Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Phát triển kinh tế biển ở tỉnh thái bình đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.7 KB, 83 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và triển khai đề tài “Phát triển kinh tế
biển ở tỉnh Thái Bình đến năm 2020 “ thì em đã hoàn thành đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
Đê hoàn thành khóa luận tốt nghiêp này thì đầu tiên em xin được gửi
lời cảm ơn chân thành nhất đến ban lãnh đạo nhà trường Kinh Tế Quốc Dân,
các thầy cô giáo khoa Kế hoạch - Phát triển đã tạo điều kiện tốt nhất giúp đỡ
em nghiên cứu hoàn thành đề tài này. Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới
các thầy cô giáo trong trường Đại học Kinh tế quốc dân những người đã trực
tiếp truyền đạt bồi dưỡng kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập. Vốn
kiến thức được tiếp thu đó không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu đề
tài mà là còn hành trang vững chắc để em bước vào đời một cách vững chắc
và tự tin.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo, T.S.Đặng
Thị Lệ Xuân đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này với tất cả tinh thần, trách
nhiệm và sự tận tâm nhiệt tình chỉ bảo.
Em cũng xin chân thành cảm ơn phòng Tổng hợp – Quy hoạch – Sở Kế
hoạch Đầu tư tỉnh Thái Bình và đông đảo bà con ngư dân trong huyện, khách
du lịch tại địa bàn vùng biển tỉnh Thái Bình đã nhiệt tình, tạo điều kiện thuận
lợi nhất giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã
quan tâm, động viên và ủng hộ, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
Tuy nhiên do những hạn chế về mặt thời gian, kiến thức và kinh
nghiệm nên khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự cảm thông cũng như góp ý, bổ sung từ quý thầy cô để đề tài
được hoàn thiện hơn
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!


2


Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên: Phạm Hưng


3

MỞ ĐẦU
I.GIỚI THIỆU CHUNG
1.Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ 21,”Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã
trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia
trên thế giới,kể cả các quốc gia có biển và quốc gia không có biển.Trong điều
kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, các nước ngày
càng quan tâm tới biển.Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian
kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển
và nghĩ đến phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian
kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển
phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa
học,công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để
tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên,nhiên liệu,năng lượng, thực
phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Thái Bình là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ,thuộc vùng biển và
ven biển phía Bắc, là tỉnh giàu tiềm năng, thế mạnh, phát triển toàn diện nông
nghiệp – lâm nghiệp – ngư nghiệp với 49,25km bờ biển. Vùng biển Thái Bình
thuộc ngư trường đánh bắt vịnh Bắc Bộ với hàng nghìn hecta mặt nước ở các
bãi bồi cửa sông thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản. Thái Bình với 5
cửa sông lớn đổ ra biển, tạo nên vùng bãi triều rộng trên 16 nghìn hecta, trong
đó diện tích khoanh nuôi thủy sản khoảng 10 nghìn hecta và hàng nghìn hecta
đất cấy lúa, làm muối kém hiệu quả có thể chuyển sang nuôi các loại thủy sản
mặn, lợ.Nhân dân ven biển cần cù chịu khó, có nhiều kinh nghiệm trong khai

thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vận tải biển.


4

Để khai thác những tiềm năng, thế mạnh về kinh tế biển của tỉnh, Đại
hội Đảng bộ tỉnh các khóa 14, 15 đều nhấn mạnh vai trò, vị trí và tầm quan
trọng của phát triển kinh tế biển, trong đó trọng tâm là kinh tế thủy sản và vận
tải biển. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16 đã xác định “
Đẩy mạnh khai thác kinh tế biển, nhanh chóng phát triển thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế biển,
bao gồm cả nuôi trồng, đánh bắt, chế biển, dịch vụ, vận tải và du lịch..”, coi
phát triển kinh tế biển là một trong năm trọng tâm cần tập trung tạo bước đột
phá tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Thực hiện chủ trương trên, những năm qua Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành xây dựng các quy
hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách huy động tổng hợp các nguồn lực để đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển và đã đạt được những kết quả khá tốt, bước đầu
phát huy được tiềm năng, lợi thế từ biển, góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh
trên địa bàn khu vực ven biển của tỉnh. Tuy nhiên kết quả phát triển kinh tế
biển những năm qua còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh
của tỉnh, chưa gắn kết đồng bộ giữa nuôi trồng, đánh bắt với chế biển và tiêu
thụ thủy sản, một số ngành kinh tế biển đang gặp khó khăn, phát triển chậm
lại như: chế biến thủy sản, đóng tàu, vận tải biển,..
Từ thực tế trên, tôi quyết định chọn đề tài “ phát triển kinh tế biển và khu
vực ven biển tỉnh Thái Bình đến năm 2020”
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế biển và ven biển của tỉnh Thái

Bình, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển kinh tế biển của tỉnh Thái
Bình.


