3

31,3

1992

10,9

13,6

11,8


7,4`

21,0

1989

6,2

3,0

7,4

7,0

12,2

1990

2,7

0,5

2,6

4,0

14,2

1991


- 0,8

- 0,2

- 2,7

0,4

18,7

1992

0,3

- 0,4

- 0,5

0,7

8,9

1993

1,8

1,5

1,8


1,9

7,6

1989

9,2

- 6,6

8,3

9,9

2,4

1990

8,3

- 7,6

9,1

8,0

3,5

1991


6,7

- 9,4

7,8

6,2

3,4

1992

5,8

0,7

5,0

6,3

2,3

1993

8,1

0,1

8,9


7,7

2,5

1989

12,3

9,7

17,5

9,5

5,4


7

Thái Lan

Việt Nam

1990

11,6

- 3,7


16,2

13,2

6,0

1991

7,9

4,4

12,4

5,3

5,7

1992

7,4

3,1

10,6

5,9

4,1


1993

7,5

2,6

11,0

6,3

3,7

1989

8,0

6,9

- 2,8

17,3

34,4

1990

5,3

4,9


6,0

11,1

67,5

1991

6,0

2,2

9,1

8,2

67,0

1992

8,3

6,3

11,2

8,5

37,7


1993

7,5

3,2

11,4

9,4

15,0

Nguồn: United Nations: Economic and Social Survey Asia and the Pacific 1993,
New York, p.29, 30a (Dẫn theo: Nguyễn Anh Thái (CB) lịch sử thế giới hiện đại,
tập IV, N. Đại học quốc gia Hà Nội, H,1996, trang 92 - 93).
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1999 của một số
nước Đông Nam Á.
(Đơn vị: %)
Tên nước

Số liệu dự đoán vào tháng Số liệu tháng 11 4/1999
1999

Inđônêxia
Malaixia
Philippin
Thái Lan
Xingapo
Việt Nam
Lào

Cămpuchia

0,0
0,7
2,4
0,0
1,0
-

Lịch sử quan hệ quốc tế

2,0
3,0
3,0
4,0
5,0
5,0
5,2
4,0


8

Cùng với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước sau khi giành được độc lập
dân tộc, các nước Đông Nam Á cũng từng bước tạo lập và phát triển mối quan hệ
giữa mình với các nước láng giềng trong khu vực cũng như với cả khu vực. Quá
trình xây dựng và phát triển các mối quan hệ trong khu vực chịu tác động mạnh mẽ
của các mối quan hệ quốc tế.
Nhìn chung, trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” các nước Đông Nam Á phân chia
thành hai trận tuyến đối địch nhau. Sự phân hoá này đã xuất hiện trong tiến trình

của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. Phong trào đấu tranh giành
độc lập ở Đông Nam Á thực ra là tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tuy
nhiên cuộc cách mạng này được tiến hành không giống nhau giữa hai nhóm nước
Đông Nam Á, sự khác nhau này, các nước đế quốc đã lợi dụng để tạo nên mâu
thuẫn giữa cách mạng Đông Dương với các nước trong khu vực. Do vậy, trong thời
gian này người ta thấy sự hiện diện của quân đội Thái Lan, Philippin ... ở Miền
Nam Việt Nam. Đây là biểu hiện của sự đối đầu về ý thức hệ trong xu hướng phát
triển của các nước Đông Nam Á. Chống lại cách mạng Đông Dương, nhóm nước
Đông Nam Á phát triển theo xu hướng tư sản tìm cách dựa hẳn vào Mĩ và Tây Âu,
Nhật Bản, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, kỹ thuật để phát triển đất nước.
Sau thắng lợi của cách mạng Đông Dương năm 1975, những bất đồng giữa hai
nhóm nước trong khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại. Nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng này là do các nước trong khu vực lo ngại trước tiềm lực quân sự của Việt
Nam, họ cho rằng Việt Nam có thể can thiệp vào tình hình đất nước của họ. Chính
vì thế sự căng thẳng giữa hai nhóm nước càng trở nên gay gắt xoay quanh “vấn đề
Campuchia”, khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang giúp đỡ nhân dân
Cămpuchia chống lại họa diệt chủng năm 1979. Sau khi Hiệp định Pari về vấn đề
Cămpuchia được ký kết ngày 23 -10 - 1991 xu thế hoà giải, hoà nhập ở Đông Nam
Á đã diễn ra mạnh mẽ. Quá trình hoà nhập ở khu vực Đông Nam Á diễn ra với tổ
chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) là trung tâm.

II. Những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ và
Trung Quốc.
A. Chính sách của Mỹ
Trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ sau chiến tranh lạnh, Đông Nam Á
có vị trí quan trọng. Bản Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỉ XXI được
Lịch sử quan hệ quốc tế


9


Tổng thống B.Clinton công bố năm 1999 tiếp tục khẳng định lợi ích chiến lược
của Mỹ ở khu vực là “ phát triển hợp tác khu vực và song phương, góp phần
ngăn chặn và giải quyết xung đột, nâng cao mức tham gia của Mỹ trong nền
kinh tế khu vực”. Mỹ chủ trương duy trì quan hệ đồng minh với Thái Lan,
Philippin và các thỏa thuận với Xingapo và các nước ASEAN khác, đồng thời
tạo điều kiện duy trì một ASEAN có khả năng đảm bảo ổn định và thịnh vượng
trong khu vực. Các mục tiêu chủ yếu là :
1) Nắm lại địa bàn Đông Nam Á nhằm xây dựng vành đai liên kết an ninh
từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á, thậm chí vươn sang Ấn Độ Dương,
lập “Liên minh chiến lược Châu Á” bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc,
ASEAN.
2) Trở lại Đông Nam Á nhằm lôi kéo các nước cùng đối phó với “mối đe
dọa Trung Quốc”, bảo đảm cho Mỹ địa vị hàng đầu trong khu vực.
3) Đưa Đông Nam Á thành cứ điểm để cải thiện, phát triển quan hệ với Ấn
Độ, kiểm soát hợp tác Nga - Ấn, liên kết với Ấn Độ trong quan hệ với
Trung Quốc.
4) Tăng cường chiếm lĩnh thị trường Đông Nam Á, từ đó mở rộng ra toàn
bộ Châu Á - Thái Bình Dương.
Sau sự kiện ngày 11-9, Mỹ chú ý đến Đông Nam Á nhiều hơn trước, đưa Đông
Nam Á trở thành “mặt trận thứ hai” trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của
Mỹ, chính quyền Bush xác định rõ mục tiêu chiến lược lâu dài của Mỹ tại Đông
Nam Á là
1) Ổn định khu vực và cân bằng lực lượng để không cho ai làm bá chủ tại
Đông Nam Á.
2) Không để bị loại ra khỏi khu vực bởi một cường quốc hay một liên minh
nào.
3) Tự do lưu thông hàng hải và bảo vệ các đường biển.
4) Bảo vệ quyền lợi mậu dịch và đầu tư của Mỹ
5) Ủng hộ đồng minh và các nước bạn vè.

6) Truyền bá dân chủ, chủ nghĩa pháp quyền, nhân quyền, tự do tín ngưỡng.
7) Không để khu vực trở thành căn cứ địa của khủng bố.

Lịch sử quan hệ quốc tế


10

Như vậy có thế thấy, sau chiến tranh lạnh, Mỹ ngày càng nhận thức rõ vai
trò quan trọng của Đông Nam Á, do đó tăng cường sự có mặt tại đây để đảm
bảo lợi ích chiến lược của mình.
B. Chính sách của Trung Quốc
Trong công cuộc cải cách và mở cửa, cùng với những thành tựu to lớn trong
lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Trung Quốc cũng gặt hái nhiều thành
công trên lĩnh vực đối ngoại. Với mục tiêu sớm trở thành một cường quốc khu
vực và thế giới trong một thế giới đa cực, đa trung tâm, Trung Quốc theo đuổi
một chính sách khu vực nhằm ngăn chặn các điểm nóng có thể bùng phát thành
xung đột vũ trang, đồng thời tăng cường ảnh hưởng chi phối của Trung Quốc,
trước hết là ở Đông Nam Á. Chính sách khu vực này phục vụ việc triển khai
chiến lược ngoại giao Trung Quốc sau chiến tranh lạnh theo hướng : “Ngoại
giao nước lớn là then chốt ; ngoại giao láng giềng là quan trọng là hàng đầu:
ngoại giao với các nước đang phát triển là quan trọng”.
Trong “ngoại giao láng giềng”, Trung Quốc chủ trương xây dựng cục diện hòa
bình khu vực xung quanh biên giới, do đó Trung Quốc coi trọng phát triển và
cải thiện quan hệ với các nước láng giềng. Ngoại giao láng giềng Trung Quốc
được thể hiện trên một số phướng diện sau:
- Tích cực tham gia và xây dựng cơ chế đa phương. Từ thập niên 90 của thế kỉ
XX, Trung Quốc đã thay đổi thái độ hoài nghi và không tin cậy đối với cơ
chế đa phương, bắt đầu tích cực tham gia, thậm chí chủ động dưa ra sáng
kiến về cơ chế đa phương trong khu vực, trong đó đáng chú ý nhất là Trung

Quốc đã nhanh chóng phát triển quan hệ với ASEAN.
- Mở rộng đối ngoại kinh tế, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước Đông
Nam Á. Đây không chỉ là nội dung cơ bản của nhiệm vụ ngoại giao láng
giềng mà còn có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển của Trung Quốc, bởi
khu vực Đông Nam Á là vị trí yết hầu rất quan trọng trong tuyến đường biển
vận chuyển của Trung Quốc ra bên ngoài, đồng thời Đông Nam Á có dân số
gần 600 triệu, tài nguyên phong phú, là thị trường quan trọng của Trung
Quốc. Do tốc độ phát triển nhanh chóng của kinh tế Trung Quốc trong hai
thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, một số nước Đông Nam Á tỏ ra lo ngại
kinh tế Trung Quốc phát triển sẽ lấn sân thị trường quốc tế của họ, tạo ra
Lịch sử quan hệ quốc tế


11

mối đe dọa với họ. Tuy nhiên, những việc làm của Trung Quốc trong thời
gian khủng hoảng tài chính ở khu vực năm 1997 phần nào làm bớt lo lắng
của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc. Hợp tác kinh tế giữa
Trung Quốc với ASEAN bước vào giai đoạn phát triển ổn định hơn, tiến tới
việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA).
- Tăng cường đối thoại an ninh với các nước láng giềng, xây dựng cơ chế an
ninh tin cậy lẫn nhau. Trung Quốc đã tổ chức định kỳ đối thoại và trao đổi
về an ninh với các nước láng giềng như Thái Lan, Việt Nam…nhằm tăng
cường long tin và hợp tác trong lĩnh vực an ninh. Hợp tác quân sự giữa
Trung Quốc với các nước láng giềng khác mấy năm gần đây được đẩy mạnh.
Nhìn chung , dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, các nước trên thế giới
đứng trước những yêu cầu mới cho sự phát triển của mình. Chính vì vậy, ngoài
việc tập trung các nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế - xã hội, các nước
còn triển khai chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập với khu vực và thế giới
với nhiều cấp độ khác nhau. Việc Trung Quốc tăng cường mối quan hệ với

ASEAN cũng nằm trong xu thế vận động chung của thế giới sau chiến tranh
lạnh.