5

2.2 Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế biển
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng, những khó khăn thách thức đối với
phát triển kinh tế biển tại địa phương.
Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kinh tế biển ở Thái Bình.
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, THU THẬP SỐ LIỆU:
Phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp phân tích hệ thống và tư duy logic
Người viết căn cứ vào các số liệu của các cơ quan,tổ chức khác để căn
cứ,suy luận,kế thừa và xây dựng bài viết của mình.
- Phương pháp thống kê, so sánh
Người viết dựa vào các số liệu,bản báo cáo đã thống kê được trong
từng giai đoạn từ đó thu thập, so sánh để từ đó chọn lọc những thông tin tin
cậy nhất, những số liệu thực tiễn giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn.
- Phương pháp điều tra chuyên sâu
Tham khảo ý kiến của những người có kiến thức sâu rộng hoặc có liên
quan trực tiếp đến vấn đề mà người viết quan tâm
Phương pháp thu thập số liệu:
- Tìm hiểu các báo cáo về phát triển kinh tế biển của tỉnh
- Các đánh giá của chuyên gia về tình hình phát triển phát triển kinh tế biển
của tỉnh
- Thu thập số liệu tại sở Kế hoạch đầu tư của tỉnh
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển kinh tế biển nói chung và
tỉnh Thái Bình nói riêng.


6

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Thực trạng, phương hướng phát triển kinh tế biển Thái
Bình trong thời gian tới
Về không gian: Vùng biển và ven biển của tỉnh Thái Bình
Về thời gian: Từ năm 2009 đến nay


7

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN
1.Một số vấn đề về biển và kinh tế biển
1.1 Khái niệm về biển và kinh tế biển
Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của
Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc
ta. Lấn biển để dựng nước đồng thời thông qua biển để giữ lấy nước đây là
nét độc đáo trong bản sắc văn hoá Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Công ước năm 1982, vùng biển của nước ta được mở rộng lên đến gần
một triệu km2, tiếp giáp với năm vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Tuy
nhiên, do tính đặc thù của môi trường biển nên mọi hoạt động của kinh tế biển
đều liên quan mật thiết và chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời

kinh tế biển ra khỏi kinh tế đất liền. Vì vậy, khi xem xét kinh tế biển, cũng
cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ, khía cạnh cần thiết. Do
vậy, việc thống nhất trong quan niệm chung về biển, kinh tế biển và kinh tế
vùng ven biển là cần thiết để nghiên cứu nội hàm của chúng.
Theo nghĩa chung nhất và theo truyền thống, biển được quan niệm là một
vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các Đại dương, hoặc là các hồ nước mặn
có thông với Đại Dương một cách tự nhiên; đôi khi, biển chỉ là một hồ nước
ngọt được khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra các biển cả lớn. Trong
đời sống thông thường biển được hiểu như một từ đồng nghĩa với Đại Dương
hoặc là các vùng nước Đại Dương nói chung.
Mặc dù vậy, về mặt khái quát kinh tế biển có thể hiểu, bao gồm:
Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế
hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản,
khai thác dầu khí ngoài khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế đảo...


8

Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác
biển, mặc dù không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này
lại liên quan đến yếu tố của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở
vùng ven biển – thông thường đó là hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển
(hoạt động này cũng được xếp vào kinh tế hàng hải), công nghiệp chế biến
dầu, khí, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, cung cấp dịch vụ biển, thông tin
liên lạc (biển), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục
vụ kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển ...
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm toàn bộ các
hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các
huyện ven biển hay các tỉnh tiếp giáp biển - có địa giới tiếp giáp biển) bao

gồm cả lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi
địa bàn đó.
Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên
biển và ở đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các
nguồn lợi kinh tế từ biển.
Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu chúng ta thấy đặc trưng của
kinh tế biển khác với các ngành khác, so với một số ngành kinh tế khác. Vì
kinh tế biển luôn mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực: Bao gồm nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ tác
động qua lại lệ thuộc lẫn nhau.
1.2 Vai trò của phát triển kinh tế biển:
Việt Nam một quốc gia có thể nói là giàu về tài nguyên biển với nhiều
những điều kiện thuận lợi phát triển. Khai thác biển cho phát triển kinh tế là
một cách làm đầy hứa hẹn, mang tính chiến lược và được đánh giá là đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta. Cụ thể đó là:
-

Thứ nhất, phát triển kinh tế biển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế của đất nước


9

Kinh tế biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế của cả nước. Kinh tế biển phát triển sẽ dẫn đến quy mô
kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên, cơ cấu ngành nghề thay đổi cùng với
sự xuất hiện của các ngành nghề mới. Năm 2005, GDP của kinh tế biển và
vùng ven biển bằng 48% GDP cả nước trong đó GDP của kinh tế biển chiếm
khoảng gần 22% tổng GDP cả nước. Quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven

biển Việt Nam bình quân năm 2010 đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong
đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả
nước. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp 50 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven
biển. Kinh tế biển phát triển kéo theo sự xuất hiện các ngành nghề gắn với
công nghệ - kỹ thuật hiện đại, ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển
kéo theo sự phát triển của một số ngành khác như công nghiệp hóa dầu, giao
thông vận tải biển, đánh bắt xa bờ, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ …
thương mại trong nước và khu vực. Việc khai thác nguồn lợi từ biển đã đóng
góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước, nhất là cho xuất khẩu. Góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế biển sẽ tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý,
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, mang lại một nguồn thu lớn cho
ngân sách quốc gia, thực hiện phân công lao động theo đúng hướng có hiệu
quả. Đồng thời, phát triển kinh tế biển góp phần sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế, tăng sức cạnh tranh và tạo động lực mãnh mẽ thúc đẩy
khoa học công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
-

Thứ hai, phát triển kinh tế biển góp phần khai thác có hiệu quả những tiềm
năng nguồn lực của biển và ven biển

+

Phát triển khai thác và chế biến dầu khí: Phát triển khai thác và chế biến dầu


10

khí đồng nghĩa với việc đẩy nhanh công tác tìm kiếm dò tìm các mỏ dầu khí,

đẩy nhanh khai thác và chế biến cho ra đời các sản phẩm. Phục vụ đáp ứng
một phần nhu cầu trong nước làm giảm áp lực nhiên liệu khi dầu khí là một
trong những nguồn nhiên liệu có giá trị hàng đầu trên thị trường thế giới. Dầu
khí là món hàng xuất khẩu mang lại một nguồn thu ngoại tệ lớn cho ngân sách
nhà nước, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển
nhanh nền kinh tế quốc dân.
+

Phát triển kinh tế hàng hải: Vai trò của phát triển kinh tế hàng hải thể hiện rõ
nhất là phát triển giao thông vận tải, dầu khí, điện lực và khai thác khoáng
sản. phát triển giao thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận
tải thấp nhất nhưng lại có thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất. Vì vậy
chính vận tải biển phát triển đã thúc đẩy thương mại các quốc gia, ngày càng
trở nên có hiệu quả. Phát triển vận tải biển thúc đẩy quá trính xuất nhập khẩu
hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp. Là nền tảng cho sự ra
đời của ngành công nghiệp cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu. Sự
phát triển một cách nhanh chóng của công nghệ đóng và sửa chữa tàu biển
thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của cả một nền kinh tế.

+

Phát triển đánh bắt nuôi trồng và chế biến thủy hải sản: Đây là nghề biển
truyền thống có thế mạnh của nước ta, hàng năm có thể khai thác 1,5 - 1,67
triệu tấn đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp
và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá với số lượng tàu thuyền tăng liên tục qua
các năm. Từ việc chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng
thủy sản trong những năm qua góp phần gia tăng sản lượng thủy sản, tăng
kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các năm. Nuôi trồng hải sản đã có góp phần
đáng kể vào chuyển đổi mạnh trong cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển. Chế
biến thủy hải sản là biện pháp giải quyết một phần sản lượng thủy hải sản

đánh bắt một vai trò nữa của nó đó là giúp giải quyết công an việc làm tại chỗ


11

cho người dân, tạo thêm thu nhập ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo thay
đổi cơ cấu kinh tế, góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo.
+

Phát triển du lịch biển, kinh tế đảo: Phát triển du lịch biển không chỉ tăng
nguồn thu từ du khách về với biển mà còn mang lại những tour du lịch cho
các địa điễm khác trong vùng trong khu vực. Nó là động lực thúc đẩy sự phát
triển các ngành KT đầu tư, thương mại, văn hóa, xã hội.
Không ít đảo có lợi thế địa lý có thể xây dựng thành trung tâm kinh tế
hải sản, với cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ biển xa hiện đại. Đặc biệt, trong
vùng quần đảo san hô có tới 1 triệu ha đầm phá chỉ có độ sâu từ 1-6m, thuộc
các rạn san hô vòng có môi trường thuận lợi nuôi trồng hải sản. Chính vì vậy,
mà việc phát triển kinh tế đảo có vai trò quan trọng không chỉ thúc đẩy kinh tế
biển phát triển mà kinh tế của cả nền kinh tế cũng có tăng trưởng.

+

Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất ven biển gắn với phát
triển các khu đô thị ven biển: Các khu kinh tế ven biển này sẽ là những hạt
nhân để góp phần hình thành các khu kinh tế năng động, thúc đẩy sự phát
triển chung, nhất là đối với các vùng nghèo trên các vùng ven biển của Việt
Nam; đồng thời tạo tiền đề thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là
vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế biển. Như vậy, sứ mệnh của các
khu kinh tế ven biển này chủ yếu là cùng với các thành phố lớn ven biển hiện
có tạo thành những trung tâm kinh tế biển mạnh, vươn ra biển xa. Các KCN,

KCX vùng ven biển có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất
công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của ngành kinh tế
biển qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

-

Thứ ba, phát triển kinh tế biển góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn; phát triển cơ sở hạ tầng
Kinh tế biển không chỉ tạo ra việc làm tạo thu nhập cho lao động sống ở


12

vùng biển và vùng ven biển mà phát triển kinh tế biển còn tạo ra việc làm và
thu nhập cho lao động từ các vùng miền khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ
của các ngành kinh tế biển phải cần một lực lượng lao động đủ mạnh để đáp
ứng kịp thời những nhu cầu sản xuất. Trong hoàn cảnh như vậy, khả năng tạo
việc làm tại chỗ thông qua các ngành nghề, lĩnh vực của kinh tế biển là một
hướng đi quan trọng có hiệu quả phù hợp với tâm lý và lợi ích người lao
động. Phát triển kinh tế biển làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu
nhập, góp phần ổn định đời sống cho người lao động, góp phần thức tỉnh tiềm
năng nguồn lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Bên cạnh đó các ngành
nghề về khai thác chế biến dầu khí, đóng sửa chữa tàu biển, giao thông vận tải
biển, du lịch biển … cần một đội ngũ quản lý tốt có trình độ cao khả năng
nắm bắt thị trường nhanh nhẹn, một lực lượng lao động có tay nghề chuyên
môn nghiệp vụ, có kỹ năng, phẩm chất cao đáp ứng yêu cầu của công việc.
Vô hình sự phát triển của kinh tế biển đã tạo nên một đội ngũ lao động có
công an việc làm ổn định mà còn giúp hình thành đội ngũ lao động công
nhân, trí thức lành nghề cho xã hội, góp phần ổn định tình hình văn hóa - xã

hội chung cho đất nước.
Phát triển kinh tế biển đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đảm bảo
đám ứng đúng đủ và kịp thời nhu cầu phát triển của nó. Các nhà máy, KCN,
KCX được hình thành với những yêu cầu cao trong kết cấu cơ sở hạ tầng, khoa
học kỹ thuật công nghệ phục vụ sản xuất, giúp hình thành nên một bộ mặt mới
của vùng biển và ven biển.
-