III. Cục diện cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc
1. Lợi ích và mục tiêu cạnh tranh chiến lược Mỹ- Trung Quốc
a.
Đối với Mỹ, tuy Đông Nam Á không gần gũi về mặt địa lí như Trung Quốc,
nhưng Mỹ với tư cách là cường quốc thế giới, có những mối quan tâm và lợi
ích mang tính toàn cầu, nên từ lâu, khu vực này vẫn có ý nghĩa nhất định
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tiếp nối các tham vọng lãnh đạo thê giới
của các chính quyền tiền nhiệm, Đông Nam Á trở thành một mắc xích quan
trọng trong chiến lược Châu Á- Thái Bình Dương của hai Tổng thống
G.Bush (con) và B.Obama, cụ thể là:
 Thứ nhất, trên tư cách là một cường quốc biển có vị trí địa lý được bao
bọc bởi hai đại dương (Đại Tây Dương và Thái Bình Dương), từ xa xưa,
Mỹ đã luôn quan tâm đến vai trò của biển và quyền lực biển đối với xây
dựng, phát triển và bảo vệ an ninh đất nước. Mỹ coi việc kiểm soát đại
dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát thế giới. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng tăng, Đông Nam Á ngày càng chiếm giữ
vị thế quan trọng hơn trong chiến lược biển, quyền lực biển của Mỹ. Đó
Lịch sử quan hệ quốc tế


12

là trước hết bởi Đông Nam Á tiếp tục là nơi có những tuyến đường biển
nhộn nhịp nhất, quan trọng nhất của thế giới đi qua. Trong thập niên đầu
thế kỉ XXI, khi cán cân quyền lực thế giới đang dịch chuyển từ Châu ÂuĐại Tây Dương sang Châu Á- Thái Bình Dương, mà sự dịch chuyển này
lại liên quan trực tiếp đến, hay bắt nguồn từ một sự trỗi dậy của Trung
Quốc ở khu vực. Mỹ chủ trương thiết lập một khuôn khổ hợp tác khu vực

mới ở Châu Á- Thái Bình Dương nói chung, Đông Nam Á nói riêng,
trong đó có vấn đề đảm bảo an ninh biển Đông. Với vị trí liền kề đi vào
cửa ngõ Trung Quốc, Đông Nam Á trong đó có biển Đông trở thành mắc
xích quan trọng trong vành đai trực tiếp ngăn chặn, kiềm chế, bao vây
Trung Quốc mà Mỹ đang có ý đồ thiết lập. Đó là vành đai kéo dài từ
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan qua Philippin, Indonexia, Xingapo, Thái
Lan và kết thúc vùng Vịnh Péc xích tại Trung Đông.
 Thứ hai, kể từ sau sự kiện ngày 11-9, khi Mỹ ráo riết chuẩn bị thực hiện
chiến lược chống khủng bố quốc tế, Đông Nam Á trở thành một trong
những địa bàn trú ẩn lý tưởng của các lực lượng Hồi giáo cực đoan. Tình
hình phức tạp của các lực lượng ly khai, khủng bố ở đây làm cho Mỹ
thấy rõ yêu cầu can dự sâu rộng hơn vào các công việc của khu vực là
thiết yếu để chống khủng bố quốc tế.
 Thứ ba, Đông Nam Á nhiều năm qua đã nổi lên là một khu vực hấp dẫn
các nhà kinh doanh nước ngoài, nhất là Trung Quốc, do vậy nước này có
những điều kiện thuận lọi hơn các nước khác, Vì vậy, Mỹ không thể
chậm chân hơn nữa trong cuộc cạnh tranh kinh tế với các nước lớn khác,
bởi điều này có thể làm mất đi những cơ hội làm ăn kinh tế thu lợi nhuận
cao từ các nước Đông Nam Á. Trên thực tế đó, nước Mỹ có nhu cầu nhập
khẩu nhiều loại sản phẩm đa dạng và phong phú của các nước trong khu
vực. Nước Mỹ cũng cần tăng lượng hàng xuất khẩu tới các quốc gia
Đông Nam Á, đồng thời cần thu hút giới trẻ ở khu vực tới Mỹ học tập,
nghiên cứu, bởi việc này tạo cho Mỹ không những có nhiều lợi ích kinh
tế mà cả những lợi ích quan trọng trên các lĩnh vực chính trị và an ninh.
Như vậy, Đông Nam Á là một khu vực ngày càng quan trọng hơn trong chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Siêu cường này muốn lợi dụng các nước ASEAN làm nhân tố ổn
định khu vực và hổ trợ cho ASEAN thành một thực thể đủ mạnh để không phải lệ

Lịch sử quan hệ quốc tế



13

thuộc hoặc phải chấp nhận sự bá chủ của Trung Quốc, hay nói đúng hơn là nhằm
kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ có nhu cầu duy trì ảnh hưởng kinh tế,
văn hóa, chính trị ở Đông Nam Á để bảo vệ vị thế của mình và tranh giành ảnh
hưởng với Trung Quốc. Mỹ muốn có một ASEAN đủ mạnh để tiếp tục duy trì thế
cân bằng hiện nay trong khu vực và coi đây là phương thức hạn chế tốt nhất để hạn
chế Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng xuống phía Nam.
b.