Thứ tư, phát triển kinh tế biển sẽ góp phần đảm bảo an nhinh quốc phòng,
giữ vững chủ quyền quốc gia
Biển là một không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc
phòng an ninh của đất nước. Phát triển kinh tế biển góp phần cũng cố quốc
phòng an ninh vùng biển, đảo, bảo vệ chủ quyền và quyền lợi quốc gia trên


13

biển. Những đặc điểm về địa hình địa thế và thủy triều khiến vùng biển nước
ta chi phối và ảnh hưởng một cách hết sức chặt chẽ, có ý nghĩa sống còn đối
với nền an ninh, quốc phòng trong phạm vi toàn quốc cũng như đối với từng
khu vực, từng địa phương trong cả nước. Đứng trên vùng biển đảo của nước
ta có thể quan sát, khống chế hệ thống giao thông huyết mạch của Đông Nam
Á. Đây cũng là nơi đang có những vụ tranh chấp quyết liệt, phức tạp về chủ
quyền của các quốc gia trong vùng biển Đông. Chính vì vị trí đặc biệt này,
việc phát triển kinh tế biển hiện nay luôn gắn liền với nhiệm vụ giữ vững an
ninh, chủ quyền quốc gia. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nước ta
cùng với dải đất liền ven biển thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự,
điểm tựa, pháo đài, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp. Ngày
nay trong quá trình phát triển kinh tế xây dựng đất nước, vùng biển đảo gắn
liền với vùng thềm lục địa đang triển khai mạnh công nghiệp, thăm dò và khai

thác dầu khí cùng với vùng đặc quyền kinh tế biển rộng lớn, chứa đựng nhiều
nguy cơ tranh chấp quốc tế và âm mưu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và đặc
quyền kinh tế biển Việt Nam. Vì thế việc kết hợp kinh tế với an ninh quốc
phòng trên vùng này trở nên vô cùng thiết yếu, một điểm nóng trong chiến
lược kinh tế biển Việt Nam là tất yếu khách quan để tồn tại và phát triển của
đất nước.
-

Thứ năm, phát triển kinh tế biển là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Phát triển kinh tế biển đồng nghĩa với việc giao thương với nhiều những
mối hàng khắp thế giới, chúng ta sẽ được tiếp xúc với những nền kinh tế trên
thế giới. Được buôn bán, cọ xát và tiếp cận với những nền kinh tế biển khác
nhau. Đó chính là những cơ hội để chúng ta học hỏi được những nét tiên tiến
và rút ra cho mình những kinh nghiệm trong phát triển kinh tế biển của đất
nước. Ngược lại khi quan hệ kinh tế được mở rộng kinh tế biển sẽ phát triển
cao, giải quyết tốt các vấn đề an ninh, tranh chấp quyền lợi trên biển Đông,


14

khai thác và tiêu thụ các nguồn dầu khí và hải sản có hiệu quả, thu hút khách
du lịch quốc tế. Mở rộng quan hệ kinh tế, hình thành quan hệ ngoại giao chính
trị sẽ là con đường thuận lợi thúc đẩy không chỉ cho sự phát triển của kinh tế
biển mà còn cả cho sự phát triển của cả nền kinh tế quốc dân.
Vai trò to lớn của kinh tế biển đang ngày càng được phát huy trong việc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong tương lai không xa sự phát triển kinh tế
biển sẽ là động lực là bệ phóng vững chắc đưa nền kinh tế nước ta tiến xa và
mạnh hơn nữa.
1.3 Đặc điểm của phát triển kinh tế biển nước ta hiện nay:
-


Thứ nhất. hoạt động kinh tế biển phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên, thị trường đầu ra và điều kiện thời tiết khí hậu
Hoạt động kinh tế biển với đối tượng lao động chính là biển và các
nguồn lợi từ biển chính vì thế mà nó chịu tác động và ảnh hưởng lớn từ các
nguồn tài nguyên của biển. Nguồn tài nguyên đó chính là trữ lượng thủy hải
sản vùng biển; Các khu dầu mỏ khí tự nhiên nằm dưới đáy biển; Hệ thống
nước lợ, nước ngập mặn phục vụ cho công tác nuôi trồng và chế biến thủy hải
sản; Vị trí địa lý thuận lợi mà thiên nhiên mang lại cũng chính là một trong
những lợi lớn trong việc khai thác và phát triển hàng hải biển. Cảnh quan
thiên nhiên là nguồn lợi phát triển kinh tế biển. Với nguồn tài nguyên dồi dào
sẽ là nền tảng lớn vững chắc thúc đẩy việc khai thác và phát triển kinh tế biển.
Ngược lại khi những nguồn tài nguyên này bị khai thác một cách bất hợp lý
dẫn đến cạn kiệt hoặc nó chỉ tồn tại với trữ lượng thấp nó sẽ là rào cản rất lớn.
Riêng đối với ngành du lịch nếu không có những ưu thế về vẻ đẹp của biển
mà tạo hóa thiên nhiên ban tặng cho vùng biển thì rất khó có thể phát triển,
đối với những nguồn tài nguyên không thể tái tạo như dầu khí thì việc khan
hiếm chính là dấu chấm hết cho ngành công nghiệp khai thác và chế biến dầu
khí. Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập nghĩa là phải cạnh tranh quốc tế để


15

tồn tại và phát triển. So với sự phát triển kinh tế biển của thế giới thì thấy rõ
ràng rằng với lợi thế nằm trên bờ tây của biển Đông - một biển lớn, thuộc loại
quan trọng nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới nhưng Việt
Nam thật sự chưa khai thác được hết thế mạnh của kinh tế biển.
Nếu tài nguyên thiên nhiên là đầu vào thì người tiêu dùng, khách du
khách, tàu thuyền, hàng hóa, các thị trường nông sản, chợ, nguồn dự trữ năng
lượng là các thị trường đầu ra cho các sản phẩm kinh tế biển. Đây là yếu tố

quyết định đến hiệu quả sản xuất hoạt động kinh tế biển
Ngoài ra, các ngành nghề trong lĩnh vực kinh tế biển còn chịu ảnh hưởng
lớn của điều kiện thời tiết khí hậu. Điều kiện thời tiết thuận lợi, nắng nhiều,
không xuất hiện hạn hán mưa bão hay lũ quét là những điều kiện được xem là
-

thuận lợi cho các hoạt động kinh tế biển.
Thứ hai, các ngành nghề kinh tế biển phát triển với qui mô ngày càng tăng,
song còn chậm và thấp
Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và
sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy, hải sản, thông tin liên lạc,
v.v... bước đầu phát triển với quy mô tăng lên hàng năm, song quy mô còn
nhỏ chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước. Các ngành
kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm dầu, khí; chế biến
thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các
dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tìm kiếm cứu nạn hàng hải,
dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa
học - công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên, v.v...), chủ yếu mới ở mức đang
bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ. Du lịch biển là một tiềm
năng kinh doanh lớn ở nước ta nhưng ngành du lịch biển vẫn chưa có những
sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế.
Việt Nam cũng chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt quy mô và trình độ


16

quốc tế.
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành nghề kinh tế biển, dân cư sống
ở các đảo còn thấp, tỷ lệ lao động có tay nghề chuyên môn nghiệp vụ chưa
cao. Lao động trong lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu là lao động nông thôn

không có công việc làm ổn định tham gia đi biển khai thác, nuôi trồng hoặc
chế biến thủy hải sản. Một bộ phận lao động tham gia kinh doanh dịch vụ du
lịch biển. Một đội ngũ lao động có chuyên môn nghiệp vụ là công nhân, nhân
viên làm việc trong các hoạt động du lịch, giao thông vận tải biển, khai thác
chế biến dầu khí, hoặc cán bộ quản lý nền kinh tế biển.
-

Thứ ba, các hoạt động sản xuất kinh doanh biển đòi hỏi một lượng vốn lớn
Hoạt động sản xuất kinh doanh biển luôn đòi hỏi một lượng vốn cũng
như các phương tiện kỹ thuật, cơ sở hạ tầng lớn. Bởi trong khai thác thủy hải
sản cần một lượng vốn lớn để đầu tư mua tàu thuyền, xăng dầu, nguyên liệu
và cả lương thực để phục vụ cho hoạt động khai thác ngoài khơi xa. Nuôi
trồng thủy hải sản cần vốn mua giống, thức ăn cho vật nuôi. Các ngành vận
tải biển, du lịch biển hay khai thác dầu khí là những ngành yêu cần lượng vốn
đầu tư trang thiết bị, phương tiện kỷ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu phát
triển. Hoạt động kinh tế biển cần một hệ thống trang thiết bị không chỉ khổng
lồ mà còn phải hết sức tối tân hiện đại để có thể phục vụ cho các nhu cầu cao
từ nguồn nhu cầu trong và ngoài nước, phục vụ cho công tác tìm kiếm các
nguồn tài nguyên dưới đáy biển. Không chỉ nền kinh tế biển nước ta mà các
nền kinh tế biển trên thế giới cũng gặp rất khó khăn trong việc huy động vốn

-

để phát triển.
Thứ tư, hoạt động sản xuất kinh tế biển mang tính nguy hiểm cao
Hoạt động sản xuất trong các ngành nghề liên quan đến biển thường
xuyên gặp phải nhiều mối nguy hại. Nó có thể xuất phát từ thiên nhiên như:
bão, hoạt động núi lửa, sóng thần … Những mối nguy hiểm này khó được dự



17

báo trước một cách kịp thời và chính xác. Ngoài ra, bản thân người lao động
yếu ớt, đơn lẻ khó chóng chọi với thiên nhiên. Mức đầu tư sản xuất cao song
hiệu quả kinh tế mang lại còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố chủ quan và
khách quan, đây cũng là một lý do khiến các hoạt động sản xuất kinh tế biển
mang tính rũi ro cao.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển
Kinh tế biển là một phức hợp các ngành, các lĩnh vực và các bộ phận liên
quan, tương tác lẫn nhau trong quá trình phát triển. Việc phát triển kinh tế
biển có tốt, có mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố. Trong đó có thể kể đến một số yếu tố sau:
Thứ nhất là vị trí: Đây là một điều kiện hết sức cần thiết cho mọi quốc
gia, vùng trong phát triển kinh tế biển. Vị trí này được xét ở 2 góc độ: một là
vị trí có biển hay gần biển. Nếu có biển là điều kiện để phát triển trực tiếp
kinh tế biển, còn chỉ gần biển thì sẽ xây dựng định hướng hợp tác với quốc
gia, vùng có chủ quyền biển đó. Hai là vị trí địa lý – kinh tế biển chiến lược,
một quốc gia có vị trí biển chiến lược sẽ là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu cho phát triển kinh tế biển, ví như Việt Nam có phần biển đặc biệt
nằm trên hai tuyến hải hành và các luồng giao thương quốc tế chủ yếu của thế
giới, nhất là trong thời đại bùng nổ phát triển Châu Á-Thái Bìn Dương
Thứ hai là tiềm năng tự nhiên của vùng biển và ven biển: Đây cũng là
yếu tố “cần” đồng thời nó còn là một phần của yếu tố “đủ” cho mọi quốc gia
trong phát triển kinh tế biển. Trong tiềm năng tự nhiên có thể kể đến quy mô
và chất lượng của tiềm năng. Nếu quốc gia có bờ biển dài, diện tích lãnh hải
thuộc chủ quyền rộng, khả năng tiếp cận dễ dàng đến đại dương, có các nguồn
tài nguyên thiên nhiên giàu có, nhiều bãi biển đẹp, nhiều vịnh nước sâu… Đó
là điều kiện tốt để phát triển tổng hợp kinh tế biển.
Thứ ba là chính sách phát triển của nhà nước trong công tác nghiên cứu