Đối với Trung Quốc, có thể thấy nhiều lợi ích của nước này trên nhiều lĩnh
vực khác nhau
 Về địa kinh tế: Với lợi thế gần gũi về mặt địa lý, lại là khu vực có nguồn tài
nguyên dồi dào, nền kinh tế năng động, có dân số đông là một thị trường
rộng lớn, đầy tiềm năng đối với Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á có
kinh tế năng động nhưng một số nước còn hạn hẹp về vốn, tiềm lực kinh tếkĩ thuật, khoa học, công nghệ chưa được đáp ứng nhu cầu phát tiển nên cần
nguồn vốn đầu tư của các nước bên ngoài phát triển hơn. Vì vậy, Đông Nam
Á cũng tạo cơ hội cho nhà đầu tư Trung Quốc, công nghệ Trung Quốc thâm
nhập. Hơn nữa, một khi ràng buộc được một cách chặt chẽ lợi ích kinh tếthương mại với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc có thể sử dụng lợi ích
kinh tế để đạt được các nhóm lợi ích chính trị-an ninh trong quan hệ với các
nước Đông Nam Á.
 Về chính trị: ASEAN đang nổi lên là một trong số không nhiều các tổ chức,
liên kết khu vực thành công nhất. Một khi xác lập được ảnh hưởng chi phối
ở Đông Nam Á cũng có nghĩa là Trung Quốc đã tạo dựng được cơ sở để xác
lập ảnh hưởng lớn hơn trên trường quốc tế. Đông Nam Á được coi là vùng
đệm, lá chắn của Trung Quốc để đối phó với chính sách bủa vây của Mỹ. Vì
vậy, Trung Quốc rất cần một “vùng đệm phía nam” an toàn để có điểm tựa
vươn ra thế giới, mặc khác, kiềm chế tham vọng đứng đầu thế giới của Mỹ.
 Về địa chiến lược biển: Vùng biển Đông là vùng biển có trữ lượng dầu mỏ

và khí đốt dồi dào,vì vậy, Trung Quốc càng muốn chiếm giữ, khai thác và sử
dụng dầu cũng như các nguồn tài nguyên khác trong khu vực. Trung Quốc
muốn độc chiếm biển Đông, đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ tại đây, bởi Trung
Quốc cho răng nếu Mỹ gia tăng ảnh hưởng ở vùng biển này thì sẽ đe dọa đến
lợi ích nhiều mặt của Trung Quốc, chứ không đơn giản là lợi ích kinh tếthương mại.

Lịch sử quan hệ quốc tế


14

Như vậy, với tư cách là hai cường quốc lớn có nhiều tham vọng, cả Mỹ và Trung
Quốc đều coi Đông Nam Á là một trong những địa bàn quan trọng để họ gia tăng
ảnh hưởng và lợi ích nhiều mặt của mình. Để đạt được mục tiêu này, Mỹ phải gặp
một đối thủ cạnh tranh đáng gờm là Trung Quốc nên Mỹ có nhu cầu hợp tác với
Đông Nam Á vừa muốn lợi dụng các nước ASEAN làm nhân tố ổn định và cần
bằng lực lượng ở khu vực, tạo ra một Đông Nam Á càng thân Mỹ càng tố, nhât là
không trở thành sâu sau của Trung Quốc càng tốt, chứ không bao giờ vì các nước
ASEAN mà gây hấn với Trung Quốc. Trung Quốc thì muốn dựa vào những ưu thế
vượt trội và lợi thế của mình ở Đông Nam Á để chi phối được khu vực, nắm giữ
vai trò chủ đạo tại đây nhằm ngăn chặn chính sách kiềm chế của Mỹ, mục tiêu cao
hơn là đẩy lùi ảnh hưởng Mỹ để Trung Qốc có vai trò lớn hơn trên trường quốc tế.
2. Các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu giữa Mỹ và Trung Quốc
Về kinh tế, tại khu vực Đông Nam Á, vai trò kinh tế của Trung Quốc ngày càng
gia tăng nhanh, đang có xu hướng lấn áp một số lĩnh vực so với Hoa Kỳ. Nếu như
đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Trung Quốc chỉ chiếm vài phần trăm trong tổng
nhập khẩu của ASEAN thì đến 2006, nước này đã vượt Mỹ. Trung Quốc đã trở
thành một trong ba bạn hàng chủ chốt của ASEAN cùng với Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Hơn nữa Trung Quốc đang trở thành nhà đầu tư và viện trợ phát triển của nhiều
nước, nhất là các nước Đông Nam Á lục địa như Campuchia, Myanmar và Lào.

Ngược lại với Trung Quốc, thị phần của Hoa Kỳ trong buôn bán và đầu tư với
ASEAN lại suy giảm. Tuy nhiên, đầu tư của Hoa Kỳ tại các nước thành viên
ASEAN cũ vẫn còn lớn hơn Trung Quốc mặc dù cơn bão tài chính thế giới diễn ra
từ nửa sau năm 2008 có làm giảm đi quá trình này.
Về quân sự, ở khu vực Đông Nam Á, ảnh hưởng quân sự, an ninh của Trung
Quốc hiện nay chưa thể sánh vai đối với Mỹ, tuy rằng, vị thế của Mỹ có phần suy
giảm do với thời chiến tranh Lạnh. Để tiếp tục kiềm chế sự gia tăng nhanh chóng
tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc, từ nửa sau thập niên đầu thế kỷ XXI, Mỹ
tiến hành điều chỉnh và sắp xếp lại lực lượng quân sự, trong đó có việc bố trí nhiều
hơn các hạm đội, lực lượng quân sự gần với vùng biển Trung Quốc như việc chọn
đảo Guam làm căn cứ hải quân và không quân chính thay cho Hawai. Cùng với
hành động này, Mỹ tiếp tục củng cố quan hệ đồng minh với Nhật Bản và tái cam
kết bảo đảm an ninh cho Đài Loan… Đặc biệt, Mỹ nhân cơ hội cuộc chiến chống
khủng bố, đưa quân trở lại Đông Nam Á và tăng cường hợp tác quân sự với nhiều
nước ASEAN, kể cả những nước trước đây và hiện nay chưa phải là đồng minh
của Hoa Kỳ như Việt Nam và Indonesia. Ngoài ra, Mỹ trở nên “quan tâm nhiều
Lịch sử quan hệ quốc tế


15

hơn” đến biển Đông bằng cách gia tăng các cuộc tập trận chung với các nước đồng
minh và tiến hành nhiều cuộc “khảo sát” trên biển.
Về chính trị - ngoại giao và văn hoá, cũng như lĩnh vực kinh tế và quân sự, ảnh
hưởng về chính trị, ngoại giao nói chung của Hoa Kỳ và Trung Quốc đang có
những dịch chuyển to lớn, có lợi cho Trung Quốc. Trước hết, Trung Quốc đã
nhanh chóng không chỉ chủ động tham gia vào các tổ chức đa phương của khu vực
và thế giới mà còn từng bước thực hiện chính sách ngoại giao nước lớn bằng việc
đi đầu thiết lập các cơ chế hợp tác, luật chơi mới cho khu vực và thế giới. Việc
Trung Quốc cùng Nga và một số nước khác mới đây đã đề xuất “quyền rút vốn đặc

biệt” (SDR) của IMF, thay đồng đô la Mỹ bằng “đồng tiền toàn cầu mới”.
Đối với khu vực Đông Nam Á, uy tín chính trị của Hoa Kỳ cũng có phần suy giảm
so với thập niên 90 của thế kỷ XX. Điều này bắt nguồn từ sự tương đối lơ là của
Hoa Kỳ trong việc giúp các nước ASEAN thoát khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ
châu Á năm 1997 – 1998 và thái độ đôi khi thiếu công bằng của họ đối với tín độ
Hồi giáo ở khu vực trong cuộc chiến chống khủng bố. Hơn nữa, sự quan tâm chưa
đúng mức của Hoa Kỳ đến mở rộng thương mại với ASEAN, nhất là xây dựng các
khu vực mậu dịch tự do, trong khi Trung Quốc lại đi đầu trong lĩnh vực này. Tuy
nhiên, từ khi Tổng thống Barack Obama lên cầm quyền, Hoa Kỳ đã bộc lộ rõ sự
thay đổi chính sách khi tỏ ra đặc biệt quan tâm đến khu vực Đông Nam Á, nhất là
vấn đề biển Đông. Trên thực tế, từ năm 2009 đến 9 nay, uy tín của Hoa Kỳ trên
thế giới nói chung, tại khu vực Đông Nam Á nói riêng, đã được cải thiện đáng kể
bởi việc sử dụng “sức mạnh thông minh” và chính sách “đa đối tác” của họ trong
quan hệ quốc tế.
Về cạnh tranh quyền lực mềm: Đông Nam Á là một khu vực đang phát triển một
cách năng động và cởi mở, do vậy việc tiếp nhận các giá trị văn hóa cũng rất được
coi trọng. Đây là cơ sở cho việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường hoạt động truyền
bá văn hóa, giá trị và ý thức hệ của mình tại khu vực. Những hoạt động này, một
mặt, làm cho các nước trong khu vực có cái nhìn “thiện cảm” hơn đối với các nước
lớn nhưng sâu xa hơn, là tham vọng áp đặt hệ giá trị nhằm thao túng địa vị thống
trị trong khu vực, bởi “chỉ bằng các hoạt động văn hóa thì tư tưởng của một quốc
gia mới được bộc lộ rõ nhất, vì vậy, chính sách ngoại giao văn hóa giữ vai trò rất
quan trọng trong hoạt động ngoại giao” (Báo cáo của Hội đồng tư vấn Hoa Kỳ-Bộ
ngoại giao Hoa Kỳ tháng 9 năm 2006).
Đối với nước Mỹ, từ rất lâu với tư tưởng thống trị thế giới, Mỹ muốn áp đặt hệ giá
trị của mình lên các nước khác. Nhưng để đạt được mục tiêu này ở Đông Nam Á,
Mỹ phải gạt được đối thủ cạnh tranh nặng ký là Trung Quốc, do “văn minh Trung