18

tổ chức quy hoạch phát triển kinh tế biển. Đây có thể coi là nhân tố “đủ” để
phát triển kinh tế biển và quyết định sự sống còn của kinh tế biển. Nếu chúng
ta có vị trí tốt, có tiềm năng phong phú, đa dạng… nhưng chúng ta không chịu
tìm hiểu, nghiên cứu và đưa ra một chiến lược phát triển đúng đắn thì kinh tế
biển vẫn ở dạng tiềm năng, thậm chí chưa kể đến việc mất dần nguồn lợi, tụt
hậu xa so với các nước khác.
Thứ tư là khoa học - công nghệ, đặc biệt là khoa học công nghệ trong
lĩnh vực biển.Phát triển kinh tế biển không thể tách rời với khoa học, công
nghệ vì nó là điều kiện để khai thác tốt các tiềm năng kinh tế biển. Có khoa
học công nghệ, các lợi thế về biển được khai thác tốt hơn, hiệu quả hơn,…
Tóm lại: Phát triển kinh tế biển cần xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau và cần phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tác động, nhằm đưa ra giải
pháp quy hoạch thích hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất trong tiến trình
phát triển.
1.5 Bảo vệ môi trường biển và phát triển bền vững kinh tế biển
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của hiện tại
mà không làm thiệt hại đến khả năng của các thế hệ tương lai được thỏa mãn
các nhu cầu của chính họ
Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế đơn thuần mà phải
được hiểu tổng quát là nâng cao hạnh phúc của nhân dân, bao gồm nâng cao
các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, đảm bảo sức khỏe và đảm bảo sự bình
đẳng và các quyền lợi khác. Nội dung quan trọng của phát triển bền vững của
xã hội là bảo vệ đa dạng sinh học của Trái Đất và hạn chế việc làm suy giảm,
cạn kiệt các nguồn tài nguyên, nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo. Vì
vậy để đảm bảo phát triển bền vững, quá trình phát triển kinh tế phải gắn kết
với yêu cầu bảo về môi trường. Tăng cường kinh tế không gây suy thoái môi
trường. Tăng thu nhập xã hội kết hợp với các chính sách môi trường khôn



19

ngoan và một thể chế xã hội vững mạnh sẽ là cơ sở để giải quyết tốt cả hai
vấn đề môi trường và phát triển
Các hệ sinh thái ven biển và ven bờ với tính chất đa dạng sinh học cao,
là nguồn vốn thiên nhiên quý giá cho phát triển kinh tế biển phồng vinh trong
thế kỉ 21 này. Nhưng đó là hệ sinh thái mong manh, dễ bị suy thoái vì vậy
phát triển kinh tế biển phải dựa trên cơ sở kinh tế sinh thái, là hướng để tiến
tới phát triển bền vững.
Đối với kinh tế biển, việc phát triển bền vững đòi hỏi thực hiện đồng bộ
nhiều yếu tố. Trước hết, dựa trên những lợi thế về biển khai thác một cách
tổng hợp kinh tế biển để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ được
môi trường. Tiếp đến là bảo về môi trường biển vì môi trường này là một thể
thống nhất không chia cắt với vùng bờ và vùng nước xung quanh, nên nếu
một phần biển nào bị ô nhiễm sẽ gây ảnh hưởng tới các vùng khác. Trong quá
trình khai thác tổng hợp kinh tế biển phải chú ý đến môi trường đảo vì đây là
nơi có diện tích không lớn, lại tách rời đất liền, rất nhạy cảm với những thay
đổi. Cuối cùng là cần có sự phối hợp với các quốc gia láng giềng có vùng biển
chung về phát triển kinh tế biển nhằm bảo về môi trường biển đạt kết quả tốt,
tạo nên sự phát triển bền vững chung.
2.Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam
2.1. Khai thác, nuôi trồng thủy hải sản
Đây là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta. Trong số những lợi
ích mà biển đem lại, kinh tế thủy hải sản chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, đan
xen giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài theo một ý nghĩa đầy đủ của nó. Vì
thủy sản là nguồn tài nguyên tái tạo và kinh tế thủy sản phát triển dựa trên nền
tảng của các hệ sinh thái, nên có thể khẳng định “còn biển, còn thủy sản”
Với vùng biển rộng, nguồn sinh vật đa dạng, phong phú, nguồn lợi thủy sản

nước ta vào loại phong phú trong khu vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính, còn