Lịch sử quan hệ quốc tế



16

Hoa” từ lâu đã có ảnh hưởng khá sâu rộng đến nhiều nước trong khu vực. Đối với
Trung Quốc, nước này có một lợi thế phi vật chất từ nhiều thế kỉ qua cho đến ngày
này là “văn minh Trung Hoa”, lan tỏa sâu rộng ra các nước, các khu vực khác nhau
của thế giới. Mục đích của Trung Quốc là sử dụng “sức mạnh mềm”, “quyền lực
mềm” nhằm tạo dựng một vị thế cường quốc thế giới vừa bền cững, vừa thân thiện.
Năm 2008, Bắc Kinh trở thành nước chủ nhà của Olympic. “Ngoại giao Olympic”
đã lan truyền tối đa sức mạnh mềm của Trung Quốc. Không chỉ Mỹ nhìn Trung
Quốc mà cả thế giới sẽ nhìn thấy một siêu cường mới đang định hình. Điều đó
cũng đồng nghĩa việc hai nước Mỹ-Trung, vì những tham vọng thâu tóm thế giới
của mình, đã và đang biến Đông Nam Á thành một trong những khu vực diễn ra sự
cạnh tranh gay gắt.
Tóm lại, sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc và sự suy giảm sức mạnh tương
đối của Hoa Kỳ trong thập niên qua đã và đang làm thay đổi vai trò, tương quan
ảnh hưởng và quyền lực của hai nước này trên thế giới nói chung và với khu vực
Đông Nam Á nói riêng. Nếu tính cả “yếu tố Hoa” và hệ thống kinh doanh mạng
của người Hoa ở châu Á cũng như mối quan hệ làm ăn giữa người Hoa hải ngoại
với Trung Quốc lục địa, Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan thì ảnh hưởng kinh tế
của “nhân tố Trung Hoa” hiện nay ở Đông Nam Á đã vượt nhiều so với Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, về tổng thể, hiện tại Trung Quốc chưa thể vượt Hoa Kỳ về sức mạnh
tổng thể quốc gia cả cứng và mềm trên quy mô toàn thế giới. Hiện tại và trong
tương lai gần, thể chế chính trị của Trung Quốc chưa thể lôi cuốn nhiều nước trên
thế giới, kể cả nhiều nước ASEAN. Điều này là chưa kể đến sự phát triển của
Trung Quốc hiện nay đang bộc lộ nhiều điểm yếu, trong đó vấn đề ô nhiễm môi
trường đặc biệt nghiêm trọng và sự phân hoá giàu nghèo ngày càng trầm trọng,
thiếu hụt năng lượng đạt mức độ kỷ lục, xung đột sắc tộc và ly khai dân tộc đang
có chiều hướng gia tăng. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn đang có khả năng lôi kéo được
nhiều nước ủng hộ mình qua quan hệ đồng minh chiến lược và sức hấp dẫn về

khoa học, công nghệ và tính đổi mới, sáng tạo. Chính vì vậy, không chỉ hiện nay
và cả trong thập kỷ tới, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì vị thế siêu cường duy nhất. Tuy
nhiên, xu hướng “cân bằng thấp” quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ở Đông
Nam Á vẫn đang diễn ra.
3. Quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc và tác động đến Đông Nam Á
Tác động đến tình hình an ninh – chính trị ở Đông Nam Á, cũng như nhiều khu
vực khác, quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ trong lĩnh vực an ninh – chính trị
nói riêng ở khu vực Đông Nam Á cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố khách quan
và đặc biệt là trước sự điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ, Trung Quốc với khu vực
Đông Nam Á, và mối quan hệ của hai cường quốc này. Khu vực Đông Nam Á
Lịch sử quan hệ quốc tế


17

(gồm các nước ASEAN) tuy không phải là khối nước lớn có thể gây ảnh hưởng
chính trị đến các nước khác nhưng những năm gần đây lại trở nên có vị trí địa
chính trị quan trọng ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. ASEAN có thể trở
thành bàn đạp của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Mỹ coi ASEAN là vành đai kiềm chế Trung Quốc còn Trung Quốc muốn
mở rộng ảnh hưởng cường quốc của mình lên khu vực. Vì thế, quan hệ Mỹ - Trung,
dù vận động theo chiều hướng nào cũng đều có tác động đến ASEAN và cũng luôn
mang tính hai mặt, vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm quan hệ quốc tế ở ASEAN.
Trước hết là những tác động đến tình hình an ninh – chính trị của Đông Nam Á thì
có thể thấy dù quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc hoà hoãn, hợp tác hay bất đồng, căng
thẳng đều có thể ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế của Đông Nam Á. Nếu quan hệ
Hoa Kỳ - Trung Quốc hoà hoãn, ổn định thì chắc chắn sẽ tạo ra bầu không khí hoà
hợp cho cả khu vực Đông Nam Á. Từ đó, các nước ASEAN cũng có điều kiện
thuận lợi để mở rộng hoặc thắt chặt quan hệ hợp tác an ninh, chính trị với nhau
nhiều hơn. 10

Sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc cùng với sự suy giảm tương đối vị thế của
Hoa Kỳ và sự gia tăng cạnh tranh chiến lược cũng như hợp tác giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc trong những năm đầu thập niên thế kỷ XXI tạo ra không ít bối rối với
ASEAN và các nước thành viên. Để tiếp tục tồn tại và khẳng định mình như một
thực thể có vai trò quan trọng trong các vấn đề khu vực, ASEAN hơn lúc nào hết
đang nỗ lực mở rộng quan hệ đối tác và thực hiện cân bằng chiến lược trong quan
hệ với các nước lớn, tăng cường sức đề kháng của mình bằng việc thúc đẩy thành
lập Cộng đồng ASEAN (AC). Việc xây dựng AC và quyết tâm biến nó thành hiện
thực vào năm 2015 đã và đang thúc đẩy nhanh hơn tiến trình liên kết khu vực theo
xu hướng khu vực hoá. Điều này có tác động lớn đến môi trường an ninh và hợp
tác phát triển của khu vực Đông Nam Á. Việc xây dựng AC, trong đó có mục tiêu
biến ASEAN thành một thị trường chung sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự hội nhập kinh
tế quốc tế của từng quốc gia thành viên. Thông qua sự gắn kết sâu rộng, sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia cũng làm giảm mâu thuẫn và đối nghịch nhau.
Điều này sẽ tạo cơ hội cho ASEAN phát triển thành một khối thống nhất, thịnh
vượng. Tuy nhiên, trong trường hợp Hoa Kỳ - Trung Quốc hoà hợp đến mức cùng
hợp tác với nhau để tranh giành quyền lợi của các nước Đông Nam Á (ví dụ vấn đề
khai thác biển Đông) thì rõ ràng các nước ASEAN sẽ thiệt thòi và kém thế. Ngược
lại nếu quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc bất đồng, căng thẳng thì có thể khiến môi
trường an ninh, chính trị ở khu vực Đông Nam Á cũng bất ổn theo. Vì khi đó, cả
hai nước đều sẽ cố gắng lôi kéo các nước ASEAN vào mục đích của mình. Trong
ASEAN có Thái Lan, Phillippines là đồng minh của Hoa Kỳ, Việt Nam và Lào thì

Lịch sử quan hệ quốc tế


18

có thể chế chính trị gần giống Trung Quốc. Chắc chắn nếu quan hệ Hoa Kỳ Trung Quốc bất đồng sẽ xảy ra tình huống nội bộ các nước ASEAN phân hoá, chia
rẽ, ảnh hưởng đến quá trình hội nhập của khối và cản trở việc xây dựng AC. Tuy

nhiên, cũng có thể, sự bất đồng của Hoa Kỳ - Trung Quốc lại là cơ hội để các nước
ASEAN tăng thêm cơ hội mặc cả với hai nước cho quyền lợi của mình.
Tác động đến quan hệ kinh tế - thương mại ở Đông Nam Á, tương tự như những
tác động đối với tình hình an ninh – chính trị, mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc
cũng có tác động hai chiều, cả thúc đẩy lẫn kìm hãm, đến quan hệ kinh tế - thương
mại ở Đông Nam Á. Nếu quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc phát triển tốt đẹp vừa
mang lại một khu vực thịnh vượng, vừa là cơ hội để các nước ASEAN mở rộng thị
trường. Nhưng cũng có thể, ASEAN sẽ bị giảm một số vốn đầu tư từ Hoa Kỳ hay
Trung Quốc bởi hai nước này dành ưu tiên cho nhau trước. Nếu quan hệ Hoa Kỳ Trung Quốc không tốt đẹp, sự phát triển thịnh vượng của khu vực cũng giảm đi bởi
phải nói rằng, đây là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, sự phát triển hoà hợp của hai
nước không chỉ mang lại cho các nước ASEAN, láng giềng của Trung Quốc, một
khu vực kinh tế sôi động mà còn mở ra rất nhiều cơ hội hợp tác với các nước ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương.
IV. Nhận xét và kết luận
a) Nhận xét
Có thể nói, ở khu vực Đông Nam Á, mặc dù không còn tình trạng đối đầu giữa các
cường quốc, nhưng sự thay đổi tương quan lực lượng cùng với quá trình thay đổi
chính sách và điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đã tạo ra một tình thế không
chắc chắn về chiến lược, buộc các nước trong khu vực phải tìm biện pháp bảo
đảm an ninh cho mình.
Trong bối cảnh lịch sử mới đầu thế kỉ XXI, Mỹ và Trung Quốc là hai nước lớn
quan trọng nhất đối với Đông Nam Á, vừa có lợi ích chung, vừa có khả năng xảy
ra xung đột lớn. Về mặt duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực, hai nước MỹTrung có lợi ích chung. Đó là để đạt được mục tiêu làm dịu nhẹ những xung đột ở
Đông Nam Á, kiểm soát việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, pháp chế hóa
việc bảo vệ hòa bình và ổn định, Mỹ đều cần có sự hợp tác của Trung Quốc.
Được hổ trợ bởi nền kinh tế năng động và sức mạnh quân sự đã được củng cố,
Trung Quốc đang sử dụng cả những phương pháp mềm dẻo, ôn hòa lẫn các biện
pháp cứng rắng theo kiểu gây áp lực nước lớn, theo cách hành xử nước lớn đối với
các nước láng giềng ở khu vực. Kết quả là, một mặt, Trung Quốc đã gia tăng và
làm mở rộng ảnh hưởng đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị-an ninh

ở khu vực. Sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc đã làm cho
các nhà chiến lược Mỹ và nhiều nước lớn khác đặc biệt quan tâm. Mỹ nhiều lần

Lịch sử quan hệ quốc tế


19

tuyên bố “Mỹ là một quốc gia Thái Bình Dương, với những lợi ích bao trùm khu
vực”. Do đó, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đã chuyển dần từ “ đối tác
chiến lược” thời B.Clinton sáng đối thủ cạnh tranh, đối thủ tiềm tàng ở khu vực
thời G.Bush(con) và cả thời Obama. Trên thực tế, tất cả những yếu tố liên quan
đến cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á chưa bao
giờ nằm ngoài toan tính của hai nước này. Mặc dù Trung Quốc và Mỹ không đề
cập trực tiếp đến các nguyên nhân khiến họ lựa chọn hình thái “vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh”, thì những động thái mà hai quốc gia này thực hiện đã chứng minh
rằng, không có gì khác ngoài vấn đề lợi ích quốc gia. Vì lợi ích quốc gia của Mỹ
và Trung Quốc ở Đông Nam Á vừa có những điểm trùng hợp, vừa có những điểm
trái ngược, nên đây chính là nguyên nhân và cũng là mục đích xuyên suốt trông
quá trình cạnh tranh giữa hai nước.
Quá trình cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á đang ở
vào giai đoạn cao trào, được thể hiện trên cả hai mặt quyền lực cứng và quyền lực
mềm, bao gồm cạnh tranh quyền lực kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa. Quá trình
cạnh tranh này ngày càng trở nên gay gắt và có những ảnh hưởng sâu rộng không
chỉ ở khu vực mà còn trên toàn thế giới.
Tóm lại, Mỹ và Trung Quốc là hai nước đang có thế và lực rất lớn, đồng thời có
rất nhiều tham vọng trong việc đình hình nền chính trị thế giới tương lai. Tại khu
vực Đông Nam Á, sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng tăng lên
một cách mạnh mẽ, đe dọa đến những lợi ích của Mỹ trong khu vực, vì vậy, sự
cạnh tranh quyền lực gay gắt giữa hai nước ở khu vực là không thể tránh khỏi. Khi