20

có nhiều loại đặc sản có giá trị kinh tế cao. Số liệu thống kê cho thấy, Trữ lượng
hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế nước ta khoảng 3,5 – 4,1 triệu tấn, hàng năm
có thể khai thacs1,5-1,6 triệu tấn, trong vùng biển Việt Nam có khoảng 11000 loài
sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh
học biển khác nhau. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, ngoài ra, còn
có các bãi tôm quan trọng ở vùng biển gần bờ thuộc vịnh Bắc Bộ và biển Tây
Nam Bộ. Ven biển có trên 37ha mặt nước lợ, thích hợp để nuôi các loại thủy sản
xuất khẩu như: cá, tôm, cua,…
* Các tiêu chí phản ánh phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy sản
a) Nhóm chỉ tiêu số lượng và nâng cao công suất tàu đánh bắt thủy sản
Số tàu và mức tăng số lượng tàu thuyền. Công suất và mức tăng công suất
tàu thuyền đánh bắt
b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh diện tích nuôi trồng
Mức tăng diện tích nuôi trồng thủy hải sản tăng
c) Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng vốn
Tổng vốn và mức tăng vồn cho đánh bắt thủy sản. Tổng tài sản cố định và
mức tăng tài sản cố định trong đánh bắt thủy sản
d) Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng lao động
Tổng số lao động và mức tăng lao động cho đánh bắt thủy sản
e) Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng sản lượng nuôi trồng, đánh bắt
Sản lương và mức tăng sản lượng nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Tổng giá trị
nuôi trồng, đánh bắt thủy sản
2.2. Du lịch biển
Với hơn 3260 km dài đường bờ biển, hơn 1 triệu km2 diện tích mặt nước
biển và trên 2773 đảo ven bờ cùng hàng loạt các bãi tắm cát trắng trải dài từ Bắc

tới Nam, đã thu hút được nhiều du khách thập phương đến tham quan, nghỉ
dưỡng. Du lịch biển đảo chiếm khoảng 70% trong hoạt động của ngành du lịch


21

Việt Nam và được xem là một trong 5 hướng đột phá về phát triển kinh tế biển.
Dọc bờ biển có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch nghỉ
dưỡng, trong đó có 20 bãi biển đã được đầu tư và khai thác đạt chuẩn quốc tế.
* Các tiêu chí phản ánh phát triển du lịch biển
a) Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch biển
Số lượng cơ sở lưu trú, số cơ trở lưu trú đạt tiêu chuẩn xếp hạng cao, số nhà
hàng, số nhà hàng đạt tiêu chuẩn phục vụ xếp hạng cao, sô trung tâm mua sắm,
các khu vui chơi giải trí
b) Phát triển sản phẩm du lịch biển
Gia tăng số lượng các dịch vụ du lịch biển
Gia tăng mức độ hài lòng của khách du lịch biển
c) Phát triển nguồn nhân lực du lịch biển
Gia tăng số lượng lao động ngành du lịch biển, trình độ nguồn nhân lực du
lịch biển và chất lượng phục vụ ngày càng nâng cao
d) Gia tăng kết quả và đóng góp của du lịch biển
Gia tăng lượng khách du lịch và số ngày lưu trú
Gia tăng mức chi tiêu, doanh thu của du lịch biển
Gia tăng tỉ lệ đóng góp của du lịch biển vào giá trị sản xuất/GDP của địa
phương
Gia tăng việc làm, thu nhập của địa phương
2.3. Kinh tế hàng hải
Nước ta có trên 3260 km đường bở biển và có nhiều vị trí có thể xây dựng hệ
thống cảng biển, đủ điều kiện cho khối lượng hàng hóa lớn thông quan mỗi năm,
đồng thời đảm bảo cho ngành sửa chữa, đóng mới phương tiện thủy và các ngành

dịch vụ biển phát triển cả trong hiện tại và tương lai.
* Các tiêu chí phản ánh phát triển kinh tế hàng hải
a) Phát triển cơ sở hạ tầng ngành hàng hải


22

Hệ thống cảng biển, trang thiết bị bốc xếp tại cảng nhằm tăng sản lượng
cũng như thời gian lưu chuyển hàng hóa
Hệ thống bến bãi, kho chứa đúng với tiêu chuẩn từng loại hàng hóa
b) Tăng trọng tải tàu, sản lượng hàng hóa
Gia tăng số lượng tàu, tổng trọng tải tàu
Gia tăng lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu
c) Phát triển nguồn nhân lực ngành hàng hải
Gia tăng số lượng lao động ngành hàng hải, trình độ nguồn nhân lực
d) Gia tăng đóng góp và kết quả của ngành hàng hải
Gia tăng tỉ lệ đóng góp của ngành hàng hải vào giá trị sản xuất/GDP của địa
phương
Gia tăng việc làm, thu nhập của địa phương
2.4. Khai thác khoáng sản trên thềm lục địa và làm muối
Các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn ở vùng ven biển là than, sắt,
cát thủy tinh và các loại vật liệu xây dựng khác
Ngành dầu khí: là một trong những ngành chủ lực của kinh tế biển, có đóng
góp quan trọng tới nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, Việt Nam có tên trong danh
sách các nước sản xuất dầu khí trên thế giới và đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam
Á về sản lượng khai thác dầu thô
Làm muối: Với bờ biển dài 3260km, bãi rộng, số giờ nắng cao là điều kiện
thuận lợi cho nghề làm muối. Ven biển nước ta đã có 20 tỉnh thành có nghề sản
xuất muối biển với tổng diện tích 15000 ha và trên 80000 lao động nghề muối.
Một số đồng muối nước ta được đánh giá là muối sạch, ngon của thế giới, có khả

nang xuất khẩu với số lượng lớn muối công nghiệp và muối sạch cho tiêu dùng.
2.5 Khai thác, phát triển lâm nghiệp ( rừng ngập mặn ) ven biển
Lâm nghiệp ven biển từ lâu đời đã cho thấy ý nghĩa to lớn của nó là bảo vệ
môi trường, tạo đa dạng sinh học ven biển và chống bão, gió, cát bay