nhìn vào thực trạng bản chất mối quan hệ Mỹ-Trung, lợi ích quốc gia luôn là vị trí
số một như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả chính sách của Mỹ, của Trung Quốc. Bên
cạnh đó, hai quốc gia thuộc tầm cỡ hàng đầu thế giới với những ưu thế khác nhau
trong khả năng chi phối công việc của thế giới lại đang có như cầu rất lớn ở những
khu vực bên ngoài, những điều kiện bên ngoài cho phát triển nên đều có tham
vọng chi phối các nước khác, có mong muốn tạo ra trật tự có lợi cho mình nhất.
Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho hai quốc gia này có sự cạnh tranh mạnh
mẽ với nhau ở nhiều khu vực, trong đó có Đông Nam Á.
b) Kết luận
Sau chiến tranh lạnh, Đông Nam Á vẫn là một khu vực phát triển năng động, đã
có nhiều chuyển biến tích cực trong quá trình hợp tác liên kết của ASEAN trên
các lĩnh vực. Điều này càng làm cho Đông Nam Á thu hút sự quan tâm của cộng
đồng quốc tế, đặc biệt là các nước lớn. Vị thế quốc tế của khu vực cùng ngày càng
quan trọng hơn, không chỉ xét từ góc độ chính trị, quân sự, chiến lược như trước
đây, mà cả ý nghĩa địa kinh tế và văn hóa. ASEAN trở thành một đối tác không
thể thiếu của các nước lớn và các trung tâm lớn trên thế giới, là nhân tố quan trọng
Lịch sử quan hệ quốc tế


20

thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hợp tác trên nhiều nấc khác nhau ở Đông Nam
Á, châu Á- Thái Bình Dương. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu thúc
đẩy các nước lớn, trước hết là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và ở mức độ nhất định
cả Nga, Ấn Độ, EU, ngày càng gia tăng cạnh tranh chiến lược với nhau nhằm mở
rộng ảnh hưởng và quyền lực tại khu vực trong những thập niên đầu thế kỉ XXI.
Sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở Đông Nam Á càng làm
tăng tính bất trắc, nhạy cảm của môi trường địa-chính trị khu vực, do đó tác động
sâu sắc đến an ninh, hợp tác và phát triển của ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Những thay đổi về vai trò và ảnh hưởng quyền lực giữa các nước lớn ở Đông Nam

A trong hơn một thấp kỉ qua và xu hướng đang tiếp diễn đã và đang làm tăng tốc
độ và quy mô liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng cả trong kinh tế, chính trị với
nhiều cấp độ, tầng nấc khác nhau. Điều này một mặt thúc đẩy tiến trình liên kết
ASEAN và theo đuổi chính sách cân bằng chiến lược và tính mở của tổ chức này,
mặt khác có thể làm ASEAN khó xử trong quan hệ với vài nước lớn, tăng điểm
nóng vốn tồn tại từ thời kỳ chiến tranh lạnh và thúc đẩy tranh chấp biển đảo, nhất
là ở khu vực biển Đông cũng như sự chạy đua vũ trang trong khu vực. Điều này
tác động tiêu cực đến các vấn đề an ninh phi truyền thống như làm tăng khủng bố
bạo lực, ô nhiễm môi trường của Đông Nam Á. Tất cả các quá trình trên đang làm
tăng nguy cơ bùng nổ xung đột cục bộ tại những mắc xích, điểm nóng trong khu
vực. Đông Nam Á chính là điểm xoáy chiến lược, thêm vào đó, các mối quan hệ
kinh tế, chính trị đan xen, nhiều tầng nấc vốn hiện diện tại khu vực này lại càng
làm cho môi trường hợp tác và cạnh tranh trở nên mạnh mẽ hơn. Chính vì vậy,
mức độ dung hòa lợi ích và quyền lực giữa các nước lớn nhỏ tại khu vực này cũng
mong manh, thiếu ổn định.
Do nằm ở vị trí địa chiến lược, nơi chứa đựng cả mâu thuẫn ý thực hệ tư tưởng và
địa chính trị, là một nước khá lớn về dân số, có bề dày lịch sử và tính độc lập, dân
tộc cao, Việt Nam đang và sẽ chịu tác động lớn cả tích cực và tiêu cực của những
biến động địa chính trị và trật tự Đông Nam Á hiện nay và trong những năm tới.
Chính vì vậy, đòi hỏi Việt Nam cần có những đối sách thích hợp để thích ứng với
các quá trình trên.

Lịch sử quan hệ quốc tế


21

Tài liệu tham khảo:
1. Thomas J. McCormick (2004): Nước Mỹ nửa thế kỷ - Chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong và sau chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Lý Thực Cốc (1998), Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
3. Tạ Minh Tuấn (2008), Một số đặc điểm nổi trội trong quan hệ Mỹ - trung từ
sau Chiến tranh Lạnh, Tạp chí nghiên cứu Trung quốc số 3 (82).
4. T.S Lê Văn Mỹ (2007): Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: Ngoại giao trong
bối cảnh quốc tế mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Học viện Quan hệ Quốc tế (2003): Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003

Lịch sử quan hệ quốc tế



×