23

Trong những năm vừa qua do chạy theo đánh bắt thủy sản ven bờ quá mức
mà người dân sinh sống ven biển đã chặt phá, hủy hoại các khu rừng ngập mặn
ven biển. Nhiều cơ quan, chuyên gia môi trường và phát triển bền vững đã lên
tiếng cảnh báo những tác động xấu, tiêu cực do chặt phá rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn ven biển ở Việt Nam là hệ thống sinh thái có giá trị bảo vệ
môi trường cao, ngăn ngừa thiên tai và tạo sự bền vững trong phát triển kinh tế xã
hội. Những khu rừng ngập mặn dọc ven biển Việt Nam làm giảm thiểu tác động
của lũ lụt và những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đồng thời làm giảm nhẹ các tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã được các chuyên gia thay đổi khí hậu dự
báo là vô cùng khắc nghiệt ở Việt Nam. Tuy nhiên, những năm gần đây rừng ngập
mặn ở Việt Nam hiện tại đang bị suy thoái nghiêm trọng do sự phát triển kinh tế
không tôn trọng quy luật tự nhiên.
Do vậy đi đôi với việc phát triển kinh tế biển cần có sự chú trọng trong việc
tái tạo, phát triển các khu rừng ngập mặn để tái tạo môi trường tự nhiên, phát triển
bền vững
2.6 Các lĩnh vực khác
2.6.1 Đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hóa xã hội ven biển
Nước ta là một nước nông nghiệp với đại bộ phận dân số sống ở nông thôn.
Hơn nữa, đại bộ phận nông thôn nước ta còn trong tình trạng kém phát triển về
kinh tế-xã hội, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và lạc hậu, điển hình là giao thông và
thông tin liêc lạc. Đi cùng với sự phát triển kinh tế thì nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ
tầng phải lớn hơn sự phát triển kinh tế, nếu không cơ sở hạ tầng sẽ là lực cản trong

phát triển kinh tế.
Bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng thì việc phát triển nông thôn, xây
dựng phát triển đô thị cũng là một vấn đề cấp bách, liên quan mật thiết tới phát
triển kinh tế


24

2.6.2 Công tác quốc phòng, an ninh góp phần bảo vệ vững chắc biển đảo
trong quá trình phát triển kinh tế
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng
của mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng bảo
đảm cho dân tộc phát triển bền vững nói chung và kinh tế biển nói riêng. Thời
gian qua sự biến đổi không lường của tình hình thế giới, khu vực và trên biển
Đông khiến nhiệm vụ, phòng thủ bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở
thành nhiệm vụ nhiều khó khăn, đầy thách thức. Hơn nữa, Nghị quyết 03/NQ/TW ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”; Chỉ thị 20-CT/TW ngày
22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng CNH, HĐH”; đặc biệt là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020” trong Nghị quyết TW 4 (khoá X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước
ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”, càng cho thấy vấn đề an
ninh, quốc phòng biển trở nên cấp bách.


25

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở TỈNH
THÁI BÌNH
1.ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH THÁI BÌNH

1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội
1.1 Vị trí địa hình
Thái Bình là một trong 28 tỉnh, thành phố trong cả nước giáp biển, có bờ
biển dài 54km với 5 cửa sông lớn, có cảng biển Diêm Điền và 10 bến đậu tàu
thuyền thuận lợi cho phát triển vận tải biển và thủy nội địa, vùng biển rộng trên
3000km2, bãi triều rộng khoảng 25.000 ha với hàng nghìn ha rừng Sú, Vẹt phía
ngoài đê biển và 3 cồn nổi gần bờ (cồn Vành, cồn Thủ, cồn Đen) tạo nên hệ thống
phòng thủ ven biển vững chắc, kết hợp với nuôi trồng thủy hải sản, trồng rừng
ngập mặn, du lịch sinh thái.
1.2 Khí hậu, thời tiết
Thái Bình nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, tiểu vùng khí hậu
duyên hải. Khí hậu của tỉnh phân biệt làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng ẩm mưa nhiều
trong năm kéo dài từ tháng 4 tới tháng 10, những tháng còn lại là mùa khô hanh, ít
mưa. Trung bình nhiệt độ ở đây là 23 độ C, lượng mưa từ 1500-1900 mm, độ ẩm
không khí từ 70-90%, số giờ nắng giao động từ 1600-1800 giờ mỗi năm.Thái
Bình có 5 cửa sông lớn và đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều. Vào mùa hè,
các sông này có mức nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao, vào
mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. Khí hậu và thủy
văn của tỉnh đã đem lại cho nơi đây nhiều ưu đãi về số lượng các loài động vật,
thực vật biển và những yếu tố cơ bản để nuôi trồng thủy hải sản. Bên cạnh những
thuận lợi thì cũng có những khó khăn nhất định như: phải hứng chịu nhiều đợt
thiên tai, bão lũ gây thiệt hại cho nông dân, đặc biệt là đối với bà con nông dân


×